• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Liệu pháp ý chí
  3. Trang 17

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 25
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 25
  • Sau

IXLiệu pháp tư tưởng và liệu pháp năng động

Không phải là nói đùa đâu – các ngài bác sĩ điều trị, các ngài chỉ biết phần nhỏ nhất của sức mạnh Ý chí. Bởi Ý chí tạo nên những trạng thái tinh thần mà lí lẽ bình thường không giải thích được

- Paracelsus -

Nhìn lại quá trình phát triển trị liệu của phân tâm học trong những năm gần đây, chúng ta thấy rõ ràng là tiến bộ về kĩ thuật không thể sánh được với sự phát triển của lí thuyết phân tâm. Sự phát triển lí thuyết này gần như tương ứng với sự sửa đổi từ lí thuyết dục năng (libido) ban đầu thành tâm lí học về cái tôi (ego). Có điều, tại sao sự phát triển lí thuyết chưa đem đến tiến bộ trong trị liệu?

Theo tôi, lí do nằm ở một thực tế: Tiến bộ lí thuyết này có vẻ không như những gì nó thực là. Bởi trong đấy, có những dữ kiện thực tế mà ai cũng biết nhưng trước đó đã bị bỏ qua, hoặc có những điều trước đây được diễn giải phiến diện theo hướng dục năng (libido), thì nay mặc nhiên được chấp nhận như thường thức giản đơn, mà không hề được nghiên cứu về mặt lí thuyết. Do đó, giai đoạn sau của phân tâm học không hề dẫn đến việc hình thành một tâm lí học về cái tôi (ego) đích thực. Nó chủ yếu áp dụng thuyết ham muốn tính dục vốn đã bị hạ bệ vào giải thích cái tôi, dựa trên khái niệm tự si và tiến đến cao trào là cái siêu-tôi. Một chút thay đổi mà phương pháp trị liệu phân tâm làm trong những năm gần đây, vượt ra ngoài quan niệm ban đầu của Freud, là áp dụng lí thuyết siêu-tôi để trị liệu. Nhưng kĩ thuật này dường như có tính phỏng đoán hơn là thực tế, do sự giản lược của khái niệm “cái tôi (ego) và cái nó (id)”.

MỘT LIỆU PHÁP LẤY CON NGƯỜI LÀM TRUNG TÂM

Trong giai đoạn này, độc lập với lí thuyết dục năng của phân tâm học và ứng dụng của nó cho tâm lí học về cái tôi, tôi đặt cái-tôi của bệnh nhân – cùng với ý chí của nó vào trung tâm của hoàn cảnh trị liệu. Khi ấy nhà trị liệu cùng với “kĩ thuật” của ông chỉ còn đóng vai trò là một công cụ trị liệu mà bệnh nhân sử dụng, hòng tìm kiếm một sự giải thoát tạm thời khỏi xung đột ý chí và tội lỗi của mình. Vì vậy, trong Liệu pháp Ý chí của tôi, nhà trị liệu không chỉ đóng vai dục năng – như Freud gán cho ông, hay vai trò cái siêu-tôi – mà về cơ bản không khác biệt gì lắm với điều Freud công nhận gần đây. Nhà trị liệu còn đóng tất cả những vai có thể, thậm chí có những vai ông hoàn toàn không thể biết trước, và dù có thể biết trước, cũng không thể rút lui.

Việc bệnh nhân “chiếm hữu” nhà trị liệu cho mục đích tâm lí của riêng mình cũng chỉ là một phần trong sự phản kháng do khác biệt trong hệ tư tưởng của hai bên. Việc này là không thể tránh khỏi, nó cũng cần thiết và có tính trị liệu nếu nhà trị liệu biết cách tận dụng nó. Freud diễn giải sự chiếm hữu tâm lí này như là một “sự lặp lại”56 thì vô hình chung ông đã bỏ sót mất dấu hiệu trị liệu của nó. Bởi ngay cả nếu bệnh nhân có thôi thúc lặp lại, thì đấy vốn chỉ là một biểu hiện tự nhiên của anh ta. Anh ta làm thế, và bởi làm thế, nên cùng lúc mới có thể thay đổi chính mình. Nếu biết nhấn mạnh sự lặp lại hay thay đổi đấy, nhà trị liệu sẽ tạo ra một sự khác biệt mang tính quyết định đối với quá trình trị liệu. Nếu nhà trị liệu chỉ tập trung vào thôi thúc lặp lại này mà bỏ qua dấu hiệu của khuynh hướng thay đổi trong đó, thì có nghĩa là ông ấy cũng bỏ qua thực tế rằng: Chỉ riêng sự lặp lại đơn thuần trong mối quan hệ với nhà trị liệu thôi cũng đã rất hữu ích cho mục đích trị liệu rồi. Nó tương ứng với Ý chí trừng phạt (một phản ứng thuộc về sự phản kháng); hoặc Ý chí cải thiện (một dấu hiện tiến triển trong khi lặp lại). Song nhà trị liệu chỉ có thể tận dụng hiệu quả sự lặp lại đấy cho mục đích kiến tạo nếu ông ấy không bị phong bế trong sự tự si hay tư tưởng bi quan của mình.

56 Xem bảng thuật ngữ cuối sách.

Phân tâm học của Freud, thay vì để nhà phân tâm đảm nhận vai trò khiêm tốn là chất xúc tác trong trải nghiệm của bệnh nhân, thì lại nhấn mạnh khuynh hướng lặp lại như một phản kháng không thể vượt qua được. Từ đó nó đưa ra một tiền đề lí thuyết cho rằng: chứng khổ dâm chính là một biểu hiện của “bản năng chết”. Đối với tôi, tiền đề đấy chỉ để che đậy cho sự bất lực của lí thuyết phân tâm trong trị liệu. Nói cách khác, khái niệm về phản kháng của Freud phát nguyên bởi: Nhà phân tâm đặt cái tôi tự si của mình ở vị trí trung tâm, do vậy nó dẫn đến chủ nghĩa bi quan trong trị liệu. Nếu nhìn từ góc độ của nhà phân tâm, thì bất cứ phản ứng nào của bệnh nhân cũng được xem như là sự phản kháng: thôi thúc lặp lại đến từ cái-nó (id) dường như là một sự phản kháng trước cái mới; trong khi cái mới xuất hiện này bị xem như là sự phản kháng chống lại nhà phân tâm trong vai trò cái siêu-tôi của ông ta. Chỉ khi cho phép cái tôi của bệnh nhân có giá trị như là một sức mạnh độc lập, thì nhà trị liệu mới vượt qua được khái niệm phản kháng vô thưởng vô phạt này. Thậm chí mới có thể nhận ra những yếu tố kiến tạo trong sự lặp lại và nhìn nhận cái mới như một biểu hiện tự nguyện của nhân cách, ngay cả khi cái mới đấy mâu thuẫn với hệ tư tưởng của nhà trị liệu.

Trái với phương pháp trị liệu tư tưởng, tôi đã tận dụng tình huống trị liệu phân tâm để đi đến một liệu pháp gọi là liệu pháp năng động:

Liệu pháp này với cách trị liệu khác nhau trong từng ca, thậm chí trong từng thời khắc, từng giai đoạn của một ca, tùy theo vai trò tức thời của các lực chi phối tình huống trị liệu lúc đó và phải lập tức được áp dụng. Mấu chốt trong kĩ thuật của nó chính là không có kĩ thuật nào cố định cả. Nhà trị liệu phải: (i) tận dụng nhiều nhất có thể trải nghiệm và sự thấu hiểu tình huống trị liệu của mình, và (ii) phải liên tục chuyển đổi trải nghiệm và sự thấu hiểu đó thành kĩ năng. Có điều, ông ấy không bao giờ được đúc khuôn những quy tắc kĩ thuật thành một hệ tư tưởng chết cứng, không bao giờ thay đổi. Còn trong trị liệu tư tưởng của phân tâm học, chỉ có duy nhất một kĩ thuật, đấy là kĩ thuật đồng dạng với lí thuyết, và nhiệm vụ chính của nhà phân tâm là diễn giải về mặt tư tưởng, chứ không phải là tạo ra và cung cấp trải nghiệm cho bệnh nhân.

Liệu pháp năng động này cũng làm mờ đi ranh giới vốn rất rạch ròi sắc nhọn giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Từ đây, nhà trị liệu trở thành một trợ lí bản ngã – một cái tôi hỗ trợ, thay vì ở vị trí trung tâm thống trị bối cảnh trị liệu với tư cách một “diễn viên chính” như trước đây.

Lúc này, bệnh nhân không chỉ đơn thuần là một người ốm yếu, bạc nhược; nhà trị liệu cũng không đơn giản là hình mẫu về sức khỏe và sức mạnh. Ngay trong hoàn cảnh trị liệu, bệnh nhân đã, đang và vẫn sẽ là nhà trị liệu của chính mình, trong khi đấy nhà trị liệu rất có thể trở thành một chướng ngại trong việc chữa lành. Nếu điều chướng ngại đấy xảy ra, thì nó không chỉ đơn thuần là một phản kháng ngẫu nhiên, mà còn có nguy cơ trở thành một tình huống xung đột, thì lúc ấy nhà trị liệu phải có cái nhìn sâu sắc, khả năng thấu hiểu vượt trội để không kìm hãm bệnh nhân đạt được ý chí tự do, ngay cả khi anh ta vẫn bám víu vào hệ tư tưởng phân tâm và coi đấy như là một “thế thân” cho thực tại. Bởi xét cho cùng, trị liệu tâm lí thực sự, về căn bản, không phải là giúp cho bệnh nhân thích nghi với bất kì loại thực tại nào cả. Đây là điều mà bấy lâu nay, và cho đến giờ, chúng ta vẫn hiểu lầm. Chữa lành, quan trọng nhất chính là: Giúp cho bệnh nhân đi đến sự hòa hợp với chính mình. Đúng hơn là, khiến anh ta chấp nhận cá tính của mình, chấp nhận cái phần cấu thành nhân cách mà trước đấy anh ta cố phủ nhận.

Thế nên, ngay cả những thiếu sót trong lúc phân tâm thường vẫn cho ra những kết quả trị liệu. Theo một nghĩa nào đấy, một kết quả thiết yếu trong những nỗ lực trị liệu phải bị phá hủy – cụ thể ở đây chính là bản thân tình huống phân tâm, nhằm đảm bảo kết quả trị liệu. Giai đoạn này trong quá trình trị liệu có thể so sánh với việc tháo băng vết thương. Trong trị liệu tinh thần thì việc tháo băng này khó khăn hơn rất nhiều, vì bệnh nhân là người phải trực tiếp tự làm nó, và vì vậy, rất dễ gặp nguy hiểm: hoặc là họ sẽ làm rách vết thương cũ; hoặc là họ không thể tháo băng toàn bộ vết thương. Trong phần sau, tôi sẽ chỉ ra cách để vượt qua khó khăn này của trị liệu một cách năng động và tích cực.

Về cơ bản, trong bất kì tình huống nào, khó khăn của giai đoạn tháo băng chỉ có thể vượt qua được khi nhà trị liệu để cho bệnh nhân không bị cản trở bởi bất cứ tư tưởng hay quan niệm cố định nào. Anh ta được tự mình đi qua trải nghiệm quan trọng nhất này theo cách riêng của mình, mà không mong chờ nhà trị liệu kê cho anh ta một “liều thuốc ra đi” đã định sẵn. Tất cả những gì nhà trị liệu có thể làm là đảm nhận vai trò mà số mệnh đã trao cho ông với sự thấu hiểu. Và ông phải giúp cho bệnh nhân thấy được ý nghĩa phổ quát của trải nghiệm đấy: Một trải nghiệm sẽ chúng ta thấu suốt về con người, về nhân tính. Tuy nhiên, tất cả những điều đấy cần được chính bệnh nhân nói ra bằng lối nói cá nhân của riêng anh, chứ không phải bằng những thuật ngữ trong một hệ tư tưởng chung nào đó. Bởi hệ tư tưởng đấy cùng lắm chỉ mang đến cho anh ta chút kiến thức, nó không giúp anh ta thấu hiểu gì về chính mình. Bản thân tri thức không giúp ích được gì cho việc giải phóng ý chí. Tri thức đấy chỉ trở nên hữu ích thông qua trải nghiệm của mỗi cá nhân, và cũng chỉ qua đó, cá nhân mới đạt đến sự thấu suốt về sau – dẫu rằng đấy chưa phải là điều thiết yếu nhất để đi đến kết quả trị liệu.

LIỆU PHÁP NĂNG ĐỘNG (1): KHÁM PHÁ THẾ GIỚI TIỀM ẨN CỦA CÁI TÔI

Để hiểu được sự khác biệt sâu sắc và căn cốt nhất giữa Liệu pháp năng động (Liệu pháp Ý chí) và Liệu pháp tư tưởng của phân tâm học, nhà trị liệu cần nhớ: Nguyên tắc đầu tiên trong kĩ thuật phân tâm của Freud đấy là, tri thức và sự thấu biết có thể giúp con người chữa lành tâm bệnh. Nghĩa là, phân tâm học cho rằng, bằng cách khiến cho bệnh nhân ý thức được về những gì ẩn chứa trong vô thức của anh ta thì có thể giúp anh ta chữa được chứng rối loạn thần kinh. Đây vốn vẫn là nền tảng tư tưởng cho liệu pháp của phân tâm học.

Ở đây chúng ta thấy sự nhầm lẫn căn bản giữa lí thuyết và trị liệu. Ngay cả khi sự truyền tải tri thức phân tâm cho bệnh nhân diễn ra từ từ và không theo hệ hống, thì việc chữa khỏi cho bệnh nhân vẫn gắn liền với việc là anh ta phải chấp nhận cái lí thuyết này, chấp nhận làm quen với những cái được xem như nhân tố trị liệu. Mặc dù như bạn đã biết, những nhà phân tâm ở những trường phái khác cũng thu được một vài kết quả điều trị với lí thuyết của riêng họ. Thế nên, cái chúng ta quan tâm ở đây không phải là tính đúng đắn của một lí thuyết cụ thể nào đấy. Chúng ta quan tâm đến một vấn đề rộng lớn hơn, đấy là: Liệu rằng liệu pháp tư tưởng, với lối diễn giải bệnh nhân theo một phác đồ nhất định, có hữu dụng với từng chứng rối loạn thần kinh và từng ca riêng lẻ hay không? Hay phải chăng chúng ta cần đến một liệu pháp năng động, không tôn sùng một hệ tư tưởng phổ quát nào, mà lấy động lực chữa lành cho từng ca cụ thể làm nền tảng cho hoạt động trị liệu?

Hạt nhân của một liệu pháp năng động như thế đã được đưa ra trong phương pháp thanh tẩy của Breuer. Freud tuy vẫn sử dụng nhưng ngày càng xao lãng và nghiêng về liệu pháp tư tưởng. Liệu pháp năng động phân biệt với liệu pháp thanh tẩy nhờ vào tính kiến tạo hiệu quả của nó, nhằm vượt xa khỏi sự giải tỏa mặc cảm thuần túy. Liệu pháp năng động cũng khác với phân tâm học ở chỗ, nó cho phép bệnh nhân thông qua tự trải nghiệm để thấu hiểu và thay đổi, chứ không kì vọng sử dụng tri thức để điều chỉnh cá nhân. Nghĩa là, mối quan tâm của nó không phải là cái sự thật chung chung, mà là sự thật với từng cá nhân, đấy mới là điều quan trọng.

Trong khi tìm kiếm một lí thuyết khả dĩ hòng giải thích cho mọi chứng rối loạn thần kinh, nhà trị liệu vấp phải các hiện tượng phổ quát, chẳng hạn như là mối quan hệ với cha mẹ (phức cảm Oedipus), sự khác biệt giới tính (phức cảm thiến hoạn), hay chấn thương sinh nở. Đấy vốn là những trải nghiệm thông thường của con người nói chung, mà nếu cứ truy nguyên theo kiểu phân tâm thì chúng sẽ trở thành căn nguyên chung cho mọi chứng tâm thần của con người. Bạn cũng thấy thật phi lí đúng không. Hơn nữa, với từng ca cụ thể, nhà trị liệu không thể xuất phát từ một nguyên tắc tâm lí phổ quát, dù cho nó xác đáng đến đâu. Chẳng hạn, nói rằng tính dục hay ý chí gây hấn là động lực chi phối hành vi của con người thì thật ra không sai, nhưng nó không dẫn đến đâu cả. Một nguyên lí như thế càng đúng, càng có giá trị phổ quát thì lại càng không mấy hữu dụng trong việc giúp chúng ta thấu hiểu các chứng tâm thần. Bởi vấn đề chủ yếu của người loạn thần kinh chính là sự sai lệch, lệch chuẩn của anh ta, do đó anh ta mang theo thái độ khác biệt đối với những hiện tượng cơ bản của đời sống con người. Freud truy tìm gốc rễ của xung đột bản ngã ở vấn đề bản năng tính dục, còn Adler lại thấy căn nguyên của nó trong mâu thuẫn tính dục. Nếu lí giải của Freud là đúng, thì Adler cũng không hề sai. Trong khi Jung có vẻ trung dung hơn, dù ông vẫn chưa vượt ra khỏi học thuyết về các mẫu hình nhân cách, và xét cho cùng nó cũng tương ứng với quan điểm của Freud và Adler mà thôi. Chưa kể, có rất nhiều loại rối loạn, thậm chí còn có những ca phức tạp là hỗn hợp của các chứng rối loạn; hoặc có những trường hợp cá biệt chẳng biết xếp vào đâu, đồng thời cũng có những ca tuy được xếp vào cùng một nhóm, ví dụ như chứng cuồng loạn hay rối loạn cưỡng chế, nhưng giữa từng cá thể lại mang theo những điểm khác biệt trong động lực và cấu trúc hành vi. Đối với tôi, sự khác biệt mang tính cá nhân đấy chứa đựng nhiều ý nghĩa hơn là sự tương đồng làm nên cấu trúc nền tảng của chứng bệnh. Và dù cho có tồn tại một cấu trúc nền tảng như thế, thì trong trị liệu nó cũng không mấy hữu dụng, nhà trị liệu chẳng thể làm gì nhiều với nó trong việc giúp đỡ bệnh nhân của mình.

Liệu pháp năng động không nhằm vào tri thức mà là cố gắng trợ giúp. Nhà trị liệu sẽ áp dụng những hiểu biết chung về tâm lí của mình để hiểu những đặc tính cá nhân của từng ca bệnh một cách nhanh chóng hơn và thấu đáo hơn. Ý nghĩa của mỗi tri thức đấy không nằm trong tư tưởng tĩnh tại của nhà trị liệu, mà nằm ở nhu cầu trị liệu của bệnh nhân. Điều mà đối với ca này là sự phản kháng, thì với ca khác lại là một nấc tiến bộ. Chẳng hạn, đối với một bệnh nhân có hệ lí tưởng tự thân rất cao vời và không bao giờ thấy hài lòng với chính mình, anh ta phải học cách chấp nhận bản thân, thì ở anh ta, cái sự phản kháng mà anh ta biểu hiện ra trước sự thay đổi có thể mang giá trị kiến tạo, nó giúp anh ta chấp nhận bản thân mình. Vì vậy liệu pháp năng động chỉ nhằm điều chỉnh thái độ, điều chỉnh cách đánh giá đối với những điều xảy đến với từng cá nhân. Nó không nhằm thay đổi cái tôi theo một hệ tư tưởng chung hay theo khuynh hướng lí tưởng hóa cá nhân của bệnh nhân.

Trị liệu năng động tận dụng những khuynh hướng kiến tạo vốn tiềm ẩn sẵn trong mỗi cá nhân, và chỉ cần thông qua một sự thay đổi để thúc đẩy khuynh hướng đấy mà thôi. Rốt cùng thì, nó dựa trên sự chấp nhận cá tính như một toàn thể với toàn bộ mâu thuẫn nội tại của nó. Bởi, với một người không bao giờ thấy hài lòng với bản thân thì chính cái cố gắng biến đổi anh ta lại đẩy anh ta sâu hơn vào chứng tâm thần. Nghe có vẻ nghịch lí, nhưng hóa ra chính cái chứng tâm thần của anh ta tự nó lại cho thấy sự thay đổi có tính cách mạng trong nhân cách anh ta nhiều hơn bất kì liệu pháp nào có thể làm. Xung đột giữa các khuynh hướng đối lập nhau trong cá nhân thực ra không phải là nguyên nhân của các chứng tâm thần, mà về căn bản đấy là xung đột với đời sống. Loạn thần kinh chẳng qua chỉ là một biểu hiện của sự bất mãn với trạng thái sống này, và suy cho cho cùng, nó là một sự chối từ chính cuộc sống. Do đó, tác nhân trị liệu, với ý chí cá nhân mà nói, không phải là chuyện giải quyết một vài vấn đề cụ thể này kia, mà chính là giải quyết vấn đề rốt ráo của sự tồn tại, và cá nhân phải khẳng định nó, thay vì phủ nhận nó.

Xung đột căn bản này có thể điều hòa được, và thậm chí trong những ca thuận lợi, còn mang tính kiến tạo thông qua sự tái cân bằng năng động: Cái phương diện mà trước kia chưa từng hiện ra rõ rệt, bất kể nó là gì chăng nữa, cũng ngày càng trở nên sáng rõ trong quá trình trị liệu thông qua những phản ứng của bệnh nhân, chứ không đơn thuần qua sự diễn giải nào của nhà trị liệu. Do đó, nội dung của xung đột cho dù là nguyên liệu từ phía bệnh nhân đưa ra, hay là diễn giải của nhà trị liệu, thì tất cả đều chỉ đóng một vai trò phụ so với những động cơ đằng sau. Quan trọng vẫn là sử dụng một cách kiến tạo những biểu hiện ý chí của một cái tôi đang lớn lên, đang hùng mạnh – mà nó biểu hiện ra như là sự phản kháng.

Để tránh hiểu lầm, tôi muốn bạn chú ý đến một thực tế là: Lí thuyết của tôi về chấn thương sinh nở không quan tâm quá nhiều đến việc nội dung của xung đột là gì57. Tôi áp dụng nó một cách năng động, và chấn thương sinh nở mà tôi nói đến giống như một biểu tượng phổ quát: Nó tượng trưng cho sự khám phá của cái tôi về chính nó và sự chia lìa của nó khỏi cái tôi hỗ trợ, khỏi trợ lí bản ngã mang tính tạm thời, mà nguyên mẫu đầu tiên là cuộc chia lìa khỏi người mẹ, giờ đây là cuộc chia lìa khỏi nhà trị liệu. Tuy nhiên, để có thể hiểu được ý nghĩa đầy đủ nhất của trải nghiệm chia lìa và sử dụng nó một cách linh hoạt, nhà trị liệu trước hết phải hiểu rõ vai trò của cái tôi hỗ trợ mà ông đảm nhận trong suốt quá trình trị liệu. Phải nhắc lại rằng, điều đấy chỉ khả thi khi nhà trị liệu đặt mình trọn vẹn vào trải nghiệm của bệnh nhân, và không đem lí thuyết của mình áp lên bệnh nhân như thể một ví dụ minh họa khô cứng.

57 Xem thêm The Trauma of Birth (Chấn thương sinh nở), 1923.

LIỆU PHÁP NĂNG ĐỘNG (2): KIẾN TẠO TỪ HIỆN TẠI

Một khác biệt cốt lõi nữa giữa liệu pháp năng động và liệu pháp tư tưởng đấy là, nó không đi theo hướng diễn giải lịch sử, nghĩa là nó không diễn giải những chất liệu phân tâm như là một sự lặp lại quá khứ, cũng không quá đề cao tri thức như một phương thức cải thiện tương lai. Hệ tư tưởng phân tâm học dựa trên giả định rằng, một người bình thường mới là chuẩn mực. Hơn thế nữa, nó còn lấy việc tạo nên một lí tưởng làm mục tiêu của mình. Một cuộc phân tâm theo trường phái Freud được đo bằng hai chiều kích, nó cũng là hai khía cạnh của tâm thái diễn giải lịch sử: thứ nhất, đấy là một cuộc truy vết, tra xét liên tục về quá khứ, về cái “trước kia”; và thứ hai, đấy là cuộc tái kiến thiết hoàn toàn bệnh nhân vì mục tiêu tương lai, vì “sau này”. Cả hai khía cạnh này đều không cần thiết, mà chúng cũng là bất khả, thậm chí còn phản-trị-liệu. Bởi vì vấn đề bị kéo lệch ra khỏi hoàn cảnh trị liệu hiện tại, hoàn cảnh này không chỉ chứa đựng toàn bộ khó khăn của bệnh nhân mà còn bao chứa tất cả những khả năng chữa lành. Tôi cũng không hiểu được tại sao người rối loạn thần kinh, vốn phản ứng với những vấn đề của con người bình thường một cách khó khăn hơn, lại nên được bảo vệ khỏi mọi rắc rối trong tương lai bằng cách trị liệu? Cái lí tưởng kết thúc cuộc phân tâm theo nghĩa hoàn thành trọn vẹn, về căn bản, là điều không bao giờ có thể thành hiện thực. Tham vọng trị liệu như thế xuất phát từ việc phân tâm học đã đánh giá quá cao nhà trị liệu và phương pháp kĩ thuật của chính mình.

Liệu pháp năng động sẵn sàng giúp cá nhân vượt qua bế tắc tạm thời này bằng cách giải phóng ở trong anh ta cái thôi thúc tự giải thoát bản thân, để sau đó anh ta có thể tiếp tục đi con đường của mình. Bằng sự trợ giúp trực tiếp trong hiện tại này, nhà trị liệu có thể mong đợi rằng bệnh nhân sẽ cải thiện tương lai của chính mình. Còn cái tham vọng trợ giúp bệnh nhân hoàn tất trọn vẹn chỉ trong một cuộc phân tâm chỉ khiến cho cá nhân một khi đã chấp nhận hệ tư tưởng phân tâm, thì sẽ không còn có khả năng thích nghi trong thực tại nữa. Tất nhiên nhà trị liệu không thể phủ nhận một thực tế rằng, bệnh nhân rất có thể ưa chuộng liệu pháp tư tưởng hơn, bởi nó ít đòi hỏi anh ta phải tự chịu trách nhiệm cho bản thân. Theo nghĩa này, phân tâm học cho dù có thể hé lộ rất nhiều về chiều sâu nội tâm của một con người, thì đến cùng nó vẫn không thể trở thành một liệu pháp cá nhân hóa dành cho mỗi cá nhân. Bởi nó mang đến cho bệnh nhân một hệ tư tưởng đã được một nhóm nhất định thừa nhận sẵn, và chỉ khi anh ta chấp nhận tư tưởng đó, anh ta mới có thể cảm thấy mình như một phần của nhóm đấy.

Sở dĩ phân tâm học xem nhẹ cái gọi là xung đột thực tại của bệnh nhân, theo tôi, là bởi họ không biết đánh giá nó thế nào, thế nên họ đi theo hướng phân tích quá khứ hòng đảm bảo với bệnh nhân về một cuộc sống không có xung đột trong tương lai. Tuy nhiên, cách lí giải như thế chỉ giải quyết được về mặt quá khứ và tư tưởng, trong khi ở hiện tại chúng ta cần đến một liệu pháp năng động thúc đẩy việc giải quyết xung đột nội tâm của bệnh nhân vào chính lúc này. Một số nhà phân tâm học đáp trả bằng một tuyên bố của Freud rằng: “Xung đột thực tại chỉ có thể được hiểu và giải quyết nếu nhà trị liệu truy hồi nó ngược về quá khứ của bệnh nhân (...) Và đi theo con đường mà dục năng của anh ta đã dẫn anh ta đến mức bệnh hoạn.” Tất nhiên, chúng ta không cần phải quá hoài nghi về việc truy lần quá khứ, nhưng mọi thứ tùy thuộc vào cách chúng ta truy lần nó. Hơn nữa, đi theo con đường của dục năng có lẽ là không đủ để giải quyết xung đột thực tại của bệnh nhân. Và đây cũng là một thất bại mà tôi biết nhiều nhà phân tâm đã nếm trải.

Chúng ta đều biết rằng, rất nhiều xung đột rối loạn thần kinh đã được giải quyết mà không cần truy nguyên quá khứ, mà chỉ đơn thuần là xử lí linh động tình huống ở hiện tại. Và tôi cho rằng, đây thậm chí còn là một nguyên tắc sống căn bản, đòi hỏi con người giải quyết năng động liên tục các xung đột trong hiện tại. Trong khi phân tâm học lại diễn giải hoàn cảnh phân tâm ở thực tại như là một sự lặp lại của quá khứ, mà không biết cách làm thế nào để đánh giá ý nghĩa hiện tại năng động của nó. Đây là điểm tôi thấy không thỏa đáng nhất của phân tâm học.

LIỆU PHÁP NĂNG ĐỘNG (3): Ý CHÍ LÀM CHỦ CHÍNH MÌNH

Người ta cho rằng, việc sử dụng yếu tố hiện tại của tôi có nguy cơ tạo ra ám thị. Nhân nói đến ám thị58, đấy là một thứ mà các nhà phân tâm học ghét cay ghét đắng. Có điều theo tôi, định kiến này dường như cũng xuất phát từ liệu pháp tư tưởng của phân tâm học mà thôi. Còn về mặt trị liệu, chừng nào ám thị còn mang đến hiệu quả, chừng đó tôi không có lí do gì để phản đối nó. Nếu tôi có thể chữa lành bằng phương pháp ám thị, tôi sẽ sử dụng nó mà không có gì phải e ngại cả. Tuy nhiên, để loại trừ bất kì nguy cơ nào từ ám thị trong liệu pháp năng động, thì theo tôi, tốt hơn là nhà trị liệu nên để mình chịu ảnh hưởng từ bệnh nhân, và đừng cố ám thị điều gì đó với anh ta. Bệnh nhân sẽ phát triển tư tưởng của riêng mình và bộc lộ động lực của anh ta trong sự chấp nhận một cách kiến tạo cái tôi tích cực của mình.

58 Tham khảo Self Mastery Through Conscious Autosuggestion của Émile Coué - cha đẻ của phương pháp Tự kỉ ám thị. Bản tiếng Việt: Bí mật và thực tế về Tự kỉ ám thị, iBooks & Nxb Phụ Nữ Việt Nam, phát hành 6/2021.

Nhà phân tâm sở dĩ không thoát khỏi ám thị bởi ông kiềm nén ý thức về nó, hay hoàn toàn phủ nhận nó. Và dù nhà phân tâm có tránh né ám thị ra sao, thì suy cho cùng, những diễn giải của ông chính là một kiểu ám thị. Rõ ràng là ông ta đã ám thị cho bệnh nhân một tư tưởng hoặc một thái độ xác định, dù cho nó diễn ra theo một cách tinh tế hơn so với liệu pháp ám thị thông thường – vốn cố gắng tác động trực tiếp đến ý chí trở nên khỏe mạnh của bệnh nhân.

Làm thế nào để nhà trị liệu tránh được ám thị, khi ám thị đấy đã tồn tại sẵn trong thời khắc một nhà phân tâm bận rộn nhận lời tham vấn cho bệnh nhân và quyết định trị liệu cho anh ta, cùng lúc củng cố trong anh ta hi vọng mạnh mẽ được chữa lành? Và rồi cuối cùng, khi bệnh nhân quyết định đến trị liệu, anh ta đã hình thành một ý chí trở nên khỏe mạnh, đến mức biến nó thành hành động. Nhiệm vụ hàng đầu của một nhà trị liệu có lương tâm là củng cố ý chí muốn khỏe mạnh vốn sẵn trong anh ta. Ngay bản thân việc củng cố ý chí khỏe mạnh này thôi cũng đủ khó khăn rồi, vậy thì sẽ rất vô lí khi cho rằng nhà trị liệu có thể sử dụng ám thị để thuyết phục một người rối loạn thần kinh vốn không có mong muốn được chữa khỏi hoặc không có khả năng trở nên khỏe mạnh, rằng anh ta có thể được – hay đã được chữa lành rồi. Nghĩa là, nếu bản thân người bệnh không có sẵn mong muốn, ý chí trở nên khỏe mạnh thì ám thị của nhà trị liệu cũng không thể thành công. Còn một khi ý chí đấy đã sẵn trong bệnh nhân, thì nhà trị liệu tránh cũng không được.

Tuy nhiên, như tôi đoán chừng, nhà phân tâm học dường như cũng e ngại rằng việc chữa lành này là không thể, bởi có nguy cơ là kết quả chữa lành không thể kéo dài. Về bản chất, điều đấy chỉ có nghĩa là nhà phân tâm không hề có tiêu chí chắc chắn hay thỏa mãn nào để xác định thế nào là “đã được chữa lành”. Như tôi đã chỉ ra, việc không có tiêu chuẩn đấy có liên hệ với toàn bộ hệ tư tưởng của phân tâm học: Vốn tin rằng, cái tôi tự nó không có bất kì khả năng tự chủ nào. Và phân tâm học diễn giải mỗi động thái tích cực của cái tôi đơn thuần chỉ là ước nguyện của một kẻ yếu đuối tan vỡ. Nói cách khác, ý chí trở nên khỏe mạnh của bệnh nhân chỉ được xem như là ước nguyện được trị bệnh. Nhà phân tâm không dám nhìn nhận nghiêm túc ý chí đấy, vì sợ rằng nếu nghiêm túc thì sẽ thành ám thị59.

59 Có ý kiến phản đối cho rằng: Về cơ bản, tôi không đưa ra cái gì mới cả, chỉ đơn giản dùng từ “ý chí” (will) thay cho từ “ước nguyện” (wish) của Freud. Đây là một nhận định mang đến bất công lớn cho cả Freud lẫn cho tôi. Tâm lí học của Freud nhất định không phải một học thuyết về ý chí. Ông không những không công nhận ý chí mà thực ra còn phủ nhận nó, bởi ông cho rằng cá nhân bị thống trị bởi đời sống bản năng (id) và bị dồn nén bởi cái siêu tôi, còn bản ngã chẳng khác nào một thứ “đồ chơi” bất đắc chí của hai lực lượng chẳng thuộc về riêng ai kia. Ngược lại, nhân tố ý chí trong liệu pháp của tôi giúp tôi hiểu được trong bản thân mỗi người có một tổ chức điều hướng tích cực và hòa hợp, tận dụng sáng tạo, cũng như kiềm chế và kiểm soát các động lực bản năng. Cái “ước nguyện” mà người ta mô tả như là một thôi thúc mờ nhạt, suy yếu thì vốn không phải là ý chí yếu đuối, bởi vì ý chí đã rút đi năng lượng cần thiết từ đó để đạt được mục đích của mình, và giờ đây “ước nguyện” đó phải hài lòng với một khát khao đơn thuần là được-hoàn-thành, được toại nguyện.

Có điều, cái chúng ta cần cẩn thận là những ám thị tiêu cực, chứ không phải bản thân việc ám thị. Kiểu ám thị tiêu cực như hệ tư tưởng “ước nguyện” của phân tâm học có lẽ còn nguy hiểm hơn, bởi nó ám chỉ sự yếu đuối, bạc nhược của bệnh nhân. Anh ta chỉ có thể may mắn vượt qua sự yếu đuối bạc nhược đấy bằng ý chí trở nên khỏe mạnh theo cách riêng của mình. Với nhà phân tâm thì điều này có thể đi ngược với ý chí của ông ta, thực ra là phản kháng lại. Còn tôi xem ý chí đấy là một kết quả năng động, tích cực. Liệu pháp năng động sẽ nỗ lực thúc đẩy ý chí chiến thắng của bệnh nhân một cách có ý thức, thay vì cố cản trở nó – mà kì thực, trong bất kì trường hợp nào cũng không thể cản trở được. Toàn bộ sự khác biệt giữa hai liệu pháp tư tưởng và liệu pháp năng động vì vậy có thể được thâu tóm đơn giản như sau: Liệu pháp năng động đưa bệnh nhân đến trạng thái tự lực, giúp anh có khả năng tự trị liệu cho bản thân và chính anh xác nhận khả năng tự lực này. Trong khi liệu pháp tư tưởng của phân tâm buộc bệnh nhân chấp nhận sự giúp đỡ từ người khác, bất kể điều này xảy ra thụ động (về mặt tư tưởng) hay chủ động (tự nguyện).

Trong mười năm qua, Freud đã không viết một tác phẩm nào mới về kĩ thuật phân tâm, không có gì thay đổi trong liệu pháp phân tâm của mình, dù ông có một vài bài viết đóng góp quan trọng cho lí thuyết phân tâm. Bên cạnh đó, thuyết nỗi sợ dục năng của Freud đã không thể trụ vững trước tâm lí học về cái tôi: Xung năng sống– tượng trưng bởi cái-nó (id) và bản năng chết60 đã trở thành những nhân tố có tầm quan trọng lớn hơn. Về tổng thể, sự phát triển giai đoạn cuối của học thuyết phân tâm Freud đối lập với giai đoạn đầu, nó nêu bật các nhân tố tiêu cực và dồn nén, chẳng hạn như cảm giác tội lỗi và khuynh hướng tự trừng phạt. Cảm giác tội lỗi được công nhận và giờ đây là một định đề bất khả xâm phạm trong phân tâm học. Nó vô hình chung trở thành một nhân tố cực kì nhạy cảm trong trị liệu và khuôn phân tâm học vào giới hạn của cái tôi tiêu cực, tương tự như chứng ái kỉ trong cái tôi tích cực.

Ngay từ đầu tôi đã tiếp cận phân tâm học và đối tượng của nó – con người, không phải như những bệnh nhân loạn thần kinh bị dồn nén, mà như một mẫu người sáng tạo, giàu trí tưởng tượng. Rất tự nhiên, cách tiếp cận này khiến tôi phải xem xét tâm lí học về cái tôi ở các khía cạnh tích cực và kiến tạo của nó. Trong khi đối với phân tâm học chính thống, cái tôi luôn mang đặc tính dồn nén tiêu cực, trái ngược với dục năng, và đặc tính này biểu hiện rõ ràng nhất trong khái niệm về cái siêu-tôi. Tâm lí học về cái tôi của Freud, dù nghe có vẻ trái ngược, lại hầu như không xem trọng cái tôi. Nó chỉ thấy duy nhất nơi cái tôi một “chiến trường” nơi cuộc chiến giữa cái-nó (id) và cái siêu-tôi (super ego) diễn ra. Và bản thân cái siêu-tôi này, dù đã được hiểu như một yếu tố tinh thần, thì đối với Freud cũng chỉ đại diện cho phức cảm người cha hay nỗi sợ thiến hoạn trong nội tâm con người mà thôi. Do đó, mặc dù kĩ thuật phân tâm mới của Freud đã làm rất nhiều điều với cái siêu-tôi, nhưng phần lớn chỉ diễn ra dưới dạng nhân cách hóa: Xem cái siêu- tôi là một ẩn dụ cho nỗi sợ người cha (phức cảm thiến hoạn). Ngay cả khi Adler gán cho cái siêu-tôi những đại diện nội tâm của một “thực tại khổ đau”, thì cái riêng biệt với mỗi cá nhân theo nghĩa đen, cái-tôi hay bản- thân thực sự với sức mạnh của riêng nó – ý chí, vẫn bị loại ra ngoài.

60 Được Freud giới thiệu trong Beyond the pleasure principle (Tạm dịch: Vượt khỏi nguyên tắc khoái cảm), Sđd, 1920.

Khái niệm của Freud về cái siêu-tôi và việc áp dụng nó vào kĩ thuật trị liệu là sự nhượng bộ đầu tiên của phân tâm học, đứng từ góc nhìn của tâm lí học về cái tôi mà nói, nó công nhận những động lực tự trị trong bản thân mỗi cá nhân. Nhưng ngay cả việc thừa nhận tâm lí học về cái tôi này hóa ra cũng phiến diện do thuyết dục năng. Những xung lực thôi đẩy duy nhất mà Freud coi trọng trong cái tôi lại có tính chất dồn nén, và có vẻ như nó vốn là những nhân tố bên ngoài được đưa vào trong cái tôi. Phân tâm học cho phép dục năng là cái duy nhất có đủ tư cách trở thành một lực thôi đẩy tích cực trong cá nhân, và nó được đặt vào thế đối ngược với cái tôi. Nhắc đến điều này, không phải là muốn dẫn bạn vào mê cung của những vấn đề lí thuyết khó nhằn này, ở đây tôi chỉ muốn nhắc lại hai nguyên lí cốt lõi trong quan điểm của riêng tôi, mà ngay từ đầu tôi đã ủng hộ:

Thứ nhất tôi đồng ý rằng, mỗi xung lực vốn có đều bao hàm một xung lực đối ngược với nó. Đối lực này không chỉ đơn thuần có chức năng như một lực dồn nén hay kiềm chế, mà còn có khả năng thúc đẩy những biểu hiện tích cực. Do đó, tôi luôn trông thấy khía cạnh cái tôi tích cực ở người rối loạn thần kinh. Ngược lại, lí thuyết của Freud nhấn mạnh cái tôi tiêu cực, ngay cả ở người bình thường và người kiệt xuất (nghệ sĩ).

Thứ hai, quan điểm của tôi cho rằng, trong chính cái tôi tồn tại cả hai xung lực tích cực và tiêu cực. Trong khi lí thuyết Freud, ngay cả với lí thuyết về cái siêu-tôi, suy cho cùng vẫn hiểu sự dồn nén nội tâm như là kết quả của những cấm đoán bên ngoài theo mọi nghĩa.

ĐỐI DIỆN VỚI NỖI SỢ HÃI TRONG CHÍNH MÌNH: Ý CHÍ SỐNG VƯỢT LÊN TẤT CẢ

Freud đã có một bước tiến quan trọng với giả định về bản năng chết. Giả định này vốn mâu thuẫn với quan điểm ban đầu của ông, và nó đưa ông tới khá gần với thuyết nhất nguyên61. Giả thuyết này được thảo luận nhiều trong các tài liệu phân tâm những năm gần đây. Nó lên đến đỉnh điểm trong thực tiễn trị liệu với câu hỏi: Liệu có khuynh hướng khổ dâm trong việc tự trừng phạt bản thân và những khuynh hướng tương tự vượt ra khỏi nguyên tắc khoái lạc hay không, chẳng hạn như những biểu hiện của bản năng chết – và cứ theo đà phân tâm thì trong cả thuyết dục năng (một xu hướng giải tỏa)? Hay liệu có phải chúng ta đang có khuynh hướng hung hăng, gây hấn đem sự phản kháng vốn phải hướng ra người khác (bạo dâm) quay ngược vào bên trong, chống lại cái tôi của chính mình (khổ dâm), do hệ quả của việc dồn nén nội tâm hoặc kiềm chế những điều không thể bộc lộ với bên ngoài hay không?

61 Monism (thuyết nhất nguyên, hay nhất nguyên luận): Là quan niệm thần học và siêu hình học cho rằng tất cả thế giới đều thuộc về một bản chất, nguyên lí, chất hay năng lượng, tất cả đều có một khởi nguyên. Khởi nguyên này có thể là khởi nguyên vật chất (thuyết nhất nguyên duy vật) hoặc khởi nguyên tinh thần (thuyết nhất nguyên duy tâm).

Câu hỏi này không chỉ thú vị về mặt lí thuyết mà còn quan trọng trong thực tiễn. Có điều quan điểm của Freud về nó vẫn chưa được làm rõ và hay thay đổi, nên nó chắc chắn vẫn chưa được tận dụng. Trong cuốn Beyond the Pleasure Principle, Freud đã công nhận bản năng chết như một định đề cố hữu trong con người, ông coi nó là một trường hợp đặc biệt về mặt sinh học của nguyên lí quán tính (sự trì trệ) của con người. Sau này, ông đồng nhất xung năng chết này với xung năng hủy diệt. Và trong tác phẩm về sau của ông, Civilization and its Discontents62, ông công nhận khuynh hướng hung hãn, gây hấn như là một bản năng gốc, riêng có ở loài người. Tuy nhiên ông lại nhìn nhận bản năng này như là một đặc tính phái sinh và thay thế cho bản năng chết. Giả định về xung năng gây hấn (aggressive impulse) này mang đến cho Freud “một thuận lợi tuyệt vời về mặt lí thuyết” trong việc giải thích tại sao cảm giác tội lỗi lại tăng lên khi việc thỏa mãn những xung lực bị chặn lại.

62 Tạm dịch: Nền văn minh và những bất mãn của nó, 1930.

Sai lầm mà tất cả những tác phẩm gần đây của Freud và trường phái phân tâm của ông mắc phải là chúng mang tính suy đoán quá nhiều. Ý tôi là, chúng hình thành từ những phỏng đoán và trên quan điểm lí thuyết, thay vì từ những quan sát lâm sàng, hay thậm chí từ những quan sát thông thường về tâm lí. Hoặc chúng chỉ dựa trên quan điểm dung hòa và tra lắp lí thuyết vào để soi chiếu hiện tượng, thay vì thấu hiểu bản thân hiện tượng đấy. Và vì vậy, trong công việc và hoạt động của Freud, liệu pháp phân tâm sau đấy không còn đóng vai trò thực tiễn nữa. Nếu quan tâm đến các hiện tượng tâm lí, thì trong vấn đề xung năng chết, nhà phân tâm đã không thể bỏ qua vấn đề nỗi sợ chết rất cơ bản và phổ biến. Các tài liệu phân tâm học dường như đều lờ đi điều này. Đối với Freud, nỗi sợ chết chỉ như là một chiết suất từ nỗi sợ cái siêu-tôi, và theo đó, bắt nguồn từ nỗi sợ thiến hoạn63. Phát hiện được cho là mới nhất của Freud về bản năng gây hấn, thì 20 năm trước, Adler đã đặt nó vào vị trí trung tâm trong phân tâm học của ông về chứng rối loạn thần kinh.

Thật ra đối với tôi, việc Freud phát hiện ra xung năng gây hấn quá muộn cũng không hẳn là vấn đề. Điều đáng nói là, trong quá trình hành nghề phân tâm cả đời mình, Freud chỉ nhận ra xung năng gây hấn này qua một con đường vòng là văn hóa, chứ không thấy nó trong tâm lí của chính người bệnh. Xung năng gây hấn được Freud nhìn từ lăng kính thiên kiến của một lí thuyết vốn được chấp nhận về chứng rối loạn thần kinh, thậm chí từ khía cạnh dục năng, hiểu nó như một hiện tượng bạo dâm. Với tôi, thuyết dục năng khá phiến diện bởi nó phủ nhận những khía cạnh tiêu cực, rối loạn của nhân cách, chẳng hạn như là xung năng chết hay khuynh hướng gây hấn– điều mà Freud nhận ra khá muộn. Lí thuyết của Freud đã luôn định hướng trị liệu theo lối này. Về mặt tâm lí, ông luôn tìm kiếm những nhân tố sẽ đem đến sự giải tỏa hoặc thỏa mãn nhất thời. Trong khi liệu pháp của ông lại điều chỉnh người ta về mặt tư tưởng. Đấy là một hỗn hợp không lành mạnh giữa lí thuyết và trị liệu, vốn đã tồn tại trong phân tâm học ngay từ thuở ban đầu.

63 Heminung, Symptom und Angst (Triệu chứng và lo âu), 1926, vốn đã xuất hiện trong Das Ich und Das Es, 1923.

Phân tâm học đích thực đáng lẽ phải tiếp tục phát triển từ vấn đề nỗi sợ, một nỗi sợ hãi đến mức tâm thần của con người. Freud lại luôn né tránh chủ đề nỗi sợ này và nhắc đến tính khó nhằn của vấn đề. Đến khi thuyết chấn thương sinh nở của tôi ra đời, buộc ông phải đối mặt với chủ đề phiền toái này. Sự phiền toái mà tôi nói đến, không chỉ là những khó khăn về mặt lí thuyết, mà còn nằm ở cá nhân. Bởi chủ đề nỗi sợ hãi dường như lập tức kết nối với ý niệm về cái chết mà trước nay chúng ta vốn né tránh, và nếu không thể tránh né, thì bằng mọi cách cố gắng lấp đầy nó bằng những điều khác. Theo nghĩa này, với tôi, mọi lí thuyết về nỗi sợ chẳng qua chỉ là những nỗ lực dùng khoa học hòng hợp lí hóa việc phủ nhận nỗi sợ chết mà thôi. Tất cả những giải thích khác nhau về nỗi sợ đều là một chuỗi nhân quả lằng nhằng, và rút cùng đều chấm dứt với một nguyên nhân khởi thủy nào đó được đưa ra, hòng gạt bỏ nỗi sợ sang một bên, để khỏi phải đối diện với nó. Lí thuyết về nỗi sợ của Freud dùng sự “trốn tránh” này như một lợi thế đem đến sự an ủi, xoa dịu trong trị liệu. Chẳng hạn, nếu cho rằng nỗi sợ khởi lên do dục năng bị kìm nén, thì người ta chỉ cần giải phóng ham muốn tính dục này, và theo đó, thoát khỏi nỗi sợ hãi. Liệu có phải thực như vậy không?

Về mặt lí thuyết, tư tưởng trị liệu này sớm đã được chứng minh là đầy thiếu sót. Và thực tế là nỗi sợ hãi thường tăng lên sau khi ham muốn tính dục được giải phóng, bởi vì cá nhân có thể hoảng sợ trước cái dục năng được giải phóng của chính mình. Sở dĩ, những ảo tưởng trong con người có thể tồn tại lâu dài đến vậy, là bởi, so với việc phải đối diện với nỗi sợ chết vô cùng lớn trong mình, thì người ta thà dùng những ảo tưởng kiên cố để xoa dịu mình còn hơn. Những người rối loạn thần kinh vốn sợ hãi nhất là khi phải đối diện với chính cái dục năng được phóng thích của anh ta. Vậy mà phân tâm học, nghịch lí thay, lại cố giúp anh giải phóng cái dục năng đáng kinh khiếp đấy, bắt anh ta phải nhìn thấy nó, và tưởng đấy là đang giúp anh ta xoa xịu. Phân tâm học Freud ban đầu khởi phát từ chỗ cố tạo ra một liệu pháp dành cho những người loạn thần kinh, vậy nhưng cũng chính tại điểm này mà nó thất bại trước tiên.

Trong lí thuyết dục năng về nỗi sợ, tôi thấy rằng nỗ lực to lớn thứ hai của Freud trong việc giải quyết vấn đề nỗi sợ trong trị liệu chỉ là một dạng khác của nỗi sợ chết bị phủ nhận. Trong tác phẩm sau này của Freud, Beyond the Pleasure Principle, ở khái niệm kép về cái chết - nỗi sợ, thì không phải cái chết bị phủ nhận mà là nỗi sợ bị phủ nhận. Đến cuối cùng, cái chết từ một điều bất đắc dĩ không mong muốn lại biến thành một mục tiêu bản năng được khao khát. Một lần nữa, tôi phải nhắc lại rằng, tính chất giải tỏa của tư tưởng phân tâm học không thể tồn tại về lâu dài, cả về logic lí thuyết lẫn trong trải nghiệm thực tiễn.

Và ngay từ đầu tôi đã có ấn tượng rằng, những quan sát dẫn Freud đến định đề về bản năng chết, vốn từ đầu hoàn toàn không hề chứng minh cho một giả định xa vời như vậy. Nó không phải là trải nghiệm phân tâm về thôi thúc lặp lại, cũng không phải sự dai dẳng của cảm giác tội lỗi – những thứ mà với tôi không mấy hữu dụng trong trị liệu thực tế. Thậm chí nếu thực sự có bản năng chết, nó cũng không nhất định dựa trên cơ sở mà Freud đưa ra, bởi những điều đấy rất khó để chứng minh. Và bản năng chết của Freud cũng không giúp chúng ta hiểu về những hiện tượng tinh thần chưa giải thích được cho tới nay. Sáng kiến mới này của Freud xét cho cùng vẫn chưa làm rõ vấn đề, trái lại càng làm nó rối bời hơn. Nó giúp chúng ta hiểu được rất ít về những hiện tượng tinh thần của con người. Chưa kể trong khi nói về bản năng chết, Freud nhất định móc nối nó với bản năng tính dục và bản năng hủy diệt.

Tuy nhiên, nếu hiểu định đề bản năng chết mà Freud đưa ra chỉ như là một biểu hiện của nguyên lí entropy trong vật lí, trong đó nói rằng: Quy luật phổ biến nhất của tự nhiên là vật chất luôn cố gắng đạt đến một tình trạng ổn định hơn, và sau cùng là trạng thái hoàn toàn ngưng nghỉ. Rồi áp dụng nguyên lí này để giải thích các hiện tượng tinh thần thì thật quá gượng gạo, và đối với tâm lí học cá nhân mà nói, thật khó mang lại bất kì ý nghĩa nào. Câu hỏi chính đặt ra là: Có thể áp dụng những nguyên lí của vật chất vô tri vào tâm lí học, hay thậm chí trong sinh học, ở mức độ nào? Westerman Holstijn64, khi nghiên cứu về năng lượng tinh thần của con người đã nhấn mạnh một cách đúng đắn rằng: Khuynh hướng đi đến trạng thái ngưng nghỉ ở con người, đặc biệt là về tinh thần, khác với khuynh hướng ngưng nghỉ tuyệt đối của sự vật. Hơn nữa, con người dường như ưa thích một tình trạng căng thẳng nhất định trong sự nghỉ ngơi. Có lẽ sự nghỉ ngơi tuyệt đối với con người chỉ có thể là cái chết. Nhưng ngay cả với giả định, có một nỗ lực đạt đến một trạng thái ngơi nghỉ như vậy trong bản chất con người, và thậm chí nếu nó biểu hiện về mặt sinh học như một xung năng chết, thì về mặt tâm lí mà nói, chỉ có thái độ của con người đối với điều đấy mới đáng quan tâm.

64 A.J. Westerman Holstijn (1891- 1980): Bác sĩ thần kinh và nhà phân tâm học có ảnh hưởng lớn đến đời sống phân tâm học ở Hà Lan, cả trước và sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau khi lấy bằng y khoa tại Leiden vào năm 1919, ông đã làm việc tại đây trong hai năm với tư cách là trợ lí cho Giáo sư Jelgersma và trở thành thành viên của Hiệp hội Phân tâm học Hà Lan, cũng là người đồng sáng lập Hiệp hội Phân tâm học Leiden.

Freud xem xét vấn đề dưới góc độ trị liệu, chứ không phải về mặt sự thật tâm lí của nó. Đúng hơn, ông có khuynh hướng diễn giải nó sao cho nó mang đến sự giải tỏa nhất thời cho bệnh nhân: Ban đầu diễn giải là sự phủ nhận cái chết và liên kết nỗi sợ với dục năng thành một phương tiện chữa lành; giờ đây trở thành sự phủ nhận nỗi sợ và diễn giải cái chết như là một ước nguyện bản năng. Hệ tư tưởng này được chấp nhận phổ biến đến nỗi giờ đây một cá nhân đang-chết cũng chẳng lấy gì làm kinh hoàng. Nó vô hiệu hóa ý nghĩa của cái chết bằng một ý niệm phổ quát, và cho thấy cái chết của con người chỉ là một phần nhỏ bé vô định trong hành trình đi vào cái hư vô vĩ đại của vũ trụ. Tuy nhiên, về mặt tâm lí, chúng ta hoàn toàn có thể khơi lên trong mỗi cá nhân một nỗi sợ chết rất gần, rất thực với chính họ. Và trong những điều kiện nhất định, ta cũng có thể khởi lên trong cá nhân đó một mong muốn chết. Cả nỗi sợ, lẫn mong muốn đều có thể cùng tồn tại như bất cứ mâu thuẫn nào trong tinh thần con người. Phản kháng với xung năng chết hay chấp nhận nó, xét cho cùng, chỉ là biểu hiện tiêu cực hay tích cực của tâm lí mà thôi.

Thế nên, về mặt tâm lí cá nhân mà nói, chúng ta hãy gạt bỏ cái gọi là nguyên lí phổ quát đi. Còn về mặt trị liệu, chúng ta chỉ có thể dùng mấy nguyên lí đấy như một lời bào chữa vụng về cho sự bất lực của chúng ta trước tự nhiên. Liệu pháp tính dục của Freud dành cho các chứng rối loạn thần kinh chỉ có hiệu quả về mặt tư tưởng, nghĩa là, nó chỉ hiệu quả khi các chứng loạn thần kinh được giải thích dưới góc độ tính dục. Về sau, người ta công nhận rằng lí thuyết này không khả thi, nó là một bước tiến vĩ đại về mặt tâm lí học, còn về mặt trị liệu nó vốn vẫn không mang lại kết quả gì. Quá trình phát triển của phân tâm học vì thế rơi vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan: Bước tiến của tri thức phân tâm đã dần dần ngầm phá hoại liệu pháp phân tâm.