• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ - Tập 1
  3. Trang 13

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 23
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 23
  • Sau

CHƯƠNG 3PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA THỜI KỲ ĐẦU

att

1. Kinh Điển Lưu Bố

Trong thế kỷ I TCN, Phật pháp Đại thừa bắt đầu khởi sắc, đây là Phật pháp mà lại là Phật pháp Đại thừa (Mahāyāna). Phật pháp có khuynh hướng theo lý tưởng, siêu hình học, là tín ngưỡng nhưng lại bình dân phổ cập hóa. Kinh điển Đại thừa được hoằng truyền với nội dung trước sau không có sự đồng nhất, chúng ta có thể phân làm hai thời kỳ, đó là Đại thừa thời kỳ đầu và Đại thừa thời kỳ sau. Sự phân chia thời kỳ đầu và thời kỳ sau là căn cứ trên kinh điển, như ba lần chuyển pháp luân ở trong Giải thâm mật kinh: “Sơ chuyển là (Thanh văn) Phật pháp, nhị chuyển và tam chuyển là sơ kỳ và hậu kỳ của Phật pháp Đại thừa”1. Lại như trong phẩm Đà La Ni Tự Tại Vương của Đại tập kinh nói: “Ban đầu nói vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh; thứ đến là nói không, vô tướng, vô nguyện; sau là nói chuyển pháp luân bất thoái, khiến cho chúng sinh vào được cảnh giới của Như Lai”2, cũng chính là nêu rõ sự sai biệt trước sau của Đại thừa. Nói một cách đại khái: cho tất cả pháp không (sarva-dharma-śūnyatā) là pháp liễu nghĩa, thì đó là Đại thừa thời kỳ đầu; cho tất cả pháp không là không cứu cánh, mà phải là “không luôn cái không của nó, có (có là bất không) với cái có của nó” thì đó là Đại thừa thời kỳ sau. Sự xuất hiện của kinh điển Đại thừa thời đầu là khoảng giữa thế kỷ I TCN đến thế kỷ II, song quá trình hoằng truyền kinh điển ấy cũng có sự trước sau khác nhau. Tuy nhiên, cũng có một số tư tưởng tương đồng với “sơ kỳ”, nhưng lại được hoằng truyền ở “hậu kỳ”, điều này giống như Phật giáo bộ phái là có trước thời Đại thừa, nhưng thời gian Đại thừa đang lưu hành, thì Phật giáo bộ phái cũng lưu hành và phát triển.

1 Huyền Trang dịch, Giải thâm mật kinh, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 16, trang 697ab.

2 Lặc Na Ma Đề dịch, Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận, quyển 2, dẫn theo kinh. Đại chính tạng, quyển 31, trang 822a; Đàm Vô Sấm dịch, Đại phương đẳng đại tập kinh, phẩm 2, Đà La Ni Tự Tại Vương Bồ tát. Đại chính tạng, quyển 13, trang 21c.

Kinh điển của Đại thừa thời kỳ đầu được phân ra rất nhiều bộ loại, khuynh hướng của Phật pháp Đại thừa là truyền ra với nhiều phương diện, không phải giới hạn vài khu vực hoặc chỉ truyền cho một thiểu số người. Những kinh điểu ban đầu lưu truyền là Tiểu bộ, dần dần mở rộng thành Đại bộ, như Bát nhã kinh. Hoặc từng loại truyền ra, sau đó căn cứ theo tính chất tương đồng của kinh mà tập hợp lại, như Hoa nghiêm kinh. Muốn xác định được Đại thừa thời kỳ đầu gồm có những kinh điển nào là điều không phải dễ dàng. Nhà dịch kinh Cưu Ma La Thập (Kumārajīva) tuy xuất hiện muộn vào đầu thế kỷ V, nhưng Đại trí độ luận và Thập trụ Tỳ bà sa luận của Long Thọ mà Ngài dịch là những luận điển của đầu thế kỷ III. Trong luận dẫn rất nhiều kinh điển Đại thừa, tính chất của kinh đều thuộc về thời kỳ đầu, nhưng so ra vẫn còn sớm hơn đối với những kinh điển được Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa) dịch, đại đa số kinh điển của những năm cuối thế kỷ III.

Kinh Đại thừa được Long Thọ trích dẫn vào trong luận của ông, có ghi tên kinh, tất cả gồm hai mươi sáu bộ; những tên kinh không được nêu nhưng nội dung rõ ràng có thể thấy được thì gồm tám bộ; có khả năng vẫn chưa dịch thành Hán văn có ba bộ; lại còn nêu rõ tên kinh gồm chín bộ. Trước tiên, tôi xin nêu ra những kinh điển sau đây rất đáng tin cậy là của Đại thừa thời kỳ đầu.

Thuộc Bát nhã bộ, có Thượng phẩm gồm mười vạn kệ tụng, tương đương với phần đầu của Đại Bát nhã kinh do Huyền Trang dịch; Trung phẩm gồm hai vạn hai nghìn kệ tụng, tương đương với phần thứ hai trong Đại Bát nhã kinh; Hạ phẩm - Đạo hạnh Bát nhã, tương đương với phần thứ tư và phần thứ năm của Đại Bát nhã kinh. Trung phẩm và Hạ phẩm, xưa nay ở Trung Quốc đều gọi là Đại phẩm và Tiểu phẩm.

Thuộc Hoa nghiêm bộ, có Hoa tạng thế giới phẩm, Thập địa phẩm, Nhập pháp giới phẩm.

Thuộc Bảo tích bộ, có Mật tích kinh tương đương với Hội thứ ba; A Di Đà Phật kinh tương đương với Hội thứ năm; A Súc Phật kinh tương đương với Hội thứ sáu; Uất Già trưởng giả vấn kinh tương đương với Hội thứ chín; Ly cấu thí nữ kinh tương đương với Hội thứ ba mươi ba; Bảo đảnh kinh tương đương với Hội thứ bốn mươi ba. Đây là nguyên thủy của Bảo tích kinh, Đại bảo tích kinh tổng cộng gồm bốn mươi chín hội, chính là tập hợp những kinh trên mà biên tập thành. Căn cứ vào Thập trụ Tỳ bà sa luận, Vô Tận Ý Bồ tát kinh ban đầu là thuộc Bảo tích bộ, nhưng nay được biên tập vào trong Đại tập kinh1.

1 Long Thọ, Thập trụ Tỳ bà sa luận, quyển 16. Đại chính tạng, quyển 26, trang 109c.

Không thuộc vào bộ lớn, như Thủ lăng nghiêm tam muội kinh; Ban chu tam muội kinh, được đời sau biên tập thành Đại tập bộ, nhưng ý kinh không thích hợp cho lắm; Hiền kiếp tam muội kinh, Hoằng đạo quảng hiển tam muội kinh, Tỳ Ma La Cật kinh, Pháp hoa kinh, Tam thập tam thiên phẩm, tức là Phật thăng Đao Lợi thiên vi mẫu thuyết pháp kinh, Phóng bát kinh, Đức nữ kinh, Tự Tại Vương Bồ tát kinh, Hải Long Vương kinh, Đại Thụ Khẩn Na La Vương sở vấn kinh, Văn Thù Sư Lợi tịnh luật kinh, Bảo Nguyệt đồng tử sở vấn kinh, phẩm Trừ tội nghiệp trong Tam chi kinh, tương đương với Xá Lợi Phất hối quá kinh, Trí ấn kinh, Chư Phật bổn khởi kinh, Chư pháp vô hạnh kinh, Bất tất định nhập định nhập ấn kinh, Đãi nhân (thế) kinh, Quyết Định Vương Đại thừa kinh, Tịnh đức kinh, Phú Lâu Na Di Đế Lệ Da Ni Tử kinh.

Ngoài ra chỉ nói tên kinh mà không rõ nội dung, như Vân kinh, Đại vân kinh, Pháp vân kinh, đây đều là những bộ lớn, mỗi kinh gồm mười vạn kệ tụng. Đại vân kinh do Đàm Vô Sấm (Dharmarakṣa) dịch, nhưng không rõ có phải là một phần của mười vạn kệ tụng trong Đại vân kinh không? Lục Ba la mật kinh có lẽ là Lục độ tập kinh. Di Lặc vấn kinh có thể tương đương với Hội bốn mươi mốt hoặc Hội bốn mươi hai của Đại bảo tích kinh. Bản Đại bi kinh được Long Thọ dẫn, không biết có phải cùng là bộ Đại bi kinh được Na Liên Đề Da Xá (Narendrayaśas) dịch hay không? Nội dung các kinh: Phương tiện kinh, A tu la vấn kinh, Đoạn nhất thiết chúng sinh nghi kinh thì không được rõ lắm.

Những kinh điển Đại thừa được Long Thọ dẫn trong luận chắc chắn không thể là toàn bộ kinh điển Đại thừa đương thời. Trên phương diện phiên dịch kinh điển của Trung Quốc mà nói, những kinh điển được dịch vào các thời Hán, Ngụy, Ngô như Văn Thù vấn Bồ tát thự kinh, Nội tạng bách bảo kinh, Thành cụ quang minh định ý kinh, Bồ tát bổn nghiệp kinh (bản dịch xưa của Tịnh hạnh phẩm trong Hoa nghiêm kinh). Những kinh do Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa) dịch vào đời Tấn, như Văn Thù Sư Lợi nghiêm tịnh kinh, Văn Thù Sư Lợi hiện bảo tạng kinh, Đẳng tập chúng đức tam muội kinh, Đại tịnh pháp môn kinh, Huyễn sĩ nhân hiền kinh, Tế chư phương đẳng học kinh, Văn Thù Sư Lợi hối quá kinh, Như huyễn tam muội kinh v.v. Cưu Ma La Thập dịch Kim cang Bát nhã Ba la mật kinh, Bồ tát tạng kinh (Phú Lâu Na vấn) v.v. tất cả kinh điển trên đều là giáo điển của Phật giáo Đại thừa thời kỳ đầu. Bộ lớn, phẩm nhỏ tương đối nhiều1.

1 Kinh loại của Phật giáo Đại thừa thời kỳ đầu, tham kiến Ấn Thuận, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 1, trang 24-37.

Sự bùng khởi của Phật pháp Đại thừa có nhiều nhân duyên, sau khi đức Thế Tôn vào Niết bàn, chúng đệ tử Phật “thương nhớ khôn nguôi”, “thế gian tình thâm”, khó có thể chấp nhận được việc vào Niết bàn của đức Thế Tôn, theo sự mong muốn của bản thân mà hướng đến đức Phật lý tưởng, nhưng mức độ lý tưởng ấy không được đồng nhất. Như nói, Như Lai được xem là (Tathāgata) có mặt khắp nơi, không điều gì mà không làm được, biết hết tất cả, ban sơ trong hệ thống Đại chúng bộ cũng không thể nói những lời như thế. Đức Phật do tu hành mà thành tựu, đương nhiên cũng không tránh khỏi có những sự khác biệt nhỏ đối với việc tu hành của chúng đệ tử Thanh văn. Từ những sự tích về đời sống quá khứ của đức Thế Tôn trong Bổn sinh, không ngừng được phổ cập ra, quy nạp thành những hạnh lớn - Ba la mật đa của đức Phật, Ba la mật đa được dịch thành “đến bờ bên kia”, và cũng là “rốt ráo hoàn thành”. Thuyết nhất thiết hữu bộ lập ra bốn Ba la mật đa. “Các sư nước ngoài” lập ra sáu Ba la mật đa - thí, nhẫn, giới, tinh tấn, thiền định và Bát nhã. Lại có chỗ lập riêng, bỏ thiền định tịnh lự mà đổi thành “văn” (nghe). Xích đồng diệp bộ lập ra mười Ba la mật đa. Sáu Ba la mật đa mà các “sư ngoại quốc” lập ra được các bộ phái như Pháp tạng bộ và Thuyết xuất thế bộ tiếp nhận, và cũng được thông dụng cho Phật giáo Đại thừa nói chung1. Sáu Ba la mật đa là nhân hạnh thành Phật, phát tâm thành Phật mà tu hành, gọi là Bồ tát (Bodhisattva). Đức Phật là bậc phước đức và trí tuệ đều tròn đầy, theo luật nhân quả, nhất định là thành quả trường kỳ tu tập phước tuệ của Bồ tát. Cho nên, Thuyết nhất thiết hữu bộ cho rằng, Bồ tát phải tu hành trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp; “bộ phái khác cho là bảy A tăng kỳ kiếp”2 mới thành tựu quả Phật. Long Thọ phê phán chủ trương của Thuyết nhất thiết hữu bộ rằng: “Phật nói vô lượng A tăng kỳ kiếp làm công đức, muốn độ chúng sinh, vì sao lại nói ba A tăng kỳ kiếp? Ba A tăng kỳ kiếp là con số có hạn lượng!”3 Vô lượng A tăng kỳ kiếp tạo lập công đức là vì muốn cứu độ chúng sinh, cho nên nói không có nơi nào mà đức Thế Tôn chưa từng sống qua trong kiếp quá khứ để xả thân cứu độ chúng sinh. Vì Phật pháp, vì chúng sinh mà Ngài tinh tấn vô hạn, quên mình vì người mà không cầu mau chóng thành tựu - không cầu cho mình được sớm giải thoát thành Phật, mà nguyện trường kỳ ở trong sinh tử, từ việc lợi tha mà thành tựu cho mình. Bồ tát tu hành đạo Bồ đề thành quả Phật, là vô cùng vĩ đại, được biểu hiện ra một cách rất trọn vẹn. Điều này mới được hàng đệ tử khen ngợi và hướng đến tu tập, hình thành nên dòng thác của Phật pháp Đại thừa. Bồ tát đạo tiếp nối Phật pháp, tự lợi lợi tha, hết thảy đều lấy Bát nhã làm tiêu chuẩn hàng đầu. Thể ngộ pháp tính của Bát nhã thì gọi là Vô sinh pháp nhẫn (anutpattika-dharma-kṣānti); biết được thật tướng của hết thảy pháp nhưng không chứng (chứng, là trở thành A la hán Thanh văn), mà bước lên quả vị A bệ bạt trí (avaivartika) - quả vị bất thoái chuyển. Trước đây được gọi là Nhu thuận nhẫn (anulomikī-dharma-kṣānti). Bồ tát tu hành, “dùng nhất thiết trí trí mà tác ý tương ưng, tâm đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện”1. Ba phương diện Bồ đề tâm (bodhi-citta), Đại bi tâm (mahākuraṇā) và Bát nhã vô sở đắc (aprātitva) đều vô cùng quan trọng. Như lấy Bát nhã làm giềng mối đầu tiên mà nói, Bát nhã đối với hết thảy pháp đều vô sở đắc, là rất trọng yếu, rất căn bản trong quá trình văn, tư, tu. Căn cứ vào Bát nhã vô sở đắc mà thấy được sự thâm sâu của Phật pháp Đại thừa, thấy được sự vĩ đại của hạnh Bồ tát. Tuy người thường có tâm hướng đến, nhưng lại cảm thấy thật không dễ gì mà thành tựu được, cho nên có sự cảm khái: “Hoa xoài, trứng cá, Bồ tát sơ phát tâm, ba việc ấy nhân thì nhiều nhưng kết quả không được bao nhiêu”. Thích hợp với hệ thống Đại chúng bộ, mười phương thế giới đều có Phật hiện tiền, vì thế làm cho lòng tin được tăng trưởng, tu hành niệm Phật (Bồ tát), sám hối để cầu được sinh vào các cõi Tịnh độ khác, được thấy Phật, nghe pháp, mà được chứng bất thoái A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề (anuttara-samyak-saṃbodhi). Phật pháp Đại thừa là đa phương diện, vì thế sự truyền bá cũng theo đa phương diện, mà nguồn chính của Đại thừa thời kỳ đầu là tư tưởng Bát nhã dẫn đường, là hạnh Bồ tát sâu xa rộng lớn.

1 Tham kiến Ấn Thuận, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 3, trang 140-143.

2 Thế Thân, Nhiếp Đại thừa luận thích, quyển 11. Đại chính tạng, quyển 31, trang 231ab.

3 Long Thọ, Đại trí độ luận. Đại chính tạng, quyển 25, trang 92b.

1 Huyền Trang dịch, Đại Bát nhã Ba la mật đa kinh, phần 2, quyển 412. Đại chính tạng, quyển 7, trang 67b-68a.

Trọng tín hành, trọng trí hành, trọng bi hành, kinh điển Đại thừa được lưu truyền theo nhiều phương diện như thế, nhưng tất cả đều lấy việc tu hành làm chủ đạo, không giống với các luận điển. Vấn đề kinh Đại thừa từ đâu lưu truyền ra (hình thành từ đâu), tuy không có sự ghi chép một cách rõ ràng chính xác, nhưng một phần có thể suy luận mà biết được. Như phần nguyên thủy của Bát nhã kinh, là tương đương với phẩm Đạo hạnh đầu tiên trong Đạo hạnh Bát nhã kinh; về sau phát triển rồi biên tập thành Hạ phẩm, thông thường gọi là Tiểu phẩm Bát nhã. Trên cơ sở đó, Bát nhã lại phát triển rộng ra thêm thành Trung phẩm, thông thường gọi đó là Đại phẩm Bát nhã. Sau đó lại được biên tập rộng thêm, thành ra Thượng phẩm gồm mười vạn bài tụng. Trong quá trình ghi chép lưu truyền, kệ tụng hoặc nhiều hoặc ít không được đồng nhất, vì thế Đại Bát nhã kinh do Huyền Trang dịch đã chọn lọc từ năm bộ - năm phần đầu. Như trong Đạo hạnh Bát nhã Ba la mật kinh chép:

“Sau khi Đát Tát A Kiệt (đức Như Lai) vào Niết bàn, Bát nhã Ba la mật này được truyền bá tại Nam Thiên Trúc; ở đó đã có người học rồi, lại tiếp tục từ Nam Thiên Trúc truyền qua Tây Thiên Trúc; ở đó đã có người học rồi, từ Tây Thiên Trúc lại tiếp tục truyền qua Bắc Thiên Trúc”.

Từ Nam Ấn Độ mà truyền bá qua hai miền Tây Bắc, ngoại trừ các dịch bản Tiểu phẩm, Đại phẩm của Huyền Trang ra, tất cả đều ăn khớp nhau. Điều này nói lên nguồn gốc của pháp môn Bát nhã được phát khởi là từ miền Nam Ấn Độ, tức là khu vực do hệ Đại chúng bộ hoằng hóa. Sau đó được lưu hành qua những vùng thuộc Tây (Nam) Ấn Độ, ở đó là địa khu do Phân biệt thuyết bộ (Vibhājyavādin) và Pháp tạng bộ hoằng hóa. Đồng thời, Bát nhã lại được tiếp tục lưu hành đến các khu vực thuộc miền Bắc Ấn Độ, ở đây (nước Kế Tân) lấy Ô Trượng Na (Udyāna) làm địa khu trung tâm. Trong kinh nói, ở miền Bắc Ấn Độ, Bát nhã được lưu hành cực thịnh, đó là ám chỉ cho Hạ phẩm Bát nhã được tập thành ở khu vực này. Tác phẩm được Huyền Trang dịch đều nhất trí là từ miền Bắc truyền đến miền Đông Bắc, thế thì Bát nhã kinh từ Vu Điền truyền qua Trung Quốc, không ăn khớp với tình hình biên tập của Hạ phẩm Bát nhã đã nói trên. Trung phẩm Bát nhã có sự bao hàm một số bộ phận pháp số của Nhất thiết hữu bộ ở miền Bắc; còn Thượng phẩm Bát nhã lại chịu ảnh hưởng của hệ Độc tử bộ1. Trong Ấn Độ Phật học tư tưởng khái luận, Lữ Trừng cho rằng, trong Bát nhã bộ, Kim cang Bát nhã kinh được thành lập sớm nhất2, điều này không thỏa đáng cho lắm. Vì Kim cang Bát nhã kinh đề cập đến “ngũ nhãn” (năm con mắt) là rút ra từ phần đầu của Trung phẩm Bát nhã. “Đại thân” (thân lớn) là rút ra từ phần tựa của đầu Trung phẩm, trong kinh lại xuất hiện rất nhiều cấu trúc “tức phi…, thi danh…”, nếu căn cứ theo thắng nghĩa đế (paramārtha-satya) thì hết thảy pháp không thể đắc, không thể dùng ngôn thuyết, nhưng theo thế tục đế (saṃvṛti-satya) thì tất cả đều có sự tương hợp với phần sau của Trung phẩm. Như thế, dù Kim cang Bát nhã kinh được thành lập sớm đi nữa, thì vẫn không thể sớm hơn Trung phẩm Bát nhã.

1 Tham kiến Ấn Thuận, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 10, trang 692-701.

2 Lữ Trừng, Ấn Độ Phật học tư tưởng khái luận, Đài Loan Thiên Hoa xuất bản xã, năm 1982, trang 99-101.

Hoa nghiêm kinh được Long Thọ dẫn trong luận gồm hai phẩm Thập địa và Nhập pháp giới, hai phẩm này được dịch vào đời Tấn. Nội dung của phẩm Nhập pháp giới là nói đến Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đi xuống hướng Nam, giáo hóa Thiện Tài (Sudhana) đồng tử ở Phước Thành - Giác Thành phát khởi tâm Bồ đề, rồi không ngừng theo hướng Nam du hành, tham vấn các bậc thiện tri thức, đồng thời nói lên lộ trình tu hành của Bồ tát tại gia. Phẩm Nhập pháp giới được dịch vào đời Đường, nói đến “Biển thế giới hoa tạng trang nghiêm”, “hết thảy biển thế giới, hết thảy các chủng loại thế giới”1, như vậy đã tiếp xúc đến nội dung của hai phẩm đầu trong Hoa nghiêm kinh. Trong Thuyết nhất thiết hữu bộ, Thiện Tài là sự tích trong bổn sinh của đức Thế Tôn; phẩm Nhập pháp giới chính là dùng tinh thần truy tìm không ngừng của Thiện Tài để làm điển hình cho một vị Bồ tát cầu pháp không chán, tinh tấn không ngừng. Chỗ an trú của Thiện Tài là Phước Thành, theo sự khảo định cho thấy, chính là nước Ô Trà (Uḍra) ngày xưa, nay là vùng Bhadraka của Orissa. Vùng này giáp biển, nên gắn liền với truyền thuyết Long Thọ xuống long cung lấy được Hoa nghiêm kinh.

1 Phật Đà Bạt Đà La dịch, Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, quyển 71. Đại chính tạng, quyển 10, trang 386c.

Năm Trinh Nguyên thứ mười một (năm 795), đời Đường Đức Tông, quốc vương nước Ô Trà có gửi tặng cho Trung Quốc phẩm Bất tư nghì giải thoát cảnh giới Phổ Hiền hạnh nguyện, phẩm này chính là phẩm Nhập pháp giới. Vì thế, sự hoằng truyền phẩm Nhập pháp giới có liên quan đến nước Ô Trà. Từ đây, Thiện Tài đi tham vấn theo hướng Nam, như thế đã biểu hiện rõ hình tượng Bồ tát trong tâm của chúng đệ tử Phật ở miền Nam đương thời2. Phần Hoa nghiêm kinh của miền Nam truyền ra cũng được hoằng truyền đến miền Bắc. Trong Đại bộ Hoa nghiêm kinh có phẩm Chư Bồ tát trú xứ, phẩm này đề cập đến Chấn Đán - Trung Quốc và Sớ Lặc. Vì thế cho rằng, sự tập thành của Đại bộ Hoa nghiêm kinh là ở miền Bắc Ấn Độ chắc chắn là đúng.

2 Tham kiến Ấn Thuận, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 13, trang 120-127.

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi có liên quan rất nhiều với kinh điển của Đại thừa thời kỳ đầu. Văn Thù tuy là mang hình tướng xuất gia nhưng vẫn không xem trọng giới luật của đức Thế Tôn. Trong kinh nói: “Văn Thù Sư Lợi là vị Bồ tát đến từ thế giới Bảo Thị ở Đông phương của Phật Bảo Anh Như Lai (tên thế giới và tên Phật có bản dịch khác không đồng nhất)”1, khi đến rồi thì Ngài không trở về, mà ở lại để giúp đức Phật Thích Ca hoằng dương chính pháp, đó cũng là cách nói đơn độc một mặt. Tāranātha trong Ấn Độ Phật giáo sử chép: Văn Thù là tướng Tỳ kheo, đến nhà Nguyệt Hộ (Candrarakṣta) ở vùng Âu Đề Tỳ Xá (Oḍvisá) để thuyết pháp Đại thừa, vì nhân gian mà bắt đầu khai triển lưu hành pháp Đại thừa2. Âu Đề Tỳ Xá là một trong ba địa khu lớn của miền Đông Ấn Độ, nay chính là Orissa, tức là cố hương của Thiện Tài đồng tử; pháp môn Văn Thù có liên quan đến khu vực này. Kinh điển Đại thừa thời kỳ đầu đều có sự nhất trí về truyền thuyết Bồ tát Văn Thù đến từ miền Đông (cũng có thể nói là miền Nam, thuộc Nam Ấn Độ). Hoa nghiêm kinh về sau thành lập ra phẩm Chư Bồ tát trú xứ, trong đó nói Bồ tát Văn Thù ở núi Thanh Lương thuộc miền Đông Bắc1; Văn Thù dần dần được chuyển hóa làm Bồ tát của núi Ngũ Đài ở Trung Quốc.

1 Trúc Pháp Hộ dịch, Phật thuyết Văn Thù Sư Lợi tịnh luật kinh. Đại chính tạng, quyển 14, trang 448b.

2 Tāranātha, Ấn Độ Phật giáo sử, Tự bản Uyển Nhã Nhật dịch bản, trang 96.

1 Phật Đà Bạt Đà La dịch, Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, quyển 19. Đại chính tạng quyển 9, trang 590a.

A Di Đà Phật kinh (bản lớn) xem trọng về tín và nguyện, vốn là chú trọng về Vô Lượng Quang (Amitabha), sau khi Mặt Trời lặn, ánh mặt trời lại từ từ tỏa sáng, và xem ánh sáng vô lượng đó (Tịnh độ) là lý tưởng. Sự hướng vọng đến ánh sáng vô lượng này có ý nghĩa tôn sùng ánh sáng mặt trời. Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) - Đại Nhật của Ấn Độ cũng được Hoa nghiêm kinh tôn trọng, nhưng tín ngưỡng Phật A Di Đà lại có thêm chút hương vị của một thế giới khác. Zoroaster giáo của người Ba Tư (Pārasya) có tín ngưỡng thần Vô Hạn Quang Minh, gọi là Ohrmazd, nơi được nhân loại ngưỡng vọng đến sự hạnh phúc vĩnh hằng2; tôn giáo này nhiều ít có điểm tương tự với tín ngưỡng Phật A Di Đà. Trong Tam bảo cảm ứng yếu lược lục chép:

2 Xem Tỉnh Cốc Chính Hùng, Sơ kỳ Đại thừa Phật giáo chi thành lập quá trình, tập san 1974, năm Chiêu Hòa 49, Bác Hoa uyển.

“Người nước An Tức không biết Phật pháp, ở các vùng biên địa, bản chất ngu si. Lúc bấy giờ có chim Oanh Vũ,… thân mập sức yếu. Có người hỏi rằng: ‘Ngươi ăn thức ăn gì?’ Chim đáp: ‘Tôi lấy việc nghe tiếng xướng niệm Phật A Di Đà để làm thức ăn, thân thể cường tráng, nếu muốn nuôi tôi, thì xin xướng niệm danh hiệu của Phật’. Mọi người nghe vậy đều cất tiếng niệm Phật, chim từ từ tung cánh vào hư không… bay về hướng Tây. Vua quan dân chúng thấy vậy kinh ngạc, nói: ‘Chim này chính là hóa thân của Phật A Di Đà, đến để dẫn nhiếp người ở xứ biên địa này, há chẳng phải hiện tại vãng sinh hay sao!’… Từ đó về sau, người nước An Tức tuy ít biết về Phật pháp, nhưng có rất nhiều người được vãng sinh Tịnh độ”1.

1 Phi Trược Tập, Tam bảo cảm ứng lược lục, quyển thượng. Đại chính tạng, quyển 51, trang 831.

Đó là truyền thuyết được rút ra từ tác phẩm Ngoại quốc ký. Truyền thuyết này không ở nước khác, mà xảy ra đúng ở nước An Tức (Arsaces), và cũng chính là vùng Ba Tư, vì vậy nó có giá trị của truyền thuyết. Người nước An Tức không hiểu Phật pháp, nhưng họ lại có tín ngưỡng niệm Phật A Di Đà, như thế chính là làm rõ mối quan hệ giữa Tịnh độ A Di Đà với Tây Bắc Ấn Độ.

Có thể suy định giáo điển chủ yếu của Đại thừa thời kỳ đầu là Bát nhã và (bộ phận) Hoa nghiêm và giáo điển Văn Thù làm ranh giới tư tưởng giữa Bát nhã và Hoa nghiêm, xem trọng đại hạnh sâu rộng của Bồ tát, và phương tiện hòa nhập vào cuộc đời của Bồ tát dùng là được phát khởi ở miền Nam, sau đó truyền qua miền Bắc mà nhanh chóng được phổ cập. Còn xem trọng về tín và nguyện, như tư tưởng A Di Đà Phật kinh được phát khởi ở miền Bắc. Sự hưng khởi của Đại thừa thời kỳ đầu là xu thế chung của giới Phật giáo, lại thích ứng với những khu vực xa xôi, nên đã góp phần trong việc phổ cập và làm cho bộ mặt Phật giáo ngày càng mới hẳn lên. Đại thừa được hưng khởi từ miền Nam - Ô Trà, Án Đạt La, sau đó truyền qua miền Bắc. Đại thừa của miền Bắc lấy (Kế Tân) Ô Trượng Na làm trung tâm, rồi theo hướng Đông Tây vươn ra vùng núi; theo hướng Nam thì vào đất liền, chính là Kiền Đà La (Gandhāra) - thành Chúng Hương. Nguyên vùng này là khu vực thịnh hành tột bậc của Phật pháp Đại thừa1. Vùng này nhiều lần chịu sự xâm nhập của người Du Na (Yona, Yavana), người Ba Tư, người Tắc Ca (Sakas).

1 Tham kiến Ấn Thuận, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Đại thừa Phật giáo thời kỳ đầu, chương 7, trang 449-459.

Vào những năm đầu Công nguyên, người Đại Nhục Chi lập nên vương triều Quý Sương (Kushān), rồi lại tiến vào Ấn Độ. Trong đó, bốn nước Ô Trượng Na, Xá Ma (Samī)… là thuộc tộc người Tắc Ca (Sakas), theo truyền thuyết, dòng họ này có cùng dòng với họ Thích Ca (Śākya). Trong lúc đó, dòng họ Sakas có mối quan hệ hợp tác lâu dài với người Ba Tư, họ đều thuộc tín ngưỡng Đại thừa Phật giáo. Vùng này, do dân tộc phức tạp, và họ cùng tồn tại nhiều đời, bởi vậy trên phương diện tư tưởng rất có khả năng gom thâu tất cả, như giới luật của năm bộ phái Thanh văn đều một loạt từ đây lưu hành1, đó là một ví dụ. Đồng thời, nhiều phương diện biến động trong giới chính quyền Ấn Độ, mà Phật pháp lại siêu chính trị, từ Nam đến Bắc, cũng từ Bắc mà đến Trung và Nam (việc quay lại truyền bá ở miền Nam thì dường như hơi ít), khắp nơi đều thông suốt. Như A Di Đà Phật kinh bắt nguồn từ miền Bắc, hai vị Bồ tát Quán Thế Âm (Āryavalokiteśvara) và Đại Thế Chí (Mahāsthāmaprāpta) cùng với hai vị Bồ tát Quán Tự Tại và Bồ tát Chính Thú (Ananyagāmin) từ trên không trung đến chỗ Bồ tát Quán Tự Tại được nêu trong phẩm Nhập pháp giới, công đức của các vị ấy là tương đồng2. Sự biến động của nền chính trị Ấn Độ không làm trở ngại được sự lưu thông và ảnh hưởng qua lại của tư tưởng Phật giáo hai miền Nam Bắc. Tóm lại, sự hưng khởi của Đại thừa thời kỳ đầu có liên quan đến sự phát triển của Phật giáo giữa hai miền Nam Bắc.

1 Huyền Trang, Đại Đường Tây Vực ký, quyển 3. Đại chính tạng, quyển 51, trang 882b.

2 Phật Đà Bạt Đà La dịch, Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, quyển 68. Đại chính tạng, quyển 10, trang 367ab; Cương Lương Da Xá dịch, Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh. Đại chính tạng, quyển 344ab.