Bộ phái Phật giáo trong thời đại Đại thừa hưng khởi (giữa thế kỷ I TCN), đặc biệt chú trọng về A tỳ đạt ma luận (abhidharma). Nam phương có Đại tự phái (Mahāvihāra) của Xích đồng diệp bộ (Tāmraśātīya), Bắc phương có các luận sư A tỳ đạt ma của Nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) đều nắm được địa vị chính thống của bộ phái mình. Lấy Hữu bộ để nói, không chỉ pháp nghĩa của hai phái Trì tụng kinh (sūtrantika) và phái Thí dụ (daṛṣṭntika) không phù hợp với A tỳ đạt ma, phong cách cũng khác biệt khá nhiều; căn cứ vào kinh pháp mà tham cứu nghĩa lý sâu xa, là nhu cầu thực sự. Nhưng A tỳ đạt ma luận còn thêm thắt vào nội bộ Tăng già, nhận lấy sự tôn trọng của Tăng già; đúng là không thể thông tục được. Bên trong chú trọng thiền quán, ý sâu lời rõ mới có thể hướng ngoại mà hoằng hóa, đó chính là chủ trương của các đại sư phái Trì kinh Thí dụ.
Phật pháp từ trong bộ phái mà lưu truyền, mỗi bộ đều có sự nghiêng trọng của mình, song đều có thực tập thiền quán và hoằng dương giáo hóa. Cho nên hai hệ phái Độc tử (Vātsīputrīya) hệ và Phân biệt thuyết (Vibhajyavādin) hệ tuy được phân hóa từ Thượng tọa bộ (Sthavira) nhưng đều không xem trọng A tỳ đạt ma. Tuy nhiên về phong cách thì gần với phái Trì kinh Thí dụ của Hữu bộ, như Tăng Già Tư Na (Saṃghasena) của Độc tử hệ. Phong cách gần giống với phái Trì kinh Thí dụ thì đương thời tương đối có khả năng cùng chung sống hòa bình với Đại thừa. Được dịch thành “Thí dụ” nhưng nguyên ngữ không phải chỉ có một ý nghĩa đó, mà là thí dụ trong mười hai phần giáo, dịch âm thành A ba đà na (Avadāna), dịch là “xuất diệu” (hiển lộ chói lọi) hoặc “nhật xuất” (mặt trời mọc); sự tích chói lọi của “thí dụ” là rất vĩ đại. Bất luận là đức Phật hay các thánh đệ tử cho đến những vị xuất gia hay tại gia thông thường, phàm có đức hạnh cao cả, đều là sự chói lọi làm rạng rỡ sinh mạng, luôn được đệ tử Phật kính trọng và ngưỡng mộ. Ngoài ra, những thí dụ được nêu ra trong các kinh như Thí dụ con rắn, Thí dụ dấu chân voi, nguyên ngữ của từ “thí dụ” là aupamya (phương tiện dụ).
Còn có những thí dụ mang tính so sánh thì nguyên ngữ là dṛṣṭāntaḥ. Từ “thí dụ” sau đều nêu ra để giải thích một đạo lý nào đó cho người nghe dễ hiểu, tức là nêu lên sự việc để thí dụ theo tình huống mà thuyết minh, vốn hoàn toàn không đồng nghĩa với A ba đà na. Nhưng trong quá trình truyền bá Phật giáo, A ba đà na ₋ “thí dụ”, truyện sự tích Phật ₋ “nhân duyên”, “thọ ký” và những truyền chép về bốn chúng đệ tử Phật hoặc là truyền thuyết, những thí dụ phổ thông v.v. đều được dùng làm tình huống thí dụ. Hoặc nêu sự việc thí dụ để thuyết minh trong lúc tuyên thuyết Phật pháp. Nói một cách tổng hợp thì đều gọi là thí dụ hoặc nhân duyên. Trường hợp lấy thí dụ hoặc nêu lên sự việc để thí dụ mà thứ tự giải thích, là tình hình thực tế phổ cập trong việc giáo hóa của người xưa. Loại giáo điển này, trong Đại tạng kinh Hán dịch biên thành Bổn duyên bộ, nội dung có thể nói là vô cùng phong phú. Người tụng kinh của Hữu bộ lấy thí dụ làm phương pháp giáo hóa, lúc luận cứu nghĩa lý, thì phần nhiều có đưa thêm vào những thí dụ thông tục. Trong Đại tỳ bà sa luận có nêu dụ bắn cung, dụ bánh xe của thợ gốm, dụ mất của, dụ lộ hình, dụ xé áo, dụ nắm tay1, dụ áo trời2, dụ người nữ3, dụ đi đường4… đều gọi là đại sư Thí dụ.
1 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 93. Đại chính tạng, quyển 27, trang 479a.
2 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 122. Đại chính tạng, quyển 27, trang 634bc.
3 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 56. Đại chính tạng, quyển 27, trang 288b.
4 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 145. Đại chính tạng, quyển 27, trang 745b.
Sức ảnh hưởng của đại sư Thí dụ đối với việc đem Phật pháp giáo hóa giữa nhân gian, thông thường trong lòng mọi người có lẽ là càng thân thiết hơn các đại sư của A tỳ đạt ma luận.
Trước tiên nói về Bồ tát Mã Minh (Aśvaghoṣa): Mã Minh còn gọi là Pháp Thiện Hiện (Dharmasubhūtī), hoặc Dũng (Vīla). Tác phẩm Nhất bách ngũ thập tán Phật kệ của Mātṛiceṭa soạn, được Nghĩa Tịnh dịch vào thời Đường. Truyền thuyết Phật giáo Tây Tạng cho là của Mã Minh viết, song căn cứ vào Nam hải ký quy nội pháp truyện thì Mātṛiceṭa và Mã Minh là hai người khác nhau, chỉ là học phong có chút tương tự. Mã Minh là người Sāketa thuộc miền Đông Thiên Trúc, ông vốn là người ngoại đạo (ở thành Hoa Thị). Nhưng nhờ biện luận chiến thắng đệ tử Phật ở bản địa, khiến cho chúng Tăng không được đánh kiền chùy. Bấy giờ có Hiếp (Pārśva) Tôn giả từ Bắc Thiên Trúc đến cùng mở cuộc biện luận với Mã Minh và hàng phục được ông, vì thế ông xuất gia trong Phật pháp, mọi người gọi ông là “Tỳ kheo biện tài”. Quốc vương nước Nhục Chi - Ca Nị Sắc Ca (Kaniṣka) kéo binh vào Trung Ấn Độ thỉnh chiếc bình bát của Phật và Mã Minh. Từ đó ông mới đến nước Nhục Chi (thủ đô là Kiền Đà La)1.
1 Cưu Ma La Thập dịch, Mã Minh Bồ tát truyện, Đại chính tạng, quyển 50, trang 183ac.
Nói đến học phong của Mã Minh, thì ông là thiền sư trước tác Thiền tập. Trong Tọa thiền tam muội kinh được La Thập dịch, có thiền kệ của Mã Minh2. Ông là vị đại sư sử dụng văn nghệ trong công việc hoằng dương Phật pháp. Tác phẩm Phật sở hành tán của ông được Đàm Vô Sấm dịch (Dharmarakṣa). Ông làm thơ kệ tán thán và thuật lại bước chân giáo hóa một đời của Như Lai, đó là một tác phẩm rất nổi tiếng. Lại thêm Tam khởi kinh: phàm là kinh kệ tụng, phần trước đều có thi kệ quy kính Tam bảo, cuối kinh có kệ hồi hướng phát nguyện. Kệ quy kính Tam bảo và kệ hồi hướng phát nguyện do Mã Minh soạn được đại đa số giới Phật giáo Ấn Độ chọn dùng. Chuyện Mã Minh xuất gia theo Tỳ kheo Rāṣṭrapāla, ông đã viết thành bài ca Rāṣṭrapāla, “âm điệu thanh nhã, uyển chuyển, mượt mà”, làm rung động biết bao người phát tâm xuất gia1.
2 Thích Tăng Hựu, Xuất tam tạng ký tập, quyển 9, Đại chính tạng, quyển 55, trang 65ab.
1 Cát Ca Dạ và Đàm Diệu dịch, Phú pháp tạng nhân duyên truyện, quyển 5, Đại chính tạng, quyển 50, trang 315a.
Còn có tác phẩm Phân biệt nghiệp báo lược do Đại Dũng Bồ tát soạn, Tăng Già Bạt Trừng dịch vào thời Lưu Tống, mà Đại Dũng chính là tên của Mã Minh. Bản dịch khác là Phật thuyết phân biệt thiện ác sở khởi kinh, phần đầu nói nhiều về năm giới và một đoạn về mười thiện. Tác phẩm Lục thú luân hồi kinh được Nhật Xứng dịch vào thời Triệu Tống, cũng nói là do Mã Minh soạn. Thập bất thiện nghiệp đạo kinh được Nhật Xứng dịch nói đến nghiệp báo thiện ác, năm giới, mười thiện; đó là nội dung thông tục phổ cập giáo hóa. Chính pháp niệm xứ kinh gồm 70 quyển, lấy “nói hết thảy nghiệp báo pháp” làm tôn chỉ, có thể là chịu ảnh hưởng bởi những tác phẩm của Mã Minh mà phát triển thêm rồi biên tập thành.
Tác phẩm của Mã Minh đa số là kệ tụng, cho nên Đại tỳ bà sa luận gọi ông là người “soạn văn tụng”2. Trong văn học tu dưỡng cao độ của Mã Minh tràn ngập lòng kiền thành quy kính. Ông đã dung hợp được sự nghiêm túc của Phật pháp với niềm hứng thú của văn nghệ, làm mọi người hướng tâm đến đạo giải thoát. Mã Minh thuộc Hữu bộ (kiêm thông các bộ phái khác). Mã Minh được mọi người xưng tụng là Bồ tát, nhưng không có liên hệ gì với Đại thừa khởi tín luận.
2 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 17. Đại chính tạng, quyển 27, trang 721a.
Vào thời kỳ đầu, để giới Phật giáo Trung Quốc tôn xưng một vị nào đó là Bồ tát, thì vị ấy phải có phong cách gần giống với Mã Minh. Trong Quan trung xuất thiền kinh tự thuộc Xuất tam tạng ký tập chép:
“43 kệ đầu là do pháp sư Cưu Ma La Đà soạn, 20 kệ sau là do Mã Minh Bồ tát tạo. Năm môn trong đó là do sao chép tập hợp vấn đề cốt yếu thiền của các vị Bà Tu Mật, Tăng Già La Xoa, Âu Ba Quật, Tăng Già Tư Na, Lặc Tỳ kheo, Mã Minh, La Đà. Trong kệ lục giác, Bồ tát Mã Minh lấy việc tu tập để giải thích lục giác. Đầu tiên là quán tướng của dâm dục, sân nhuế và si mê; ba môn này đều do Tăng Già La Xoa soạn”1.
1 Quan trung xuất thiền kinh tự thuộc Xuất tam tạng ký tập, quyển 9. Đại chính tạng, quyển 55, trang 65ab.
Tọa thiền tam muội kinh được Cưu Ma La Thập (Kumārajīva) dịch là tập hợp của các nhà “thiền tập” mà thành. Nói đến thiền sư, như Cưu Ma La Đà (Kumāralāta) là người khai sáng ra Kinh bộ (Sutrāntika). Mã Minh thì như trên đã tường thuật. Bà Tu Mật (Vasumitra), tác giả Tôn Bà Tu Mật Bồ tát sở tập luận, là hậu học của Pháp Cứu (Dharmatrāta). Theo tựa của luận nói: “Tôn Bà Tu Mật Bồ tát đại sĩ sẽ kế tục Phật Di Lặc mà làm Phật, danh hiệu đức Phật ấy là Sư Tử Như Lai”.
Duy nhật tạp nạn kinh nói, Bà Tu Mật - Thế Hữu là Bồ tát, không bao lâu nữa vị ấy sẽ thành Phật1. Tăng Già La Sát (Saṃgharakṣa) là vị đại thiền sư, truyền thuyết nói ông là thầy của vua Ca Nị Sắc Ca. Tác phẩm của ông là Tu hành đạo địa kinh vốn có tên là Du già hành địa tập; từ An Thế Cao thời Hán cho đến Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa) thời Tây Tấn đều được truyền dịch và truyền bá ở Trung Quốc. Thể loại của Tu hành đạo địa kinh là tập hợp nhiều kệ tụng, còn văn trường hàng là về sau có người giảng thuyết mà phụ thêm vào. Tăng Già La Sát cũng có tác phẩm tán thán Bồ tát hạnh và công đức của Phật. Như tác phẩm Tăng Già La Sát sở tập kinh được Tăng Già Bạt Trừng dịch. Căn cứ vào lời tựa do Đạo An viết: Tăng Già La Sát sẽ được bổ xứ làm Phật trong hiền kiếp thứ tám, gọi là Nhu Nhân Phật2. Đó là truyền thuyết của thiền sư Bồ tát. Âu Ba Quật chính là Ưu Ba Quật Đa (Upagupta) người thuộc thời vua A Dục (Aśoka), “truyền dạy tọa thiền, tối thắng bậc nhất”; “giáo hóa đệ tử, có Ưu Ba Cúc Đa là tối thắng bậc nhất”3. Ông được xưng tụng là “sẽ thành Phật hiệu là Vô Tướng”.
1 Chi Khiêm dịch, Duy nhật tạp nạn kinh. Đại chính tạng, quyển 17, trang 609a.
2 Tăng Hựu, Xuất tam tạng ký tập, quyển 10. Đại chính tạng, quyển 55, trang 71b; Tôn Bà Tu Mật sở tập luận tự. Đại chính tạng, quyển 28, trang 721a.
3 An Pháp Khâm dịch, A Dục vương truyện, quyển 5. Đại chính tạng, quyển 50, trang 120b; A Dục vương kinh, quyển 6. Đại chính tạng, quyển 50, trang 149bc.
Tăng Già Tư Na còn gọi là Tăng Già Tiên (Saṃghase-na). Người chú thích Tam pháp độ luận có lẽ thuộc hệ Độc tử bộ (Vatsīputrīya). Tam pháp độ kinh ký chép: “Tỳ kheo Thích Tăng Già Tiên chí nguyện Đại thừa”1. Tác phẩm của ông có Bách dụ kinh, nguyên là tên Si hoa man, bản Hán do Cầu Na Tỳ Địa (Guṇavṛddhi) dịch, nội dung là những câu chuyện hàm chứa ý nghĩa Phật pháp, viết theo phong cách hài hước, vì thế rất dễ dàng đi vào lòng người. Ngoài ra ông còn có các tác phẩm Bách cú thí dụ kinh, Bồ tát bổn duyên tập kinh, có thiền tập, có tán Phật hạnh quả, có văn học thí dụ thông tục, giống với phong cách của Mã Minh. Lặc, chính là Hiếp Tôn giả, ông rất tinh tấn tu hành, về phương diện thích kinh, ông từng giải thích bốn bộ A hàm. A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận chép:
1 Tăng Hựu, Xuất tam tạng ký tập, quyển 10. Đại chính tạng, quyển 55, trang 73b.
“Hiếp Tôn giả nói: Trong đây Bát nhã gọi là phương tiện, có công dụng rất lớn”2.
2 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 16. Đại chính tạng, quyển 27, trang 660a.
Theo Hiếp Tôn giả, Phương quảng (vaipulya) trong mười hai phần giáo chính là Bát nhã. Lúc bấy giờ, Bát nhã kinh đã lưu hành khắp vùng Bắc Ấn rồi. Hiếp Tôn giả không nêu ra những phân biệt không cần thiết, ông chỉ giải thích kinh văn bằng phương pháp giản lược. Tuy ông cũng có luận cứu về A tỳ đạt ma, nhưng thái độ của ông gần giống với học phong của phái Trì kinh. Ngoài ra, còn có hai vị: 1. Di Đố Lộ Thi Lợi (Maitreyaśrī). Theo Bà Tu Mật tập tự, trung gian giữa Bà Tu Mật với Tăng Già La Sát có Di Đố Lộ Thi Lợi, sẽ làm Phật ở hiền kiếp thứ bảy, Phật hiệu là Quang Diệm. Tuy không biết sự thật lịch sử, song Đại trí độ luận chép: “Nước Kế Tân có Bồ tát Maitreyaśrī, có tướng ngón tay thon dài”1 (một trong ba mươi hai tướng của Phật). Đây là một vị Bồ tát rất nổi tiếng ở Ấn Độ. 2. Pháp Cứu thuộc các đại sư Trì kinh Thí dụ, như trong bài tựa của Xuất diệu kinh, Tăng Duệ chép: “Xuất diệu kinh là do Pháp Cứu, cậu của Bà Tu Mật biên soạn”2. Pháp cú kinh do Pháp Cứu soạn, Pháp cú kinh đều có lưu hành trong các bộ phái. Nhưng Pháp cú kinh của Hữu bộ từ phẩm Vô thường cho đến phẩm Phạm chí đều do Pháp Cứu biên tập3.
1 Đại trí độ luận, quyển 88. Đại chính tạng, quyển 25, trang 684a.
2 Xuất diệu kinh, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 4, trang 609b.
3 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 27, trang 1b.
Pháp cú là kệ tụng, là giáo trình nhập môn của người mới xuất gia. Pháp Cứu cho rằng: “Hai thanh (ngữ và danh) không có sự sai khác, hai sự cùng hành là sai khác”, “vào tam muội mới thấy”4. Ông dùng những kinh nghiệm của thiền định để giải thích Phật pháp, cho nên ông chính là một vị thiền sư mà không còn phải nghi ngờ nữa. Pháp Cứu được tôn xưng là Bồ tát, đối với Bồ tát xác thật là có kiến giải độc đáo1:
4 Tăng Già Bạt Trừng dịch, Tôn Bà Tu Mật Bồ tát sở tập luận, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 28, trang 723b.
1 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 153. Đại chính tạng, quyển 27, trang 780a; Tôn Bà Tu Mật Bồ tát sở tập luận, quyển 8. Đại chính tạng, quyển 28, trang 779c.
“Bồ tát tuy đã phục được ngã kiến, không sợ bờ mé của diệt, không khởi hố sâu tưởng, và vì muốn tu tập Bát nhã nên đối với định diệt tận tâm không ham muốn vào, không để cho Bát nhã có đoạn có ngại. Cho nên tuy có khả năng nhưng không hiện vào”.
“Bồ tát phát tâm trở về sau cầu ngồi đạo tràng. Từ đó không vào địa ngục Nê lê, không vào súc sinh, ngạ quỷ, không sinh trong nhà bần cùng lộ thể chân đỏ. Tại sao? Trí tuệ tu hành không thể bị phá hoại”.
Bồ tát vì tu tập Bát nhã (prajñā) mà không muốn vào diệt tận định; từ lúc phát tâm trở đi, sẽ không đọa lạc trong ba ác đạo, hoặc sinh trong chốn bần cùng và không được khai hóa. Đó chính là lực dụng của Bát nhã. Vị đại sư phái Thí dụ thuộc Hữu bộ này đã đánh giá cao về Bát nhã của Bồ tát như thế đó. Pháp Cứu, Bà Tu Mật, Di Đố Lộ Thi Lợi, Tăng Già La Sát, Mã Minh đều được xưng tụng là Bồ tát. Lại có Hiếp Tôn giả khẳng nhận về Bát nhã kinh, chính là đại sư Hữu bộ của Đại thừa thời kỳ đầu. Phái Trì kinh, Thí dụ của hệ Bắc phương bằng lập trường Thanh văn Phật pháp đã dung nạp, thâu nhiếp tinh thần Bồ tát. Trong quá trình Phật pháp Đại thừa hưng thịnh ở Bắc phương, không nên bỏ qua những ảnh hưởng của học hệ này1.
1 Tham duyệt Ấn Thuận, Thuyết nhất thiết hữu bộ vi chủ… (sđd) chương 8, trang 355-406; chương 6, trang 245-268.
Đại tỳ bà sa luận nói đến phái Phân biệt luận (Vibhājyavādin), gồm có 560 điều. Các đại sư Tỳ bà sa của Hữu bộ cực lực phê bình bài xích họ, cho nên bị giải thích là phái bất chính phân biệt. Thực ra, Phân biệt luận và Phân biệt thuyết là hai bộ phái lớn được phân hóa từ Thượng tọa bộ (Sthavira) - Phân biệt thuyết bộ; Phân biệt thuyết bộ lại tiếp tục phân hóa ra bốn bộ: Hóa địa bộ (Mahīśāsaka), Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka), Ẩm quang bộ (Kāśyapīya), Xích đồng diệp bộ (Tāmraśātīya); bốn bộ phái này đều có thể xưng là người của Phân biệt thuyết. Xích đồng diệp bộ thì ở Tích Lan, nơi hải nam xa xôi; còn lại ba bộ phái lưu hành ở Ấn Độ, chính là được nói trong Đại tỳ bà sa luận. Kinh, luật, luận của ba bộ phái Hóa địa, Pháp tạng và Ẩm quang được truyền dịch tại Trung Quốc. Luật: có Ngũ phần luật, Tứ phần luật, Giải thoát giới kinh; kinh: chỉ có Trường A hàm của Pháp tạng bộ; luận: có Xá Lợi Phất A tỳ đàm gần với Hóa địa bộ. Không có một luận thư nào hoàn thiện phong phú, cho nên khó mà có được những lý giải tinh xác.
Căn cứ vào Dị bộ tông luân luận, thì chúng ta mới có thể biết đôi chút là Hóa địa bộ có quan hệ rất gần với Đại chúng bộ. Khảo luận qua chủ trương Phân biệt thuyết được nói trong Đại tỳ bà sa luận, chủ yếu là nói Hóa địa bộ. Học phong của Phân biệt thuyết cùng một khuynh hướng với các đại sư Thí dụ. Như dùng kệ tụng để xưng tán công đức của Phật: “Các kệ tụng dùng tán thán đức Phật, nhiều lời vượt quá sự thực, như Phân biệt luận khen ngợi Thế Tôn tâm thường ở trong định, lại khen ngợi Phật thường hằng không ngủ nghỉ”1. Điều này là nhằm phê phán kệ tụng của Mã Minh - Pháp Thiện Hiện và tụng văn của Đạt La Đạt Đa là tương đồng. Căn cứ vào kinh nói để làm tiêu chuẩn: “Phân biệt thuyết nói như vậy: không có 98 loại tùy miên như đã lập ra, trong kinh nói chỉ có 7 loại thôi”2. Như vậy là phủ định 98 thứ tùy miên được Phát trí luận lập ra. Các đại sư Tỳ bà sa lại trách mắng họ là “chấp trước văn tự”. Lại đưa ra nhiều thứ thí dụ như dụ phá bình3, dụ bẻ cây cỏ Lộ ca duyên4, dụ quả từ trong đồ đựng này mà chuyển vào một đồ đựng khác5 bị các đại sư Tỳ bà sa chê là “dựa vào ngôn luận thế tục”. Qua đó, chúng ta có thể thấy Phân biệt luận cũng xem trọng về sự giản yếu, thông tục phổ cập giáo hóa, còn nêu ra “không có hữu tình nào mà không có sắc, cũng không có định nào mà không có tâm”1. Trong kinh nói có “vô sắc giới” và “định vô tâm”, song phái Phân biệt thuyết và phái Thí dụ có kiến giải giống nhau là nói tâm với sắc không rời nhau, cảnh giới vô sắc là thuộc sắc vi tế, định vô tâm là có vi tế bất diệt. Đối với duyên khởi, đạo, quả và diệt đều nói là vô vi; cũng chính là xem trọng lý tính tất yếu của nhân quả và tu chứng. Hai điểm này giống với Đại chúng hệ chủ trương, nhưng bất đồng với quan điểm của phái Thí dụ2.
1 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 79. Đại chính tạng, quyển 27, trang 410b.
2 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 46. Đại chính tạng, quyển 27, trang 602c.
3 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 60. Đại chính tạng, quyển 27, trang 312b.
4 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 67. Đại chính tạng, quyển 27, trang 358a.
5 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 67. Đại chính tạng, quyển 27, trang 393a.
1 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 152. Đại chính tạng, quyển 27, trang 774a.
2 Tham duyệt Ấn Thuận, Thuyết nhất thiết hữu bộ vi chủ… (sđd) chương 9, trang 408-428.
Hóa địa bộ nói: “Tùy miên chẳng phải tâm và cũng chẳng phải là tâm sở, cũng không có sở duyên. Miên khác với triền. Bởi bản chất của tùy miên không tương ưng với tâm, còn bản chất của triền là tương ưng với tâm”3. Triền (paryavasthāna) là phiền não hiện khởi tương ưng với tâm, tùy miên (anuśayaḥ) là phiền não tiềm ẩn (thuộc chủng tử phiền não), cho nên không tương ưng với tâm. Phàm chủ trương “quá khứ và tương lai không tồn tại, chỉ có hiện tại mới thực có” thì đều nói như thế. Những tâm mê vọng trước đây chưa đoạn trừ, tuy chưa sinh khởi phiền não, nhưng phiền não vẫn là trong hiện tại, chỉ bởi nó tồn tại trong trạng thái tiềm ẩn mà thôi. Hóa địa bộ lại nói: “Huệ có hai loại, cùng thời mà sinh, đó là tương ưng và không tương ưng; tương ưng huệ thì biết được không tương ưng huệ, không tương ưng huệ thì biết được tương ưng huệ”1. Hai huệ cùng thời, liễu tri lẫn nhau, chỉ là vì thành lập trong một niệm hiện tiền có tác dụng tự tri.
3 Thế Hữu soạn, Huyền Trang dịch, Dị bộ tông luân luận, Đại chính tạng, quyển 49, trang 16c-17a.
1 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 9. Đại chính tạng, quyển 27, trang 42c.
Tâm năng tự biết là khuynh hướng chung của Đại chúng và Phân biệt thuyết hệ. Từ những sự hiển hiện bên ngoài mà luận sâu vào sự tiềm ẩn bên trong, Hóa địa bộ lại lập ra năm loại uẩn: “1. Nhất niệm khoảnh uẩn, có nghĩa là trong một sát na có pháp sinh diệt. 2. Nhất kỳ sinh uẩn, tức đến lúc chết pháp vẫn luôn chuyển theo. 3. Cùng sinh tử uẩn, nghĩa là cho đến khi chứng được định kim cang dụ thì pháp vẫn hằng tùy chuyển”2. Ba thứ uẩn là tầng lớp khác nhau của năm uẩn, “nhất niệm uẩn” là năm uẩn của sát na sinh diệt; “nhất kỳ sinh uẩn” là năm uẩn dị thục của nghiệp lực sở cảm, từ sinh đến tử đều thường hằng tùy chuyển.
2 Vô Tánh, Nhiếp Đại thừa luận thích, quyển 2. Đại chính tạng, quyển 31, trang 386a.
Dị bộ tông luân luận từng nói tất cả là sát na diệt, sát na cũng có hai thời trước và sau, cho nên có khả năng chuyển biến. “Nghiệp thức nhập thai là đi đầu, mà mạng chung là đi cuối. Sắc căn đại chủng đều có chuyển biến, tâm và tâm sở pháp cũng có chuyển biến”. Báo thể của nghiệp lực không ngừng chuyển biến tương tục, đến lúc nghiệp hết mà chết, lúc đó mới diệt không còn khởi nữa. Cho nên, đây vẫn là “chắc chắn không phải ít pháp có khả năng từ đời trước chuyển đến đời sau”1. “Uẩn tận cùng sinh tử” phải là thành lập muộn hơn. Sát na diệt rồi, vừa sinh khởi liền diệt rồi, nhưng vẫn không ngừng chuyển biến trong sinh tử, bởi năm uẩn vi tế tiếp tục kéo dài không dứt. Mãi đến định kim cang dụ, tất cả phiền não đều được đoạn sạch, năm uẩn hữu lậu mới diệt mất một cách triệt để.
1 Thế Hữu soạn, Huyền Trang dịch, Dị bộ tông luân luận, Đại chính tạng, quyển 49, trang 17a.
Trong pháp Thanh văn, sự tồn tại tiềm ẩn sâu xa vi tế, đều là sự gợi mở của tư tưởng chủng tử A lại da thức. Ngoài ra, Pháp tạng bộ sùng bái tháp Xá lợi Phật, cho nên nói: “Đối với nghiệp kiến tạo cúng dường Tốt đổ ba (tháp), sẽ chứng được đại quả”2. Tứ phần luật của Pháp tạng bộ trở thành bộ luật nổi tiếng của Phật giáo Trung Quốc. Người dịch ra bản Hán của Tứ phần luật là Phật Đà Da Xá (Buddhayaśas), người đã “tụng kinh Đại thừa và Tiểu thừa gồm hai trăm vạn lời”, cũng đã học tập Thập tụng luật của Hữu bộ. Pháp tạng bộ và Hữu bộ đều lưu hành ở Bắc Ấn, quan hệ của hai bộ phái này tương đối tốt. Phần Điều bộ và Tỳ ni tăng nhất của Tứ phần luật có sự tương thông với luật Hữu bộ. Việc cúng dường tháp có thể chứng được đại quả, ban sơ chỉ nói là có thể giải thoát. Tứ phần luật nói: “Người học Bồ tát đạo, hay cúng dường tóc và móng tay Phật, ắt sẽ thành tựu đạo quả vô thượng”1. Tương thông với tư tưởng cúng dường tháp Xá lợi, là vấn đề “một xưng nam mô Phật, đều đã thành Phật đạo” của Pháp hoa kinh.
2 Thế Hữu soạn, Huyền Trang dịch, Dị bộ tông luân luận, Đại chính tạng, quyển 49, trang 17a.
1 Phật Đà Da Xá, Tứ phần luật, quyển 31. Đại chính tạng, quyển 22, trang 785c.
Thuyết giới là vấn đề được Phật quy định cho Tỳ kheo mỗi nửa tháng tiến hành một lần, Tứ phần Tỳ kheo giới bổn lại nói: “Tôi nay thuyết Giới kinh, công đức thuyết giới này, nguyện ban khắp chúng sinh, cùng trọn thành Phật đạo”2, thì đó đã trở thành hạnh Bồ tát rồi. Điều này quyết không phải là nghĩa gốc của Pháp tạng bộ, mà là do trong quá trình Phật pháp Đại thừa phát triển, Pháp tạng bộ đã câu thông với Đại thừa. “Năm phần nghĩa giống Đại thừa”, đây mới là Đại thừa được Phật giáo Trung Quốc tán thưởng.
2 Hoài Tố tập, Tứ phần Tỳ kheo giới bổn, Đại chính tạng, quyển 22, trang 1023a.
Một nhánh của Phân biệt thuyết bộ truyền đến đảo Tích Lan thì thành ra Xích đồng diệp bộ. Vào khoảng những năm 34 - 17 TCN, vì chiến tranh loạn lạc nên mới phát khởi việc biên chép tam tạng, một lòng vì Đại tự (Mahāvihāra) của trung tâm Phật giáo, nghiêm túc tuân thủ sự ghi chép tập thành của lần này. Sau khi chiến loạn đã dẹp yên, vua Tỳ Đa Ca Ma Ni (Vaṭṭagāmanī) xây dựng Vô Úy Sơn tự (Abhayagirivihāra), long trọng thiết đãi cúng dường, dẫn đến sự mâu thuẫn bất hòa giữa hai ngôi chùa. Không bao lâu sau, phái Bạt Kỳ Tử (Vajjiputta), Tỳ kheo Pháp Hỷ (Dhammaruci) của Độc tử bộ dẫn các đệ tử đến Tích Lan, nhận được sự lễ ngộ của chư tăng chùa Vô Úy Sơn. Từ đó chùa Vô Úy Sơn cũng xưng là Pháp Hỷ phái. “Phật giáo Đại thừa” truyền vào Tích Lan cũng nhận được sự tiếp đón nồng nhiệt của chùa này, và từ đó phái Vô Úy Sơn tự trở thành “Đại Tiểu cùng hoằng”. Huyền Trang gọi đây là “Đại thừa của Thượng tọa bộ”. Còn phái Đại tự thì nghiêm túc tuân thủ theo cựu truyền và vẫn giữ thái độ bất hòa khá nghiêm trọng đối với phái Vô Úy Sơn tự. Chữ “Tiểu thừa” trong Xích đồng diệp bộ, trong Phật thí dụ của phái Thí dụ nói: “Hiện có mười phương giới, mỗi một phương không có biên tế. Phương nào cũng diện kiến được thế giới Phật, không thể dùng toán số mà tính được”. “Đa số Phật và chúng La hán đều khắp nơi hội tập đến. Con kính lễ và quy mạng, Phật kia cùng chúng La hán”1.
1 Phật thí dụ kinh, Nam truyền, quyển 26, trang 9-11.
Trong hiện tại có mười phương Phật, có mười phương quốc độ. Quan điểm này trước Công nguyên đã được Xích đồng diệp bộ chấp nhận, và cũng bắt đầu mở ra con đường thông với Đại thừa. Nhưng do đối kháng với phái Vô Úy Sơn, dẫn đến nắm giữ lề lối của người xưa truyền lại, không còn tiếp tục tiếp nhận tất cả nữa. Đầu thế kỷ V, Pháp Hiển đến Tích Lan. Tại Tích Lan, ông tìm được Ngũ phần luật và Tạp A hàm kinh. Ngũ phần luật là của Hóa địa bộ, Tạp A hàm kinh là thuộc Hữu bộ. Như vậy có thể thấy đương thời chùa Vô Úy Sơn là trung tâm Phật giáo Tích Lan, trước đó chắc chắn có những vị Tỳ kheo của các bộ phái đến hoằng pháp. Huyền Trang biết được ở Tích Lan có Đại thừa Du già. Thời nhà Đường, Bất Không (Amogha-vajra) đã thọ học được mười tám hội Kim cang giới Du già tại đây. Nhưng đây là việc của thế kỷ VIII.
Phật giáo Tích Lan trở thành cục diện thống nhất ở Đại tự, trong đó Giác Âm (Buddhaghoṣa) là một nhân vật quan trọng. Giác Âm người Trung Ấn, xuất gia với Ly Bà Đa (Revata), cùng chung sống với tăng chúng Tích Lan trong Đại Bồ đề tự (Mahābodhivihāra) ở Phật Đà Già Da (Buddhagayā). Ông tu học theo tam tạng Pali văn. Giác Âm ở chùa Đại Tự Tích Lan vào năm 412, ông cùng với tăng chúng ở Đại Tự dùng Pali văn để viết chép tam tạng nhằm nêu cao quyền uy và tín ngưỡng đối với Pali văn, do Pali văn là ngôn ngữ được đức Phật sử dụng nhiều.
Giác Âm chú thích bốn bộ kinh (tương đương với bốn bộ A hàm) và luật tạng, hoàn toàn y theo thứ lớp giới định tuệ. Ông viết bộ Thanh tịnh đạo luận, là bộ luận nổi tiếng. Bộ luận điển này căn cứ vào bộ Giải thoát đạo luận của Ưu Ba Đề Xá (Upatissa) để tu chỉnh và bổ sung. Thanh tịnh đạo luận thuyết minh rõ lịch trình tu đạo giải thoát một cách hoàn bị của Thanh văn. Nhưng đương thời, do ở trong thế đối lập bởi chiến loạn không ngừng của Tích Lan mà Phật giáo phải chịu tổn hại, cơ hồ gần như diệt vong. Nhờ vào tam tạng Pali và những quy củ của phái Đại tự mà Phật giáo khởi sắc trở lại. Đồng thời do các Tỳ kheo Tích Lan từng đến hoằng pháp tại Thái Lan mà sau đó các Tỳ kheo Thái Lan lại trở lại hoằng pháp ở Tích Lan, rồi thành lập lại chế độ Tăng già ở nước này. Sự kiện giao lưu này đã diễn ra từ thế kỷ XVIII rồi1.
1 Tham khảo Tịnh Hải, Nam truyền Phật giáo sử, trang 22-77.
Thảo luận thêm về Độc tử bộ hệ: từ Độc tử bộ phân hóa ra thêm bốn bộ khác: Pháp thượng bộ (Dharmottarīya), Hiền thủ bộ (Bhadrayānīya), Chính lượng bộ (Sammatīya), Mật lâm sơn bộ (Saṇṇagarikāḥ). Chính lượng bộ phát triển rất rực rỡ, trở thành một tông hệ lớn. Giáo điển của Độc tử hệ ngay từ rất sớm đã được truyền vào Trung Quốc, như Tứ A hàm mộ sao giải được La Thập (Kumārabuddhi) dịch vào thời Phù Tần; Tăng Già Đề Bà tái dịch, lấy tên là Tam pháp độ luận. Luận gồm ba phẩm, phẩm Đức, phẩm Ác, phẩm Y; mỗi phẩm phân ba độ. Trong Bộ chấp dị luận của Chân Đế (Paramaārtha), dưới phần các phái Độc tử bộ có liệt thêm: “Như Lai nói kinh có ba nghĩa: 1. Hiển bày lỗi lầm của sinh tử, 2. Nêu rõ công đức giải thoát, 3. Vô sở hiển”2, ý nghĩa tương đương với ba phẩm này. Thực ra, điều này cũng là Hữu bộ nói, như Đại tỳ bà sa luận phân 42 chương thành ba loại: “cảnh giới loại”, “lỗi lầm loại”, “công đức loại”1. Tam pháp độ luận tất cả đều lấy ba phần pháp để thuyết minh, chắc chắn sẽ rất dễ nhớ.
2 Chân Đế, Bộ chấp dị luận, Đại chính tạng, quyển 49, trang 22a.
1 Huyền Trang dịch, A tỳ đạt ma Đại tỳ bà sa luận, quyển 90. Đại chính tạng, quyển 27, trang 466b.
Giáo điển của Độc tử bộ được Trần Chân Đế dịch 3 bộ: 1. Phật A tỳ đàm kinh, 9 quyển, nội dung phần đầu tương hợp với Đạo can kinh, là “phân biệt thuyết nhân duyên”, phần sau là “phân biệt thuyết giới” như: Đức Phật đến thành Vương Xá (Rājagṛha), Xá Lợi Phất xuất gia; Độc tử ngoại đạo xin xuất gia, rộng nói việc thọ giới. 2. Luật nhị thập nhị minh liễu luận, 1 quyển, là luận về luật của Chính lượng bộ. Luận này gộp với Bí sô ngũ pháp hành kinh để khảo đính: “Tỳ kheo giới bản” của Độc tử bộ gồm có hai trăm giới2. 3. Lập thế A tỳ đàm luận gồm 10 quyển, tính chất của luận gần giống với Khởi thế nhân bổn kinh.
2 Ấn Thuận, Nguyên thủy Phật giáo thánh điển chi tập thành, Chính Văn xuất bản, năm 1994, chương 3, trang 170-179.
Bát Nhã Lưu Chi (Prajñāruci) thời Nguyên Ngụy có dịch 3 bộ: thứ nhất là Chính pháp niệm xứ kinh, 70 quyển, lấy nghiệp báo thiện ác làm tôn chỉ, cùng thông với ý thú trong Thiện ác nghiệp báo lược của Mã Minh. Thứ hai là Độc tử đạo nhân vấn kinh, 1 quyển. Thứ ba là Tam di để bộ luận. Căn cứ vào cuối luận, nên “y thuyết luận” lập ra ba hạng người: “y thuyết nhân”, “độ thuyết nhân”, “diệt thuyết nhân”3. Trong một số bản dịch này, có thể thấy được Độc tử bộ chủ trương thông tục phổ cập giáo hóa, gần với học phong của các đại sư phái Thí dụ của Hữu bộ. Bởi trọng về phổ cập giáo hóa, cho nên giáo khu của Chính lượng bộ mà Huyền Trang chính mắt nhìn thấy là vô cùng rộng lớn. Độc tử bộ cũng có A tỳ đàm nhưng nghĩa lý luận cứu cũng khuynh hướng theo khả năng tin hiểu và tiếp nhận của người đời. Như ngoài việc thành lập “ngã không thể nói” ra, còn nói “các hành có tạm thời trụ, cũng có sát na diệt”1. Trong các pháp hữu vi, tâm tâm sở pháp, âm thanh, đèn sáng là sát na diệt, thông thường các sắc pháp đều tạm thời an trụ trong một thời kỳ nhất định. Bởi thế, Chính lượng bộ nói: “Tính chất của thân biểu là hành động. Thế nào là hành động? Có nghĩa di chuyển đến chỗ khác, được nhiếp vào sắc xứ”2. Thân biểu nghiệp, như việc di chuyển từ chỗ này đến chỗ kia, là hành vi của thân thể trong quá trình động tác. Động là tạm thời an trụ, cho nên có thể từ chỗ này đến chỗ kia.
3 Trên đây tham khảo Ấn Thuận, Thuyết nhất thiết hữu bộ vi chủ… (sđd), chương 9, trang 449-468.
1 Thế Hữu soạn, Huyền Trang dịch, Dị bộ tông luân luận. Đại chính tạng, quyển 49, trang 16c.
2 Đại thừa thành nghiệp luận. Đại chính tạng, quyển 31, trang 781c.
Lại lập ra pháp không mất (avipranṇāśa). Như Trung luận nói: “Pháp không mất như sổ khế nợ. Nghiệp như tài vật vay mượn, tính chất nó là vô ký, phân biệt ra gồm bốn loại. Bởi pháp không mất dấu nên các nghiệp có quả báo”3. Lúc thân thể và ngôn ngữ biểu nghiệp sinh khởi thì trong uẩn tương tục có pháp không mất liền sinh khởi. Nghiệp mất rồi nhưng pháp không mất vẫn được lưu tồn, giống như tài vật của người xưa cho người khác mượn thì phải có sổ nợ để làm chứng. Pháp không mất là tạm thời an trụ, phải đợi đến lúc chiêu cảm quả báo mới hết, giống như trả xong nợ thì sổ nợ cũng xé bỏ. Việc thành lập ra ba đời nhân quả, lập ra pháp không mất lấy chứng cứ vay mượn để làm thí dụ, nếu không phải là việc thông thường thì thế tục dễ dàng tin hiểu và tiếp nhận sao1? Như vậy học phong của Chính lượng bộ có sự gần gũi với các đại sư phái Trì kinh Thí dụ. Trong quá trình phổ cập hóa Phật giáo, điều này không thể bỏ qua được.
3 Long Thọ, Trung luận, quyển 3. Đại chính tạng, quyển 30, trang 22b.
1 Pháp không mất, tham duyệt Chân Đế dịch, Tùy tướng luận, Đại chính tạng, quyển 32, trang 161c-162a.
Thời đại Phật pháp Đại thừa, tư tưởng Đại chúng hệ do không có kinh luận truyền dịch nên không thể đánh giá một cách rõ ràng. Đại tập kinh nói: Đại chúng bộ “duyệt đọc rộng khắp kinh thư của năm bộ”. Ha Lê Bạt Ma truyện chép: “Có chúng Tăng của Tăng kỳ bộ ở ấp Ba Liên Phất đều tôn phụng Đại thừa, nghiên cứu Phương đẳng, ý chí kiên định nơi chín bộ”2. Đại chúng bộ duyệt lãm các bộ phái, nhưng không phản đối Đại thừa. Luận Đại thừa đôi khi nói đến nghĩa của Đại chúng bộ. Thứ nhất, Căn bản thức: như Nhiếp Đại thừa luận nói: Đại chúng bộ nói “thức căn bản như cây nương vào gốc rễ”1. Ý thức và năm thức trước đều nương vào ý căn mà khởi. Tức “bởi A đà na thức nương vào để kiến lập nên sáu thức thân chuyển biến”. Duy thức tam thập tụng nói: “Nương vào thức căn bản, năm thức tùy duyên mà hiện khởi, ý thức thường hiện khởi”2. Căn bản thức là một cách thuyết minh khác của “nương vào ý mà sinh ra thức được nói trong A hàm kinh. Thứ hai, Nhiếp thức: Hiển thức luận được Chân Đế dịch nói rằng sức huân tập, trong Đại chúng có tên là Nhiếp thức. Giống như việc tụng kinh; từng biến từng biến tụng, khoảng mười biến thì có thể thuộc. Biến cuối cùng nhiếp lấy tất cả các biến trước. Nhiếp thức được gọi là thức nhưng thực ra nó là bất tương ưng hành3. Chắc chắn nó là một loại sức mạnh được thu giấu trong thức. A tỳ đạt ma Đại thừa kinh nói: “Bởi cất giấu hết thảy chủng tử thức”4, ý nghĩa đó chẳng phải cùng loại sao? Tâm thức luận của Đại chúng bộ và “cùng sinh tử uẩn”, “thức hữu phần” không nhất định là vì thuyết minh về Duy thức (vijñāpti-mātratā). Nhưng thức thứ tám của Đại thừa duy thức là do sự dẫn khởi của tư tưởng này mà thành lập nên.
2 Đàm Vô Sấm dịch, Đại phương đẳng đại tập kinh, phần Hư không mục (phần 10). Đại chính tạng, quyển 13, trang 159c; Tăng Hựu, Xuất tam tạng ký tập, quyển 11. Đại chính tạng, quyển 55, trang 79a.
1 Vô Trước, Nhiếp Đại thừa luận, quyển thượng. Đại chính tạng, quyển 31, trang 134a.
2 Huyền Trang dịch, Giải thâm mật kinh, quyển 1. Đại chính tạng, quyển 16, trang 692c; Thế Thân, Duy thức tam thập tụng. Đại chính tạng, quyển 31, trang 60c.
3 Chân Đế dịch, Hiển thức luận, Đại chính tạng, quyển 31, trang 880c.
4 Vô Trước, Nhiếp Đại thừa luận, quyển thượng. Đại chính tạng, quyển 31, trang 133b.