Nếu xem xét liệu pháp tâm lí học hoàn toàn từ góc nhìn của bệnh nhân, cả trên thực tế lẫn ý nghĩa tư tưởng của nó, thì rõ ràng là không nên so sánh nhà trị liệu với bác sĩ điều trị. Bác sĩ, về cơ bản, áp dụng một phương pháp chữa bệnh dựa trên kĩ năng và lòng tin mà ông ta được chuyển giao lại. Còn nhà trị liệu, ngay từ lúc đầu, đã đóng một vai trong toàn bộ tình huống trị liệu được tạo ra, và ông ấy sẽ không kiệt quệ trong toàn bộ đống kĩ thuật trị liệu, ngay cả nếu ông ấy phải đảm nhận vai “chuyển dịch ngược”54. Chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được vai trò của nhà trị liệu dựa trên giả thiết đã được đưa ra trong chương đầu của cuốn sách này. Giả thiết này lấy con người làm phương thức điều trị chính yếu, chứ không phải là chút khôn ngoan được lĩnh hội qua tri thức và kĩ thuật khéo léo. Tuy vậy chúng ta lập tức nhận ra rằng, liệu pháp lấy con người làm trung tâm này dù về bản chất là giống nhau, ấy vậy lại phải sử dụng khác nhau, tùy biến với mỗi bệnh nhân, và do đó, có tác dụng khác nhau ở mỗi người khác nhau. Vượt xa phương pháp trị liệu thuần túy y học, liệu pháp con người đem đến một tác nhân mang tính kiến tạo tích cực, trong đó: Bệnh nhân không chỉ mong muốn tương tác với nhà trị liệu đúng như con người ông là, anh ta còn muốn tạo ra hoặc tái tạo lại ông. Và đấy chính là toàn bộ trải nghiệm bệnh nhân cần trải qua để có thể tự giúp chính mình. Cho dù có ý thức về điều đấy hay không, nhà trị liệu cũng phải cung cấp cho bệnh nhân điều anh ta muốn, bởi nếu không thì bệnh nhân đang bị nỗi thống khổ dày vò không bao giờ có thể trở nên khỏe mạnh được. Tôi tin vào điều đấy.
54 Chuyển dịch ngược (Countertransference): Phản ứng cảm xúc của nhà trị liệu trước kích thích từ bệnh nhân.
Cuộc chiến ý thức hệ giữa nhà trị liệu và bệnh nhân thực ra mà nói chính là một cuộc xung đột ý chí, thế nên sự phản kháng có thể xảy ra ở cả hai bên: cả ở phía nhà trị liệu, và ở bệnh nhân đương nhiên không thể nào tránh khỏi, bởi tư tưởng về bệnh tật của họ đối lập với tư tưởng chữa lành của nhà trị liệu. Tuy không thể tránh khỏi tình huống xung đột này, song nhà trị liệu vẫn có thể sử dụng nó để trị liệu nếu ông ấy không khăng khăng cho rằng tri thức (mang tính thuyết lí giáo dục) của ông là đúng, và ngầm giả định rằng bệnh nhân nhất định là sai, rằng nỗi thống khổ của anh ta chính là bằng chứng cho cái sai này. Trải nghiệm trị liệu đã cho thấy: Nhà trị liệu có thể chữa lành theo cách của mình, bệnh nhân cũng chỉ có thể trở nên khỏe mạnh theo cách của mình, có nghĩa là anh ta chỉ trở nên khỏe mạnh theo cách mà anh ta muốn và vào lúc mà anh ta muốn. Khoảnh khắc anh ta quyết định tìm đến phòng trị liệu và cách anh ta kết thúc nó rõ ràng đủ minh chứng cho điều này.
Nhà trị liệu phải ghi nhớ rằng, rất có khả năng là hệ tư tưởng trị liệu của ông bị định hướng sai, dù nó có bao quát hay không, bởi rất có thể nhà trị liệu đang dùng hệ tư tưởng đấy để biện minh cho chính mình. Hoặc là với từng ca bệnh cụ thể, mỗi người bệnh sẽ mang theo một động lực phục hồi của riêng mình, như vậy thì không có lí thuyết chung nào đúng được cho tất cả các trường hợp. Tất cả những thông tin này, nhà trị liệu chỉ có thể có được thông qua trải nghiệm trị liệu, với cái nhìn tâm lí về toàn bộ nhân cách, cá tính của bệnh nhân, chứ không đơn thuần là vài khía cạnh về dục năng.
Trong những chương tiếp theo, tôi sẽ cố gắng phác họa chân dung mẫu hình nhà trị liệu kiến tạo, bởi đó cũng là một con người tiềm tàng trong bệnh nhân, và trong mỗi người chúng ta. Đúng hơn là, tôi đã cố gắng hình dung nhà trị liệu trong mối tương quan với người loạn thần kinh, bởi trong anh ta cũng có một nhà trị liệu đang ngủ vùi. Như bạn biết đấy, ngay từ đầu tôi đã nói, tôi không lấy một người bình thường để làm chuẩn mực cho người loạn thần kinh, cũng không định chữa lành cho anh ta bằng cách làm cho anh trở-nên-bình-thường. Tôi nhìn anh ta từ góc độ mẫu người sáng tạo, người sẽ kiến tạo một nhân cách mới bằng ý chí của chính mình. Tôi ý thức được rằng, không thể đem một định nghĩa chính xác áp lên người loạn thần kinh trong quá trình trị liệu, chúng ta chỉ có thể phác họa chân dung của mỗi ca bệnh thông qua trải nghiệm trị liệu. Tôi tin mọi quan niệm thông thường về anh ta chỉ đơn thuần là đúng với thực tế, mà như vậy nó sẽ không dẫn chúng ta đến một liệu pháp mang tính kiến tạo nào, tức là không đem lại hiệu quả trị liệu thực tế nào. Chỉ bằng cách thấu hiểu con người tiềm năng của anh ta, cái khả thể mà anh ta sẽ-trở-thành, chứ không phải bức tranh về những gì anh ta nên-là một cách bình thường, mới có thể tạo dựng nền tảng cho một liệu pháp năng động và tích cực. Đối với tôi, liệu pháp duy nhất hiệu quả dành cho người loạn thần kinh, đấy là hãy kiến tạo một con người mà anh ta muốn-trở-thành, sẽ-trở-thành: một nhân cách mới, hoặc ít nhất, một tiềm năng được đánh thức trong anh ta. Lí thuyết trị liệu của phân tâm học cố gắng bình thường hóa một kẻ loạn thần kinh, để anh ta ngày càng đi theo hướng tiêu cực, tự hủy hoại, bởi nó nhấn mãi vào phần con người, thậm chí thấp hơn cả bản năng con người trong mỗi cá nhân. Còn liệu pháp kiến tạo ý chí cố gắng cho thấy trong người loạn thần kinh thực sự tồn tại một khả thể của con người siêu phàm, một tia lóe sáng thánh thiêng và đẹp đẽ.
Một cá tính sáng tạo không bao giờ thuần túy cá nhân. Muốn kiến tạo cá nhân thì phải cùng lúc có tính cộng đồng, hay ít nhất làm việc trên tinh thần cộng đồng để đạt được ý nghĩa kiến tạo của nó. Ai cũng biết rằng các tôn giáo cổ là một lực gắn kết cộng đồng, gắn kết tư tưởng và cảm xúc của mỗi cá nhân. Giờ đây tâm lí học đánh bạo đảm nhận nhiệm vụ này. Nhưng nếu chỉ dựa trên một hệ tư tưởng mang tính cá nhân thuần túy thì rốt cùng nó vẫn chỉ dẫn con người đến đau khổ, nó sẽ thất bại trong việc chữa lành55. Mọi hệ tư tưởng trị liệu hiệu quả phải mang tính cộng đồng và hướng đến cộng đồng. Nếu không có tư tưởng cộng đồng này thì không chỉ tôn giáo mà cả nghệ thuật, giáo dục và trị liệu đều không thể trở thành phương thuốc chữa lành cho tâm hồn con người. Tất cả các cách chữa bệnh theo kiểu cá nhân khác biệt, cá nhân siêu phàm, lẫn cả việc xem xét và mô tả tâm lí cá nhân thuần túy đều chỉ tạo ra bức tranh một chiều, méo mó và loạn thần về con người.
55 Tham khảo thêm Seelenglaube und Psychologie (bản tiếng Anh: Psychology and the Soul), 1930.
Khái niệm về chứng loạn thần kinh vì vậy đã chuyển từ phạm vi y học chật hẹp sang phạm vi xã hội rộng lớn hơn. Adler vốn cho rằng người rối loạn thần kinh đơn thuần chỉ là do họ không hòa hợp với xã hội. Ở đây chúng ta còn có thể hiểu rộng ra rằng: Người loạn thần kinh còn có nghĩa là họ không có tính kiến tạo và không sản xuất gì, họ thu rút vào trong bản thân mình, chỉ sống vì cá nhân, mà không tạo ra điều gì để đóng góp cho cộng đồng. Thật ra trong thực tế, cả hai phương diện cá nhân và cộng đồng đều cần thiết để một con người có một cuộc sống hài hòa. Tuy nhiên về lí thuyết, chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng hai phương diện đấy. Trong các trường phái phân tâm học, chúng thường bị trộn lẫn theo nhiều cách khác nhau: Liệu pháp cá nhân của Freud thì dựa trên nền tảng tâm lí học xã hội. Liệu pháp xã hội hóa của Adler, hóa ra cuối cùng lại làm tăng cường tính cá nhân. Và Jung, vốn đi con đường trung gian, vẫn chưa dựng được cây cầu nối từ cộng đồng xã hội đến năng suất cá nhân, thế nên ông ấy đã không thể đi đến một liệu pháp mang tính kiến tạo. Ông ấy bị dụ hoặc bởi những điều huyền bí, và không thể dấn bước để đưa ra những khái niệm tâm lí học rõ ràng. Freud đã ngầm đưa những ý tưởng xã hội học vào trong tâm lí học của mình, chẳng hạn như cái siêu-tôi mà ông nói đến không là gì khác ngoài một cái tôi xã hội, mà từ đó những nỗi thống khổ, những cơn dày vò lương tâm nổi lên. Nguồn gốc của lương tâm này là một vấn đề tâm lí học, nhưng Freud đã cố giải thích nó theo hướng xã hội học, vì ông suy ra nó từ ảnh hưởng bên ngoài là thẩm quyền của người cha.
Đối với tôi, câu hỏi “Tại sao con người lại có tính xã hội?” cũng là một vấn đề tâm lí. Vì xét cho cùng, nó liên quan đến một cảm giác của nội tâm: cảm giác thuộc-về-nhau. Bởi thực tế, con người không chỉ là một cá thể đơn lẻ, nó còn là một phần thuộc về toàn thể lớn lao hơn. Cái nghịch lí tâm lí đấy, dù dưới dạng này hay dạng khác, chỉ có thể giải quyết theo hướng đạo đức xã hội. Chúng ta nhìn nhận tội lỗi của mình: về mặt tôn giáo là tội lỗi trước Đức Chúa Trời; về mặt xã hội là tội lỗi đối với người cha, và về mặt sinh học là tội lỗi đối với người mẹ. Bởi chúng ta biết mình không phải là của riêng mình.
Tuy nhiên về mặt lí thuyết, tâm lí học phải được đối xử thuần túy như một vấn đề cá nhân. Nó phải được nhìn nhận thấu đáo hơn những gì đã và đang được làm. Nó phải được thanh lọc khỏi những khái niệm sinh học và xã hội. Những khía cạnh này đúng là đóng một vai trò mạnh mẽ trong đời sống tâm hồn con người, vì chúng mang theo hệ tư tưởng của cộng đồng, chúng cung cấp nguyên liệu cho động lực cá nhân và đem đến chất liệu cho sự kiến tạo cá nhân. Đấy cũng có thể là nội dung của tâm lí học, nhưng không phải đối tượng chính của nó. Tuy vậy, rất có thể, chúng góp phần tạo thành tác nhân trị liệu cốt lõi, bởi chúng hoạt động như những tư tưởng cộng đồng có tác dụng kiến tạo, trong khi tâm lí cá nhân tự nó không có tác dụng trị liệu nào cả.
Đây là một tác phẩm viết về TRỊ LIỆU, song tôi nhất định phải giới thiệu những khái niệm thuần túy tâm lí học, thay vì đánh tráo những khái niệm đấy trên phương diện tâm-sinh lí học và tâm lí học xã hội như phân tâm học đã làm. Bởi tôi muốn bạn thật sự minh bạch và rạch ròi những khía cạnh này, đấy là điều cần thiết, ít nhất về mặt khoa học. Ngay cả khi chúng ta biết rằng, trong thực tế, cá nhân không bao giờ hiện diện thuần túy là chính nó, nó luôn tồn tại với cả những khía cạnh xã hội và cộng đồng. Và do đó, về mặt trị liệu, chúng ta vẫn có thể giúp cá nhân hòa hợp với xã hội, song tôi vẫn thấy việc bất minh và trộn lẫn các khía cạnh đấy gây nên cách nhìn nhận và cách làm sai lầm. Nếu Freud nhìn nhận cái-nó (id), cái tôi và cái siêu-tôi trong một trạng thái tĩnh tại, thì tôi lại thấy Xung năng (bản năng), Cảm xúc và Ý chí như là những nhân tố năng động. Từ đó phân biệt các yếu tố sinh học chứa trong cái-nó (id), minh bạch những khía cạnh xã hội được đồng hóa vào cái siêu-tôi với tư cách những tư tưởng cộng đồng được cài đặt sẵn. Nhờ có sự năng động của cá nhân mà tạm thời những khía cạnh đấy được cấp cho một ý nghĩa tâm lí học, và do đó, mang theo hiệu quả thực tiễn trong trị liệu.
Để tạo ra một liệu pháp hiệu quả, chúng ta phải thấu hiểu những (i) động cơ thuần túy tâm lí trong nội tâm mỗi cá nhân, cũng như hiểu biết về (ii) hệ tư tưởng tập thể đã lấp đầy anh ta và khiến anh ta trở thành con người như anh ta hiện-là. Ý thức hệ tập thể này là thứ bất định, nó biến đổi liên tục, nó chỉ cố định trong một tầng mức văn hóa nhất định, và vì thế, nó thuộc về lĩnh vực của nhà phê bình văn hóa, hơn là của nhà trị liệu tâm lí. Đối với nhà trị liệu, động lực cá nhân mới là hằng số bất biến có vai trò quan trọng, nó nằm trong bản chất con người. Chắc chắn nó quan trọng không phải bởi tự nó, mà bởi mối liên hệ của nó với những yếu tố xã hội đang hiện hành. Tuy vậy hãy nhớ, chúng tác động lẫn nhau, chứ không phải trộn lẫn nhau. Nhìn nhận chúng là nhìn nhận khía cạnh tác động qua lại này, chứ không phải đánh đồng tất cả vào một và dùng cái nọ để biện minh cho cái kia – như các nhánh phân tâm học vẫn làm.
Theo nghĩa này, Phần Một của cuốn sách đã đưa ra một bản mô tả thuần túy tâm lí về kiểu rối loạn thần kinh chức năng: Đấy là một dạng của các chứng tâm thần ít nhiều có mầm mống trong tất cả chúng ta. Phần Hai này sẽ cung cấp cho bạn những khía cạnh trị liệu thực tiễn. Chúng ta sẽ nhìn hoàn cảnh trị liệu ở góc độ rộng hơn, như một tình huống xã hội, một thực tại mà trong đó người rối loạn thần kinh đến mức cực đoan và đối lập với nhà trị liệu. Việc chia cuốn sách thành một phần lí thuyết và một phần thực hành giúp cho bạn có thể hình dung đơn giản và minh bạch hơn. Nó đồng thời cũng làm rõ phương pháp luận của tôi: Quá trình thấu hiểu cá nhân dưới góc độ thuần túy tâm lí học và Quá trình trị liệu thực tiễn về cơ bản là hai quá trình khác nhau. Một đằng mang chứa những tri thức giúp bạn thấu hiểu con người. Một đằng là trải nghiệm thực tiễn giúp chữa lành những trái tim tổn thương, những nỗi thống khổ tinh thần. Cả hai quá trình đấy làm nên một cái tôi gọi là sự-sống, là một mối tương giao không chỉ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu, mà còn giữa người với người trong kiếp nhân sinh này.