Vai trò của bố mẹ
Nhiều phụ huynh tâm sự với tôi rằng họ lo lắng về tình trạng thất nghiệp phổ biến hiện nay ở sinh viên tốt nghiệp đại học và hỏi tôi dự đoán điều gì sẽ xảy ra trong vài năm tới khi con họ tốt nghiệp. Tất nhiên, không ai có thể tiên đoán được thị trường việc làm tương lai, bởi vì nhiều thứ có thể thay đổi nhanh chóng. Điều duy nhất tôi có thể khuyên là họ phải nhìn xa hơn hoàn cảnh hiện tại, hướng tới một tương lai xa hơn, bởi vì có được nền học vấn tốt vẫn là sự đầu tư tốt nhất cho con mà họ có thể làm. Tuy nhiên, như bất kỳ sự đầu tư nào, họ phải lập kế hoạch, kiểm soát và giám sát tiến độ thực hiện để đảm bảo kết quả như mong đợi.
Phụ huynh đầu tư vào sự học của con với mong đợi rằng các con sẽ hưởng nền giáo dục tốt và xây dựng được sự nghiệp để có một cuộc sống sung túc. Đó là lý do tại sao một số phụ huynh tác động nhiều đến lựa chọn nghề nghiệp của con. Nhưng họ cần phải thực tế. Không phải đứa trẻ nào cũng có thể trở thành bác sĩ, dược sĩ hay kỹ sư phần mềm. Các con sẽ phát huy tốt nhất khi chúng học những gì chúng thích và phù hợp với khả năng. Tất nhiên, con cái cần những lời khuyên hợp lý từ bố mẹ nhưng bố mẹ cũng cần lắng nghe ý kiến của con để hiểu con. Cùng nhau, bố mẹ và con cái có thể đi tới một lựa chọn nghề nghiệp đúng đắn, thỏa mãn cả hai bên.
Quan trọng là cần phân biệt sự khác nhau giữa “bảo ban” và “khuyên nhủ”, cũng như sự khác biệt giữa “vai trò có thẩm quyền” và “vai trò khuyên nhủ”. Bởi vì bố mẹ đã trải qua nhiều năm tháng nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ cũng như “bảo ban” con phải làm gì, nên ở mức độ nào đó, họ không nhận ra rằng con cái họ bây giờ đã là những thanh niên. Là thanh niên, các con cần bố mẹ hỗ trợ nhưng cũng muốn có sự độc lập để tự quyết định đời mình. Điều này không dễ dàng gì, đặc biệt là với bố mẹ người châu Á, bởi vì truyền thống bố mẹ có “quyền” và con cái phải vâng lời vẫn còn rất mạnh. Chuyển từ “người có thẩm quyền” sang “người khuyên nhủ” là một vai trò mà nhiều người có thể KHÔNG chấp nhận. Đây là chỗ “xung đột bố mẹ - con cái” thường xảy ra, nhất là khi bố mẹ ép buộc con mình học cái mà con không muốn hay có thể không có khả năng.
Là giáo sư, tôi đã thấy nhiều sinh viên vật lộn với những môn học mà các em không thích, và vì vậy không thể hoàn tất môn học. Tôi đã thấy nhiều sinh viên thất bại và nghỉ học nửa chừng vì các em không đủ năng lực để hoàn thành những gì bố mẹ muốn các em học. Nhiều em tin rằng mình không đủ thông minh để làm bất cứ việc gì. Nhiều em còn phát triển “phức cảm tự ti” và “nhìn nhận tiêu cực về bản thân” - điều này sẽ làm tổn thương các em trong suốt quãng đời còn lại. Đây là bi kịch thường xảy ra ở châu Á. Khi dạy học ở Trung Quốc và Nhật Bản, tôi đã để ý thấy rằng mỗi năm đều có những sinh viên tự tử khi không qua được một môn học hay một kỳ thi, vì như vậy là không đáp ứng được mong đợi của bố mẹ. Để tránh xảy ra thảm cảnh này, quan trọng là bố mẹ và con cái phải dành nhiều thời gian để thảo luận, để lắng nghe và để hiểu nhau hơn.
Với phần lớn phụ huynh, giáo dục đại học là sự đầu tư chính yếu cho tương lai của con cái, cho nên điều quan trọng là chuẩn bị càng sớm càng tốt. ĐỪNG đợi tới khi con bạn gần học hết trung học phổ thông rồi mới nói chuyện với con về đại học. Ở Mỹ, phần lớn bố mẹ thảo luận với con về giáo dục đại học khi con bắt đầu vào trung học, tức là ít nhất ba hay bốn năm trước khi con vào đại học, để con họ có thể chuẩn bị sẵn sàng. Nếu bố mẹ chuẩn bị cho con tự chịu trách nhiệm về hành động của mình và tập trung học một lĩnh vực nào đó thì sẽ dễ dàng hơn nhiều. Khi con cái biết chịu trách nhiệm thì có thể tự ra quyết định, chủ động tìm hiểu lĩnh vực mình quan tâm và xây dựng sự nghiệp riêng. Trong trường hợp đó, bố mẹ chỉ cần đưa ra những lời khuyên nhủ để giúp con quyết định chọn ngành học dựa trên năng lực và sở thích của bản thân.
Bước tiếp theo là chọn trường. Bố mẹ cần biết rằng không phải trường đại học nào cũng giống nhau, không phải chương trình nào cũng tiên tiến và không phải giáo sư nào cũng có những phẩm chất tốt nhất, danh tiếng của trường cũng là một nhân tố quan trọng quyết định tương lai của sinh viên. Bố mẹ phải lựa chọn kỹ lưỡng để đầu tư vào học vấn của con.
Ở Mỹ, phần lớn các “trường đại học hàng top” đều là trường tư và mỗi trường đều có ngành học thế mạnh riêng, vì thế các phụ huynh Mỹ biết rõ chỗ để gửi gắm con cái, tùy theo lựa chọn nghề nghiệp của chúng. Ở các nước khác cũng có những “trường đại học hàng đầu” nhưng khó phân biệt được ngành học thế mạnh của trường. Đây là chỗ bố mẹ phải tìm hiểu kỹ. Chẳng hạn, nếu trường nổi tiếng về khoa học và công nghệ, nhưng bạn lại đăng ký cho con vào học nghệ thuật và văn học thì có thể đó không phải là lựa chọn tốt. Ở Mỹ, bạn có thể mặc nhiên cho rằng sinh viên vào trường Harvard vì họ muốn có một vị trí lãnh đạo trong chính phủ, muốn tham gia chính trị hay quản lý các công ty lớn. Nếu là sinh viên Đại học Yale thì có thể họ quan tâm nhiều tới ngành luật, chính trị và hệ thống pháp lý. Và tất nhiên, Stanford và Carnegie Mellon thì nổi tiếng về công nghệ thông tin và khoa học máy tính. Chọn đúng trường có lẽ là lựa chọn quan trọng nhất mà bố mẹ có thể làm cho con cái. Nhiều sinh viên thường chọn trường theo bạn bè hơn là danh tiếng của trường hay chương trình học.
Bố mẹ cần hiểu rằng thời đại học cũng là thời gian mà nhiều “người lớn trẻ tuổi” phải đối diện với những thách thức mà họ chưa bao giờ gặp phải trước đây. Họ phải tự giải quyết những thách thức của quá trình trưởng thành. Họ phải hình dung ra cách vượt qua sự cô đơn, đặc biệt là khi các bạn xung quanh đã có bạn trai hay bạn gái. Họ phải học cách cân bằng các ưu tiên trong học tập, đồng thời phải đối phó với áp lực hòa nhập với các bạn trong trường. Họ vừa phải xây dựng một thói quen học tập thích hợp, vừa phải xây dựng mối quan hệ với các bạn học.
Do sức ép rất lớn đó, nhiều em có thể đã không xử lý được tốt. Đó là lý do tại sao tốt nhất là nên có sự thảo luận cởi mở và chân thành giữa bố mẹ và con cái. Bố mẹ nên lắng nghe nhiều hơn để hiểu được con thay vì ra lệnh con phải làm thế này thế kia. “Lắng nghe” là yếu tố then chốt để hướng tới một mối quan hệ tốt đẹp, bởi vì càng lắng nghe, bạn càng thấu hiểu. Càng thấu hiểu, bạn càng có thể đưa ra lời khuyên hợp lý hơn. Lời khuyên tốt nhất là hiểu và hỗ trợ để con bạn tự quyết định sau khi các em đã cân nhắc mọi dữ kiện liên quan tới các khả năng chọn lựa. Không dễ dàng để bố mẹ lắng nghe, vì nhiều người xem mình phải là “người có thẩm quyền” hơn là “người cho lời khuyên”. Để xây dựng được “chiếc cầu nối thấu hiểu” giữa bố mẹ và con cái và để tránh diễn đạt sai ý, tránh hiểu lầm và mọi bước đi sai lầm về sau, điều thiết yếu là cả hai bên đều lắng nghe nhau.
Bởi vì giáo dục là sự đầu tư quan trọng nhất bố mẹ có thể làm, nên họ cần thường xuyên giám sát sự tiến bộ của con để chắc rằng con đang hướng tới kết quả mong đợi. Nhiều bố mẹ cho con cái tới trường, chi trả học phí nhưng không giám sát sự tiến bộ của con. Hoặc họ quá bận rộn, hoặc họ không biết làm sao để giám sát. Nhiều người chỉ kiểm tra kết quả thi cuối năm để xem liệu con họ đỗ hay trượt, nhưng như vậy thì thường là QUÁ TRỄ. Giám sát bao gồm việc thảo luận đều đặn với con và định kỳ với nhà trường (hằng tháng hay mỗi hai tháng). Nhiều sinh viên chia sẻ với tôi rằng các em là sinh viên đại học và cảm thấy ngượng khi bố mẹ gọi điện cho giáo sư và hỏi về sự tiến bộ trong học tập của các em. Tôi bảo các em: “Em có vui mừng rằng em vẫn còn có bố mẹ yêu thương và quan tâm tới em không? Em có biết bao nhiêu sinh viên trong trường không có bố mẹ không? Em có biết bao nhiêu sinh viên chỉ có bố hoặc mẹ không? Em có biết bao nhiêu người trong các em không có ai quan tâm tới sự tiến bộ của mình không?”. Với công nghệ thông tin, mọi thứ đều có thể làm trực tuyến nên phụ huynh có thể kiểm tra sự tiến bộ, xem câu hỏi và điểm bài kiểm tra một cách dễ dàng. Tôi biết một số sinh viên không thích điều đó và cảm thấy không thoải mái về việc bố mẹ nhìn vào bảng điểm của mình. Tuy nhiên, tôi tin rằng nếu bố mẹ đầu tư vào giáo dục cho con cái, họ phải có quyền giám sát để có thể kịp sửa sai khi mọi chuyện không hướng tới kết quả mong đợi. Là một giáo sư, bao giờ tôi cũng thêm lời nhận xét vào bảng điểm thông báo trực tuyến để cung cấp thêm thông tin về sự tiến bộ của sinh viên, thay vì chỉ có điểm số. Vài câu nhận xét sẽ làm cho bố mẹ cảm thấy tự hào hay báo động cho họ khi có điều gì họ cần biết.
Với tình hình nhiều nước vẫn còn đang phục hồi sau khủng hoảng kinh tế, thị trường việc làm có thể còn yếu và các công ty vẫn còn ngần ngại thuê người. Với những sinh viên đã tốt nghiệp nhưng chưa tìm được việc làm, lời khuyên của tôi cho bố mẹ là họ nên động viên con họ “tình nguyện” làm việc không lương cho các công ty hay với mức lương tối thiểu, hay làm việc cho tổ chức từ thiện nào đó để một ngày nào đó khi thị trường việc làm được tốt lên, thì ít nhất những người đã tốt nghiệp này cũng đã làm việc và có kinh nghiệm. Điều đó sẽ còn tốt hơn là để các em ở nhà, nấu ăn cho chúng, cho chúng tiền để mua iPhone, iPad xịn nhất, hay chơi trò chơi máy tính cả ngày và học thói quen xấu.
Nếu chúng ta nhìn lại lịch sử, mọi cuộc khủng hoảng đều là điểm ngoặt cho cái gì đó tốt hơn bởi vì nó buộc mọi người phải tạo ra những ý tưởng mới, những điều mới mẻ và cả những ngành công nghiệp mới. Sau cuộc suy thoái của Mỹ vào năm 1978 là sự nổi lên của công nghiệp điện tử và máy tính cá nhân. Cả Apple và Microsoft đều được thành lập vào thời gian đó. Sau vụ vỡ bong bóng “Dot-com” vào năm 2001, nhiều công ty đã bị xóa sổ nhưng nó giúp làm mạnh các công ty như Amazon, eBay và giúp tạo ra Google. Cho nên, là một chuyên gia phần mềm, tôi lạc quan rằng sẽ có những canh tân mới, ý tưởng mới, những công ty mới và ngành công nghiệp mới nổi lên từ thời kỳ kinh tế xấu này.
Bởi vì đây là cuộc khủng hoảng toàn cầu, tôi nghĩ chúng ta sẽ thấy một điểm ngoặt làm thay đổi nhiều thứ. Một số nước sẽ KHÔNG phục hồi và một số nước sẽ nổi lên như cường quốc mới. Chúng ta đang ở chỗ bắt đầu của kỷ nguyên mới, nơi mọi thứ được kết nối. Điều này sẽ giúp làm cân bằng vì tình trạng cung thừa ở chỗ này sẽ giúp bù trừ cho tình trạng cung thiếu ở chỗ khác. Vào lúc này, nhiều nước đang cố gắng tìm cách giải quyết. Một số nước có thể không muốn làm gì mà chỉ chờ đợi. Điều gì xảy ra tiếp theo sẽ xác định nước nào sẽ tiến lên và nước nào sẽ bị đẩy lùi lại và tất cả điều đó đều phụ thuộc vào tri thức và kỹ năng của công dân nước đó. Một đất nước có công dân có học vấn cao, có nguồn nhân lực có kỹ năng cao và hệ thống giáo dục vững mạnh sẽ có cơ hội tốt hơn nhiều để đạt được những ưu thế đáng kể và sẽ chi phối các nước khác.
Hơn bất kỳ điều gì, đầu tư vào giáo dục cho con cái là việc tốt nhất mà bất kỳ bố mẹ nào cũng có thể làm ngay hôm nay. Hơn bất cứ cái gì, giáo dục là lĩnh vực đầu tư tốt nhất mà chính phủ có thể làm cho công dân của họ hiện nay.
Lựa chọn ngành học: giúp con định hướng
Trước đây, hầu như sinh viên đại học không phải lập kế hoạch nghề nghiệp cho bản thân vì cuộc sống với họ thật đơn giản. Nếu họ vào được đại học và lấy được bằng thì chắc chắn họ sẽ có việc làm, và cứ thế mà làm công việc đó trong suốt quãng đời còn lại. Ngày nay, mọi chuyện phức tạp hơn vì xu hướng toàn cầu hóa, các ngành công nghệ thay đổi nhanh chóng, thị trường việc làm cạnh tranh hơn nhiều. Do đó, sinh viên phải lập kế hoạch kỹ lưỡng, chọn ngành học đúng, trang bị các kỹ năng phù hợp để tìm được việc làm tốt. Họ có thể sẽ đổi công việc vài lần trong đời. Vì thế, phải không ngừng học các kỹ năng mới khi nhu cầu thay đổi.
Mặc dù sinh viên là những người nhiều mơ mộng, nhưng các em vẫn cần phải cân bằng giữa mơ ước với thực tại. Nếu muốn theo đuổi mơ ước của mình, các em cần phải dung hòa nó với mục đích kiếm sống. Các em cần hiểu rằng có sự khác biệt giữa bằng cấp và kỹ năng. Bằng cấp không còn đảm bảo cho công việc nữa. Nó chỉ là chìa khóa để mở ra cánh cửa cơ hội, nhưng chính các kỹ năng mà các em tích lũy được mới có thể giúp các em nắm lấy cơ hội. Phần lớn các công ty coi bằng cấp là một yêu cầu để tuyển dụng, nhưng họ tuyển nhân sự hoàn toàn dựa trên các kỹ năng mà người đó áp dụng vào công việc.
Ngày nay, hầu hết các công việc tốt đều yêu cầu những kỹ năng đặc biệt nào đó. Nhiều kỹ năng thậm chí chưa hề tồn tại cách đây mười năm. Điều này đòi hỏi sinh viên phải nghiên cứu và nhận diện những đòi hỏi của ngành nghề trước khi chọn học. Nhiều sinh viên có xu hướng chọn một ngành để học thử, rồi thay đổi thêm vài lần nữa, trước khi ổn định ở ngành mà các em thật sự thích. Không có sự định hướng rõ ràng, các em có thể lãng phí thời gian và bỏ lỡ cơ hội tốt. Nếu chọn sai ngành học, các em có thể gặp khó khăn sau khi tốt nghiệp.
Điều cần làm là chuẩn bị sớm nhất có thể trước khi vào đại học hoặc chậm nhất là khi vừa vào đại học. Các em phải chọn ngành học nào cung cấp cho các em cơ hội tốt nhất để đạt được mục tiêu. Các em phải biết mình có thể tìm được loại công việc nào, đạt đến mức lương thế nào và những công việc nào sẽ sẵn có khi các em tốt nghiệp. Việc chọn đúng ngành học không đảm bảo việc làm, nhưng nó có thể làm cho thời gian học đại học của các em được tốt hơn khi có sự định hướng rõ ràng với con đường nghề nghiệp.
Hầu hết các trường đại học đều cấp hai loại bằng: bằng hướng nghiệp và bằng tổng quát. Bằng hướng nghiệp chú trọng việc chuẩn bị cho sinh viên một nghề nghiệp xác định. Chẳng hạn, ngành khoa học máy tính hay điều dưỡng thì đào tạo cho sinh viên các kỹ năng và tri thức về mặt kỹ thuật cần thiết để làm một chuyên viên phát triển phần mềm hay một điều dưỡng viên. Bằng tổng quát thì cho sinh viên cái nhìn tổng quan về nhiều môn học để giúp các em mở mang tri thức.
Sinh viên học các ngành tổng quát không xây dựng các kỹ năng cho một nghề nhất định, mà học những tri thức có giá trị để có khả năng làm mọi thứ một cách sáng tạo. Nếu chọn các ngành học tổng quát, các em sẽ học các lớp có các môn học đa dạng như văn học, lịch sử, nghệ thuật, xã hội, kinh tế, khoa học chính trị và triết học để làm phong phú thêm cho cuộc sống của các em. Đây là nền tảng có thể giúp các em đi vào các nghề nghiệp như luật, dạy học, xã hội học, văn phòng công chức nhà nước, hay nghiên cứu học thuật.
Các ngành hướng nghiệp yêu cầu sinh viên học các môn học theo chuyên ngành cụ thể. Các ngành này thường có nhiều yêu cầu môn học hơn các ngành đào tạo tổng quát. Chẳng hạn, các ngành kỹ thuật sẽ yêu cầu sinh viên học các môn về toán học, công nghệ, vật lý và kỹ thuật v.v. Nếu các em chọn một chuyên ngành đào tạo hướng nghiệp, thì con đường nghề nghiệp của các em đã xác định, vì các em biết mình sẽ làm công việc gì và ngành nào sau khi tốt nghiệp.
Nhiều học sinh vẫn còn rất mơ hồ về việc chọn ngành học. Các em không biết điểm mạnh, điểm yếu của mỗi ngành để chọn nghề nào phù hợp nhất với mình. Theo một nghiên cứu, nhiều sinh viên năm thứ nhất vào đại học mà vẫn chưa định hướng được gì; các em không thể ra quyết định vì còn mơ hồ. Khi không có mục tiêu và quyết tâm rõ ràng, các em thường lựa chọn sai. Nhưng báo chí và internet hiện nay có rất nhiều thông tin, nên không có lý do gì để không tìm hiểu được. Điều quan trọng là các em phải nỗ lực tìm hiểu và làm việc với các chuyên viên tư vấn nghề nghiệp của trường để có được quyết định đúng đắn. Tương lai của các em phụ thuộc vào lựa chọn của các em.
Lựa chọn ngành học: lắng nghe bản thân và thị trường
Một học sinh hỏi tôi: “Năm sau em sẽ vào đại học, nhưng em không biết chọn ngành nào? Vấn đề là điều em muốn lại không phải là điều bố mẹ em muốn và điều em thích không phải là điều bạn bè em thích. Thật khó quyết định. Xin thầy cho em lời khuyên”.
Đáp: Điều mà nhiều người thường khuyên là: “Hãy chọn ngành mà bạn thích và học cái bạn đam mê”. Tuy nhiên, tôi muốn thêm vào một lời khuyên thực tế: “Nhưng phải chắc rằng bạn có thể kiếm sống với ngành đó”.
Những người trẻ thường chọn ngành học dựa trên nhiều yếu tố nhưng phần lớn KHÔNG chú ý tới thực tế thị trường việc làm. Họ không biết lĩnh vực nào đang “hot” và có nhu cầu cao hay ngành nghề nào đang tăng trưởng với nhiều tiềm năng. Họ không nhìn vào mức lương của nghề nghiệp mà họ chọn để xem liệu nó có đủ sống không. Đôi khi những người trẻ cố gắng thuyết phục bạn bè cùng học ngành mình chọn mà không nhận ra rằng mọi sự sẽ thay đổi và phần lớn tình bạn ở trường trung học không còn như cũ ở trường đại học. Các em không nên để bạn bè ảnh hưởng tới mình mà phải dựa vào quyết định của chính các em. Rốt cuộc, đó là tương lai và cuộc sống của các em, chứ không phải của những người bạn đó. Có thể phụ huynh quá bận rộn nên không tìm hiểu kỹ về thị trường việc làm; nhiều người thường khuyên bảo con cái dựa trên kinh nghiệm ngày xưa của bản thân. Thật nguy hiểm khi cho rằng thị trường việc làm ngày nay giống hệt ngày xưa. Cũng thật mạo hiểm khi tin rằng thị trường việc làm cũng sẽ y nguyên như lúc này trong bốn năm hay sáu năm nữa, khi các em hoàn tất chương trình đại học.
Cục Thống kê Lao động của Mỹ và nhiều tổ chức giáo dục toàn cầu đã tiến hành nhiều nghiên cứu về việc làm trong tương lai và dự báo những ngành nghề sẽ có nhu cầu cao. Họ so sánh nhiều ngành nghề và mức lương trung bình, đưa ra kết luận rằng trong hơn mười năm tới, mức lương cao nhất và những vị trí công việc tốt nhất thuộc về các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM). Trong lĩnh vực khoa học có y, dược và điều dưỡng. Trong lĩnh vực công nghệ thì có công nghệ thông tin (gồm khoa học máy tính, kỹ thuật phần mềm và quản lý hệ thống thông tin), công nghệ sinh học và công nghệ nano. Lĩnh vực kỹ thuật có kỹ thuật điện, kỹ thuật điện tử, kỹ thuật hóa học và kỹ thuật vật liệu. Toán học có định phí (phí bảo hiểm hay rủi ro), kế toán, thống kê và toán học ứng dụng.
Theo những nghiên cứu này, các lĩnh vực kinh doanh, tài chính, bán hàng và tiếp thị sẽ vẫn ổn định nhưng có thể không tăng trưởng nhanh như cách đây vài năm do khủng hoảng tài chính. Do số sinh viên tốt nghiệp các ngành kinh doanh vượt cầu và số nhân viên kinh doanh có kinh nghiệm trở lại làm việc tăng cao nên mức độ cạnh tranh sẽ trở nên dữ dội hơn giữa những người mới tốt nghiệp và người đi làm có kinh nghiệm. Do cung vượt cầu nên mức lương của các ngành nghề này sẽ không tăng nhiều trong vài năm tới.
Khi biết ngành học nào có nhu cầu cao và thu nhập tốt, phụ huynh có thể cùng thảo luận với con để đưa ra quyết định đúng cho tương lai của con. Điều quan trọng là phụ huynh phải giúp các em đưa ra quyết định dựa trên nền tảng thông tin đầy đủ về việc chọn lựa ngành học. Hiểu biết đó bao gồm hiểu bản thân mình, hiểu công việc mình thích làm, vì hiểu rằng mức lương và thu nhập là quan trọng, nhưng nhu cầu về cảm xúc cũng quan trọng không kém.
Lựa chọn ngành học: cần trải nghiệm thực tế
Với học sinh tốt nghiệp trung học, việc chọn ngành đại học có lẽ là quyết định khó khăn nhất nhưng vô cùng cần thiết bởi vì nó giúp các em định hướng để tập trung và nhờ đó có thể lập kế hoạch nghề nghiệp cho bản thân từ sớm. Những ngành học cụ thể như khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học hiện đang có nhu cầu cao trên toàn cầu. Tuy nhiên, theo một khảo sát, rất ít học sinh ghi danh vào các lĩnh vực này vì phần lớn các em không biết mình muốn gì. Tác giả của khảo sát này lưu ý: “Phần lớn học sinh không biết các em thực sự muốn làm gì sau khi tốt nghiệp. Ngay cả những em nói rằng có thì thực sự cũng không. Bạn không thể đổ lỗi cho các em, vì khi bạn chỉ mới 17 hay 18 tuổi, bạn không biết gì về ‘thế giới thực’. Không ai giải thích đủ rõ ràng cho bạn để bạn có thể ra quyết định đúng, nên phần lớn học sinh chỉ có ý niệm mơ hồ về ngành học và kế hoạch nghề nghiệp”.
Thật không may, nhiều phụ huynh, dù đã đồng hành suốt bao năm bên con, cũng không hiểu biết gì nhiều về việc lập kế hoạch nghề nghiệp. Họ cho con bằng quần áo đẹp, thức ăn ngon và không ngần ngại mua cho con iPod, iPhone, iPad nhưng khi con chuẩn bị vào đại học thì lời khuyên của họ chỉ là: “Vào đại học, học hành cho chăm chỉ, lấy tấm bằng, rồi tìm việc làm”. Với họ, tấm bằng đại học là mục tiêu vì nó giúp đem lại công việc, giống như những gì đã xảy ra vào thời của họ. Họ không biết rằng thời thế đã thay đổi và ngày nay, tấm bằng đại học không đủ để đảm bảo có việc làm tốt như ba mươi hay bốn mươi năm về trước.
Ngày nay, sinh viên đại học cần được hướng dẫn nhiều hơn để phát triển các kỹ năng và chuẩn bị cho nghề nghiệp trong thế giới thực. Sau khi tốt nghiệp, các em phải có khả năng tự lập, nghĩa là phải có khả năng tự kiếm sống dựa trên tri thức và kỹ năng của bản thân. Bố mẹ và con cái cần biết rằng có sự khác biệt giữa bằng cấp và kỹ năng vì các công ty không thuê người dựa trên bằng cấp mà dựa trên năng lực đáp ứng yêu cầu của công ty họ.
Học sinh cần phải lập kế hoạch và được hướng dẫn đầy đủ TRƯỚC khi vào đại học. Nhiều học sinh chọn ngành học dựa trên sở thích hay thành tích học tập trước đây. Các em thường lẫn lộn giữa sở thích và nghề nghiệp. Sở thích thuộc về cá nhân, là cái để tận hưởng, nhưng nó có thể không phải là nghề nghiệp kiếm sống được. Vì vậy, phụ huynh cần hướng dẫn cho các em hiểu rõ điều này. Vài năm trước, có một học sinh nói với tôi: “Em xem một chương trình trên tivi thấy người ta trang trí nhà cửa rất hay và em nghĩ em muốn làm công việc đó. Thật may, hè năm nhất đại học, em kiếm được việc làm thêm là trang trí nội thất cho một công ty bán đồ nội thất và thấy được rằng phần lớn công việc là bán đồ nội thất và trả lời điện thoại, nghĩa là chẳng cần phải học đại học để làm công việc đó”.
Nhiều học sinh tốt nghiệp trung học chọn ngành dựa trên ảnh hưởng của bạn bè. Đôi khi, các em chọn ngành theo môn học mình giỏi nhất mà không biết đích xác phải làm gì với ngành đó sau này. Đây là chỗ bố mẹ nên can thiệp; họ nên giúp con tìm hiểu thị trường việc làm, xem nghề nào có tương lai tốt. Bố mẹ nên trang bị đầy đủ thông tin về cách lập kế hoạch nghề nghiệp để có thể hướng dẫn con cái đi theo xu hướng thị trường. Thuyết phục các bạn trẻ thật không dễ, nhưng đôi khi bố mẹ cũng phải cương quyết đi theo một con đường nào đó, cân nhắc chi phí và thời gian con cái họ có thể phí hoài ở đại học. Về căn bản, giáo dục đại học là một sự đầu tư và nó nên được lập kế hoạch cẩn thận. Điều quan trọng là cần dành thời gian để hiểu những khả năng tương lai, mục tiêu học tập của con, cũng như sở thích, năng lực và điều các con cần để có một cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.
Một điều tốt nên làm nữa TRƯỚC khi quyết định ngành học là nói chuyện với các sinh viên năm thứ ba hay thứ tư xem vì sao họ chọn ngành này và triển vọng tương lai của ngành học đó ra sao. Những sinh viên này có lẽ còn trả lời cho bạn cụ thể hơn cả chuyên viên tư vấn vì họ có cách nhìn riêng về một nghề cụ thể. Bên cạnh đó, họ còn có thể cung cấp thông tin về giáo trình, chương trình đào tạo và kinh nghiệm tìm việc.
Sinh viên nào cũng được cấp bằng khi tốt nghiệp, nhưng không phải tấm bằng nào cũng đảm bảo công việc giống nhau. Không có lý do gì bạn nên chọn một ngành nghề nào đó nếu biết rằng ngành nghề đó không có tương lai và khó kiếm được việc làm, bởi vì trong thế giới cạnh tranh này, điều quan trọng cần cân nhắc khi chọn ngành học là khả năng kiếm được việc làm sau khi tốt nghiệp.
Xu thế nghề nghiệp trong tương lai
Một người bố viết cho tôi: “Mặc dù ba đứa con của tôi vẫn đang học phổ thông nhưng tôi muốn các con được chuẩn bị sẵn sàng. Xin thầy cho tôi biết một số ngành học và nghề nghiệp sẽ có nhu cầu cao trong mười năm tới. Xin cảm ơn sự giúp đỡ của thầy”.
Đáp: Khó mà dự đoán được tương lai vì công nghệ sẽ thay đổi, doanh nghiệp sẽ thay đổi, thị trường việc làm sẽ thay đổi và tốc độ thay đổi sẽ tiếp tục tăng. Nhưng tôi có thể nói rằng trong tương lai, phần lớn các nghề nghiệp đều sẽ yêu cầu học vấn là bằng đại học. Vì các con bạn vẫn đang học phổ thông, bạn nên khuyến khích các cháu chú trọng nhiều hơn vào toán học, khoa học và công nghệ để giúp chuẩn bị vào đại học. Bên cạnh đại số, hình học, điện toán, lượng giác, vật lý và hóa học, các cháu nên học một ngoại ngữ như tiếng Anh vì điều này sẽ giúp nắm được nhiều cơ hội hơn trên toàn cầu. Các cháu cũng nên học các ngôn ngữ lập trình như Python hay Java để làm quen với công nghệ thông tin vì chúng ta đang sống trong thế giới mà công nghệ đóng vai trò chủ đạo.
Nói chung, khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) đều là những lựa chọn tốt cho các con bạn. Bất kể bạn sống ở đâu và tình hình kinh tế trong tương lai ra sao, sẽ luôn có những lĩnh vực tăng trưởng với nhu cầu (bổ sung) cao mà bạn cần định hướng cho các cháu. Các lĩnh vực hứa hẹn nhất là điện tử, điện toán, công nghệ sinh học và công nghệ nano. Các phát kiến trong những lĩnh vực này sẽ làm thay đổi đáng kể các ngành y, dược và chăm sóc sức khỏe. Các phát kiến cũng sẽ tác động tới quy trình chế tạo của các ngành như hàng không, vũ trụ, đóng tàu và công nghiệp vận tải. Tuy nhiên, nền tảng cho tất cả những thay đổi này chính là công nghệ thông tin, vì mọi thứ đều sẽ được vận hành bằng các hệ thống máy tính. Sau đây là một số nghề hứa hẹn mà tôi biết rõ:
Chuyên viên phát triển phần mềm: Sẽ cần rất nhiều chuyên viên phát triển phần mềm vì công nghệ thông tin đang thay đổi nhanh chóng, các ngôn ngữ lập trình và các nền tảng sẽ tiếp tục tiến hóa. Chẳng hạn lĩnh vực tài chính, ngân hàng, kinh doanh chứng khoán và đầu tư đều có nhu cầu vô hạn về điện toán tốc độ cao để xử lý dữ liệu khối lượng lớn (Big Data), cho nên luôn cần đến những chuyên viên phát triển thế hệ mới với các kỹ năng về Big Data để đáp ứng nhu cầu này. Khi ngày càng nhiều người dùng các nền tảng di động (IOS, Android) thì nhu cầu tuyển dụng các chuyên viên phát triển ứng dụng di động cũng tăng lên. Vì phần mềm ngày càng có quy mô lớn và phức tạp hơn, bằng cấp tối thiểu cho các việc làm này là bằng cử nhân ngành khoa học máy tính hay kỹ thuật phần mềm.
Chuyên viên an ninh máy tính/mạng: Chúng ta đang sống trong một thế giới được kết nối, nơi mọi thứ được tích hợp qua mạng. Trước nguy cơ từ những hacker trình độ cao, những phần mềm độc hại phức tạp, và các cuộc tấn công không gian mạng tinh vi, nhu cầu tuyển dụng chuyên viên an ninh mạng để quản lý, giám sát và ngăn chặn những sự cố này ngày càng cao. Trình độ tối thiểu cho vị trí này là bằng cử nhân khoa học máy tính hay kỹ thuật phần mềm với chuyên ngành an ninh mạng. Các vị trí cấp cao hơn như kiến trúc sư an ninh mạng, điều tra số(1), hay giám đốc bảo mật thì yêu cầu sẽ cao hơn, như thạc sĩ an ninh máy tính. Ngoài ra, các chứng chỉ phụ như Certified Information Systems Security Professional (CISSP), Certified Network Security Professional (CNSP) hay Certified Hacking Forensics Investigator (CHFI) cũng thường được yêu cầu.
(1) Computer forensics: điều tra số, là công việc phát hiện, bảo vệ và phân tích thông tin được lưu trữ, truyền tải hoặc được tạo ra bởi một máy tính hoặc mạng máy tính, nhằm đưa ra các suy luận hợp lý để tìm ra nguyên nhân của một sự cố an ninh máy tính/mạng.
Quản lý hệ thống thông tin: Trong tương lai, vị trí quản lý sẽ phải có cả kiến thức kinh doanh và công nghệ thông tin. Khi nhiều công ty chuyển sang dùng điện toán đám mây và di động, vị trí này cũng cần phải có kiến thức tốt về SaaS (Software as a Service - Phần mềm dịch vụ) và nền tảng di động. Người quản lý tương lai sẽ không làm việc cố định một chỗ mà có thể sẽ quản lý các hệ thống vận hành ở nhiều nơi, thậm chí ở nhiều nước, nên giỏi ngoại ngữ cũng là một yêu cầu quan trọng. Tất cả các nhà quản lý tương lai đều phải có kiến thức rộng về vận hành quốc tế, có khả năng phát triển các chiến lược để giúp công ty cạnh tranh trong một thế giới toàn cầu hóa. Bằng cấp tối thiểu cho vị trí này là cử nhân quản lý hệ thống thông tin, khoa học máy tính hay kỹ thuật phần mềm.
Chuyên viên mạng: Hiện nay, nhu cầu chuyên gia máy tính cấp cao có khả năng tích hợp nhiều hệ thống ngày càng cao. Các ngành ngân hàng, tài chính và đầu tư đều sẽ cần hệ thống mạng tốc độ cao và chuyên viên mạng để thiết kế, thực hiện và bảo trì các hệ thống mạng này, đảm bảo cho hệ thống luôn nhanh chóng và an toàn. Bằng cấp tối thiểu cho công việc này là cử nhân khoa học máy tính hay kỹ thuật phần mềm.
Chuyên viên Big Data: Ngày nay, lĩnh vực Big Data (Dữ liệu lớn) đang tăng trưởng nhanh chóng, vì các công ty đều muốn truy cập được nhiều thông tin về khách hàng hơn. Thách thức chủ yếu là phải nhận diện được cơ hội để thu thập thông tin hữu dụng cho ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Marketing và nghiên cứu thị trường là hai lĩnh vực đang tăng trưởng nhanh về nhu cầu sử dụng dữ liệu, vì vậy họ sẽ có nhu cầu cấp bách về nguồn nhân lực lĩnh vực này. Bằng cấp tối thiểu cho chuyên viên Big Data là bằng cử nhân khoa học máy tính hay kỹ thuật phần mềm.
Bên cạnh những lựa chọn nghề nghiệp nói trên, bạn cần lưu ý tới cả việc chọn trường đại học của con. Không phải trường đại học nào cũng như nhau, mà có những trường tốt và những trường không được tốt. Bạn cần tìm hiểu để tìm ra trường nào có chương trình đào tạo tốt nhất, đội ngũ giảng viên giỏi nhất và nội dung giảng dạy tiên tiến nhất. Bạn có thể quan sát các sinh viên tốt nghiệp để xem bao nhiêu người trong số họ tìm được việc làm liên quan tới ngành học – đây là yếu tố then chốt để đánh giá chương trình đào tạo.
Cân nhắc một lựa chọn tổng hợp
Một người mẹ viết cho tôi: “Con gái tôi sang năm sẽ vào đại học và muốn học quản trị kinh doanh. Chồng tôi lo rằng cháu sẽ không có nhiều cơ hội việc làm khi học ngành này, thay vào đó chồng tôi muốn cháu học công nghệ thông tin. Chúng tôi đã thảo luận suốt nhiều tuần rằng liệu có nên đồng ý cho con học kinh doanh hay thuyết phục cháu học công nghệ thông tin. Tôi không biết lựa chọn nào sẽ tốt hơn cho cháu và cho gia đình tôi. Xin thầy cho lời khuyên”.
Đáp: Ngày nay việc thảo luận về nghề nghiệp giữa bố mẹ và con cái đã khác với trước đây, không còn chuyện bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy nữa. Tất nhiên, bậc phụ huynh nào cũng muốn điều tốt nhất cho con. Suy thoái kinh tế càng khiến phụ huynh lo lắng hơn về tương lai con cái. Họ hiểu tình trạng thất nghiệp ở sinh viên tốt nghiệp đại học nên muốn hướng con học ngành gì đó mà dễ kiếm được việc làm tốt.
Tuy nhiên, ngày nay nhiều người trẻ cũng biết rõ về thực trạng này. Với nhiều thông tin sẵn có trên internet, mạng xã hội, và phương tiện truyền thông, các em biết rằng mình sẽ phải nỗ lực nhiều hơn để tồn tại trong môi trường việc làm đầy cạnh tranh. Nếu con gái bạn đã quyết định học quản trị kinh doanh, có lẽ cháu có lý do riêng. Điều tốt nhất cần làm là trao đổi thẳng thắn với cháu về việc lập kế hoạch và định hướng nghề nghiệp. Bạn cần lắng nghe quan điểm của con với tâm lý cởi mở, vì cháu có thể có lý do rất chính đáng mà có thể bạn không biết. Ép con theo học ngành nghề mà bạn muốn KHÔNG PHẢI là giải pháp tốt và KHÔNG BAO GIỜ nên làm. Cho dù cháu có nghe lời, thì làm sao bạn biết rằng cháu sẽ học tốt trong lĩnh vực mà cháu không thích? Điều gì sẽ xảy ra nếu cháu thất bại? Điều gì sẽ xảy ra nếu cháu lấy được tấm bằng nhưng không tìm được việc làm? Vì không ai có thể dự đoán được tương lai, quan trọng là thảo luận cởi mở để cả hai phía đều lắng nghe nhau, không nên vội vàng quyết định. Rốt cuộc thì, đó là cuộc đời của cháu và tương lai của cháu, chứ không phải của vợ chồng bạn.
Tuy nhiên, dù con gái bạn học quản trị kinh doanh hay công nghệ thông tin, thì thành công trong tương lai của cháu chắc chắn sẽ tùy thuộc ở các kỹ năng mà cháu học được về kinh doanh, công nghệ thông tin và các kỹ năng mềm. Vì dù chọn lĩnh vực nào, cháu vẫn phải học công nghệ thông tin vì mọi công việc đều cần dùng đến công nghệ thông tin để tự động hóa các quy trình và tăng hiệu quả. Thế giới đang thay đổi từng ngày, công nghệ thông tin sẽ được áp dụng ở mọi nơi và trong mọi thứ. Bất kể làm gì, người ta đều phải học công nghệ thông tin. Do đó, bố mẹ cần ủng hộ dù con có chọn ngành nào đi nữa, và cần hiểu rằng mọi công việc được trả lương tốt đều đòi hỏi kỹ năng, chứ KHÔNG CHỈ bằng cấp.
Thay vì làm con nản lòng vì không được học điều mình thích, bạn nên khuyến khích cháu chú trọng phát triển các kỹ năng mà cháu có thể sử dụng trong nghề nghiệp tương lai như kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lãnh đạo, và trên tất cả: kỹ năng học tập suốt đời. Không ai có thể dự đoán được điều gì sẽ xảy ra trong bốn hay năm năm nữa, vì quy luật cung cầu sẽ quyết định thị trường việc làm khi con bạn tốt nghiệp. Nếu cháu có những kỹ năng cần thiết, thì bằng cấp hay ngành học không phải là điều quá quan trọng nữa, dù thế nào cháu cũng sẽ kiếm được việc làm tốt.
Tất nhiên với tư cách một phụ huynh, tôi chắc rằng bạn vẫn cứ lo. Khi thảo luận với con gái về việc lập kế hoạch nghề nghiệp, bạn có thể gợi ý thêm một khả năng chọn lựa thứ ba hay kế hoạch dự phòng. Có một ngành học kết hợp cả kinh doanh và công nghệ thông tin, đó là: hệ thống thông tin quản lý (ISM). Đây là ngành học tập trung vào việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các tổ chức doanh nghiệp. Ngành này hiện khá phổ biến ở nhiều nước. Bạn có thể cho cháu biết thêm về ngành học này để cháu có thể tùy nghi đưa vào kế hoạch phòng bị nếu thích. Cháu vẫn học các môn kinh doanh, tài chính và quản trị, nhưng cũng học về công nghệ thông tin như quản trị cơ sở dữ liệu, khai phá dữ liệu(2), phân tích thông tin doanh nghiệp(3) và khái niệm Big Data. Khi có những kỹ năng này, cháu có thể làm việc ở nhiều nơi như ngân hàng, công ty tài chính, công ty marketing; cũng như các công ty công nghệ thông tin, công ty dịch vụ điện toán đám mây, hay thậm chí công ty phần mềm.
(2) Data mining.
(3) Business intelligence: là công việc phân tích thông tin doanh nghiệp, tức truy cập các thông tin tối quan trọng liên quan đến doanh nghiệp, cung cấp cho cấp quản lý những phân tích, dự đoán và cái nhìn tổng thể về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để cấp quản lý dựa vào đó đưa ra những quyết định kịp thời và hiệu quả.
Một khi con bạn hiểu được rằng bằng cấp không còn có thể đảm bảo được việc làm nếu thiếu các kỹ năng trong cả hai lĩnh vực, thì cháu sẽ cân nhắc và suy nghĩ thấu đáo hơn.
Làm thế nào để tạo ảnh hưởng tích cực đến sự nghiệp của con
Ở châu Á, phụ huynh bao giờ cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nghề nghiệp của con cái. Tuy nhiên, gần đây khi sang giảng dạy ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, tôi gặp nhiều phụ huynh phàn nàn rằng con họ lựa chọn khác với điều họ ao ước, khiến họ không hài lòng.
Khi học sinh muốn theo đuổi một ngành nào đó ở đại học, một số phụ huynh cảm thấy họ nên can thiệp nếu không đồng ý với ngành học mà con họ chọn. Điều này có thể nảy sinh từ việc phụ huynh thiếu thông tin về một số ngành học, hoặc họ mong muốn tạo ảnh hưởng để con cái tuân theo kế hoạch mà họ đã đề ra. Mặc dù nhiều học sinh muốn bố mẹ cho lời khuyên và chấp thuận sự lựa chọn của mình, nhưng các em cũng tin rằng bản thân các em cần có khả năng đưa ra quyết định riêng. Đó là lý do tại sao một số phụ huynh nổi giận nếu con họ không bằng lòng làm theo yêu cầu họ đưa ra và điều này tạo ra những xung đột không cần thiết giữa bố mẹ và con cái.
Khi gặp gỡ các bậc phụ huynh, tôi thấy rằng có những phụ huynh đã thành công trong một ngành nghề nào đó và họ muốn con đi theo con đường của mình (các doanh nhân thường muốn con cái nối nghiệp họ). Có những phụ huynh đam mê một nghề nào đó và muốn con thực hiện mơ ước của mình. Hoặc họ cảm thấy lựa chọn nghề nghiệp của con phải dựa trên nhu cầu của thị trường việc làm, bất kể sở thích và khả năng của con như thế nào đi nữa.
Khi gặp gỡ sinh viên, tôi thấy rằng nhiều em đã không tìm hiểu hết mọi khả năng lựa chọn nghề nghiệp hiện có. Có những em chọn theo bạn bè. Có những sinh viên vì ngưỡng mộ một người nổi tiếng mà mong ước bản thân cũng có thể làm được như họ. (Nhiều người chọn kịch nghệ hay âm nhạc để có thể trở thành “ngôi sao điện ảnh” hay “ngôi sao nhạc rock”). Cũng có những sinh viên cảm thấy nên lựa chọn nghề nghiệp dựa trên nhu cầu của thị trường việc làm, bất kể khả năng của họ ra sao. (Nhiều người chọn lĩnh vực máy tính để có thể trở thành một “Bill Gates”).
Trường đại học là nơi sinh viên phát triển các kế hoạch cho tương lai và việc đi sâu tìm hiểu nghề nghiệp là mấu chốt. Vấn đề là ở chỗ các em tích cực như thế nào trong việc khám phá các khả năng lựa chọn nghề nghiệp và làm sao các em có thể làm công việc gì có ý nghĩa mà lại đúng với sở thích và năng lực. Để làm được vậy, các em phải được thông tin tốt về mọi khả năng lựa chọn hiện có trên thị trường việc làm trước khi quyết định. Đây là một trong những yếu tố then chốt. Tất nhiên, nhu cầu thị trường có thể thay đổi, và sở thích của các em cũng vậy.
Lời khuyên của tôi cho cả bố mẹ và các em là cần xem xét ba yếu tố: sở thích, năng lực và nhu cầu thị trường trước khi ra quyết định. Nếu các em không đặc biệt yêu thích một môn học nào, các em sẽ không giỏi môn học đó. Một sinh viên không có đủ năng lực sẽ không thể tiến xa trong lĩnh vực đó và có thể thất bại. Nếu bằng cấp các em có được thuộc ngành nghề mà thị trường đang không có nhu cầu, các em sẽ khó có khả năng tìm được việc làm. Vì các em cần quyết định sớm sẽ làm gì sau khi tốt nghiệp đại học, nên bố mẹ phải trao đổi với các em về lựa chọn nghề nghiệp trước khi các em vào đại học, hay ít nhất cũng phải trong năm đầu đại học.
Phần lớn các trường đại học đều có trung tâm tư vấn hướng nghiệp có các chuyên viên tư vấn nghề nghiệp. Trung tâm hướng nghiệp là nơi sinh viên tới để học các kỹ năng làm việc, cập nhật thông tin các ngành nghề, cũng như được tư vấn về việc làm,… Tôi khuyên rằng quý phụ huynh nên liên hệ với các trung tâm hướng nghiệp này để biết thông tin về một ngành học cụ thể, tham dự các buổi hội thảo hay hội chợ việc làm thường niên để biết thêm về cơ hội nghề nghiệp cho con.
Cùng với toàn cầu hóa, nhiều thay đổi đã xuất hiện trong thị trường việc làm, nhiều lĩnh vực mới, và nhiều cơ hội chưa từng có trước đây. Các chuyên viên tư vấn nghề nghiệp sẽ trở thành cầu nối quan trọng giữa phụ huynh và sinh viên trong những năm đại học của các em.
Bên cạnh các chuyên viên tư vấn nghề nghiệp động viên và hỗ trợ, bố mẹ cũng cần cố gắng để được con xem như người bạn đồng hành trong quá trình này. Những người tư vấn có thể hỗ trợ cho phụ huynh tham gia vào việc lập kế hoạch nghề nghiệp của con theo hướng tích cực. Các phụ huynh nên biết tách bạch mục đích của cá nhân họ với mục đích của con cái, và tránh mọi xung đột không đáng có bằng cách để các chuyên viên tư vấn nghề nghiệp đóng vai trò cầu nối trung gian. Các chuyên viên tư vấn có thể đưa ra giải pháp, giải thích cho phụ huynh về những vấn đề liên quan tới nghề nghiệp, và giúp phụ huynh thảo luận một cách hiệu quả với con về việc chọn lựa nghề nghiệp.
Bằng việc tích cực giới thiệu những thông tin cập nhật về thị trường cho phụ huynh, các chuyên viên tư vấn nghề nghiệp có thể giúp phụ huynh nhìn nhận thực tế khả năng tác động đến con cái, đồng thời trang bị cho họ kiến thức về nhiều lựa chọn nghề nghiệp khác nhau. Chẳng hạn, họ sẽ có được thông tin về các xu hướng nghề nghiệp trên thị trường toàn cầu, dự báo về những gì có thể xảy ra trong tương lai. Các trung tâm hướng nghiệp có thể cung cấp cho phụ huynh những thông tin cần thiết để họ biết cách tận dụng các tài nguyên hỗ trợ con, bằng sách hay những website.
Hơn bao giờ hết, khi các em bắt đầu khám phá nghề nghiệp trong giai đoạn đại học, mối liên kết giữa sinh viên, phụ huynh và trung tâm hướng nghiệp là rất quan trọng. Mặc dù các em có thể theo đuổi một ngành nghề đúng với sở thích và năng lực, nhưng thị trường việc làm vẫn là yếu tố đóng vai trò then chốt đối với tương lai các em. Nếu có thể có được một lựa chọn phối hợp được cả ba yếu tố: nhu cầu thị trường việc làm, sở thích và năng lực của sinh viên, thì sẽ đưa đến một kế hoạch nghề nghiệp tích cực. Điều quan trọng là bố mẹ và con cái cần lắng nghe mong muốn của nhau hơn là chỉ áp đặt một chiều, vì như vậy, bố mẹ sẽ cảm thấy rằng con cái đang vượt khỏi tầm kiểm soát của mình, còn các em thì cảm thấy bố mẹ hành động độc đoán.
Không kể một vài cảm xúc tiêu cực, tôi thấy phần lớn sinh viên vẫn mong có được lời khuyên và sự tán thành của bố mẹ. Nhiều sinh viên nói với tôi rằng làm cho bố mẹ hạnh phúc và tự hào là mục đích chính của họ ở trường đại học. Tôi tin rằng nếu các trung tâm hướng nghiệp giúp phụ huynh cập nhật mọi thông tin cũng như cơ hội về chuyên ngành mà con cái họ đang theo học thì phụ huynh sẽ thực sự gây ảnh hưởng tích cực đến sự nghiệp của con cái họ.
Khi bố mẹ muốn con nối nghiệp
Theo truyền thống, nhiều phụ huynh muốn con đi theo con đường nghề nghiệp của mình. Người bố là bác sĩ thì sẽ muốn con mình học y khoa; người mẹ là giáo viên thì muốn con mình theo nghề sư phạm. Tuy nhiên, mọi sự đã thay đổi, điều quan trọng là bố mẹ nên khuyên con cái theo học những ngành nghề hiện đang hoặc sẽ có nhiều cơ hội việc làm.
Trong tình hình kinh tế toàn cầu đang suy thoái như hiện nay, thật khó tìm được việc làm tốt nếu bạn không có những kỹ năng mà công ty cần. Bởi vì nhiều người mới tốt nghiệp đại học còn không thể tìm được việc làm, nên điều quan trọng nhất mà bố mẹ nên hỏi con là: “Con có thể kiếm được một việc làm tốt với tấm bằng đó không?”.
Bố mẹ nên hiểu rằng thời nay đã khác xa trước kia. Bố mẹ nên ưu tiên giúp con xác định những kỹ năng nào là thiết yếu để có được thành công trong nền kinh tế toàn cầu. Theo một nghiên cứu gần đây, các kỹ năng quan trọng nhất là thuộc nhóm các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), bên cạnh ngoại ngữ và các kỹ năng mềm. Quan trọng nhất là các em cần phát triển tinh thần học tập trọn đời để liên tục thu nhận những kỹ năng mới qua từng giai đoạn phát triển của mình.
Ngày nay, bằng đại học không còn là tấm vé thông hành đảm bảo việc làm. Và ngay cả khi kiếm được một công việc tốt, điều đó cũng không có nghĩa là bạn sẽ ở một công ty hay một ngành nghề duy nhất suốt đời. Tất cả mọi người trong tương lai đều sẽ phải ứng phó với những thay đổi bằng cách đi theo xu hướng thị trường, học hỏi đúng những kỹ năng thị trường cần, ý thức rằng mọi kỹ năng sẽ thay đổi theo thời gian. Chẳng hạn, trong các năm từ 2000 tới 2008, quản trị kinh doanh, tài chính, ngân hàng, đầu tư chứng khoán là các ngành thu hút nhiều sinh viên có hoài bão. Tấm bằng MBA (thạc sĩ quản trị kinh doanh) “hot” tới mức giới trẻ truyền nhau một câu nói phổ biến: “Không MBA, không cưới”. Vậy mà, chỉ vài năm sau đã có rất nhiều MBA thất nghiệp, vì có thêm nhiều ngân hàng và công ty tài chính nộp hồ sơ xin phá sản. Nếu hàng triệu doanh nhân nhiều kinh nghiệm mà còn không có việc làm thì những người mới tốt nghiệp sẽ càng khó có khả năng cạnh tranh.
Bố mẹ nên giải thích cho con rằng luật cung cầu sẽ quyết định rằng con tìm được việc như ý khi tốt nghiệp hay không. Sinh viên phải được chuẩn bị để đi theo xu hướng thị trường, không chỉ thị trường trong nước mà cả thị trường toàn cầu, bởi vì những thay đổi từ một nơi có thể tác động đến những nơi khác. Để làm được điều đó, họ phải đọc, nghiên cứu thật nhiều, tích cực và tỉnh táo nắm bắt xu hướng mới nổi lên. Khi thảo luận với con mình về con đường phát triển sự nghiệp, bố mẹ nên khuyên con nhìn xa trông rộng hơn, tìm hiểu những kỹ năng cần thiết và tích cực lập kế hoạch cho tương lai để có thể nắm bắt cơ hội tốt nhất khi nó tới.
Giúp con chọn đúng trường
Một người mẹ viết cho tôi: “Sau khi đọc blog của thầy, tôi thấy việc đảm bảo một tương lai nghề nghiệp cho con là rất cần thiết. Con trai tôi sang năm sẽ vào đại học và con gái tôi thì hai năm nữa. Tôi cần sự giúp đỡ để chọn đúng trường đại học và đúng chương trình đào tạo cho các con. Xin thầy cho lời khuyên”.
Đáp: Tôi đã viết nhiều bài về việc chọn trường và ngành học. Vì bạn hỏi, tôi tóm tắt lại như sau: Bạn và con bạn cần thảo luận xem cháu quan tâm đến ngành nào. Hiện thời, khoa học, công nghệ kỹ thuật và toán học (STEM) là các ngành đang có nhu cầu cao nhất, nhưng các ngành này rất rộng, nên bạn và các cháu cần chọn lọc lại một vài ngành thôi. Điều quan trọng là phải chắc chắn rằng ngành mà con bạn chọn học sẽ giúp cháu đạt được các mục tiêu nghề nghiệp của bản thân. Nếu các cháu muốn xây dựng một sự nghiệp tốt với công việc được trả lương cao, hãy chọn những ngành đang có nhu cầu cao như khoa học máy tính, công nghệ phần mềm, hay quản lý hệ thống thông tin thì có thể thiết thực hơn các ngành học tổng quát.
Bạn cần xây dựng một danh sách các trường đại học mà con bạn muốn theo học và nghiên cứu kỹ lưỡng để xem trường nào cung cấp các chương trình đào tạo tiên tiến nhất với chất lượng thỏa đáng. Bạn có thể đặt các câu hỏi về hình thức sở hữu của nhà trường (trường đại học công hay tư) để chắc chắn con bạn không trở thành nạn nhân của những trường chỉ tập trung vào việc kiếm tiền cho chủ đầu tư mà không cung cấp chương trình giáo dục chất lượng. Điều này là không dễ, nhưng quan trọng là bạn nắm hết mọi thông tin cần biết về trường đại học đó. Chỉ báo tốt nhất là nhìn vào số sinh viên tốt nghiệp từ trường đó tìm được những công việc có liên quan tới ngành họ đã học. Bạn cần chắc chắn rằng chương trình đào tạo cấp bằng(4) mà con bạn chọn có cung cấp chương trình học liên quan và cập nhật hay không, để khi tốt nghiệp, các cháu sẽ có kỹ năng đối phó với thế giới thực như nhà tuyển dụng yêu cầu.
(4) Chương trình đào tạo cấp bằng (degree program) là chương trình ở các bậc học cử nhân, thạc sĩ hay tiến sĩ, để phân biệt với chương trình đào tạo cấp chứng chỉ (certificate program). Các trường đại học trên thế giới hiện nay đang có cả chương trình đào tạo cấp bằng và chương trình đào tạo cấp chứng chỉ. Chương trình cấp bằng cung cấp kiến thức nền tốt hơn chương trình cấp chứng chỉ, vì ngoài kiến thức chuyên ngành, sinh viên còn được dạy những môn bổ trợ, nền tảng. Các chương trình đào tạo cấp chứng chỉ thường là các chương trình đào tạo chủ yếu giúp người học trang bị kỹ năng để làm việc như kế toán cơ bản, thuế doanh nghiệp, tiếng Anh thương mại, quản trị kinh doanh,…
Bạn cần đặt ra câu hỏi: Hoạt động đào tạo và tấm bằng của trường có thể chuẩn bị cho con một tâm thế vững vàng để kiếm được một công việc trong ngành, hay giúp con thăng tiến lên các cấp bậc cao hơn không? Nhà trường có các giảng viên có đủ năng lực để giúp con học hỏi thêm nhiều không? Chương trình đào tạo có được cập nhật không? Bằng cấp của trường có được các công ty chấp nhận không? Giáo dục đại học là sự đầu tư nghiêm túc cho tương lai. Chọn đúng ngành học, đúng trường, đúng chương trình đào tạo là những điều cần làm. Bạn và các con phải dành nhiều thời gian để nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi quyết định.
Chuẩn bị du học
Một người mẹ viết cho tôi: “Con trai tôi hiện đang học lớp 11 và chúng tôi muốn cho cháu sang Mỹ học sau khi hoàn tất chương trình trung học. Chúng tôi rất lo lắng về tương lai của cháu và cuộc sống xa nhà, vì muốn cháu học thật tốt ở đại học. Thầy có lời khuyên nào không?”.
Câu trả lời của tôi: Bước đầu tiên để chuẩn bị trước khi quyết định đi du học là chọn đúng trường đại học và phải chắc chắn đó là trường được chính thức công nhận. Có ba kiểu trường đại học ở Mỹ: trường đại học bang (tức trường đại học công lập), đại học tư phi lợi nhuận, và đại học tư vì lợi nhuận. Bộ giáo dục Mỹ đã công bố một danh sách các cơ quan có thẩm quyền xét công nhận các trường đại học ở cấp quốc gia. Được công nhận chính thức là điều kiện thiết yếu để đảm bảo tính hợp lệ của bằng cấp, đây cũng là điều kiện để được các trường và ngành khác thừa nhận. Bạn có thể kiểm tra một vài nguồn như U.S. News Report hay tạp chí Forbes để chọn trường đại học phù hợp, tránh một số trường đại học tư không được công nhận chính thức. Điều quan trọng là tìm hiểu về quyền sở hữu của trường để xem đó có phải là trường thuộc sở hữu tư hay không. Có nhiều trường đại học “rởm” và đại học vì lợi nhuận cung cấp những chương trình giáo dục chất lượng kém, thậm chí cấp bằng giả nhưng quảng cáo khắp thế giới, hứa hẹn nhiều học bổng và điều kiện xét tuyển dễ dàng.
Điều quan trọng thứ hai là cần chọn đúng ngành học vì bạn muốn chắc rằng nền giáo dục mà con bạn tiếp nhận sẽ giúp cháu đạt được các mục tiêu nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục Mỹ cho phép sinh viên chọn bất kỳ ngành học nào mà các em muốn học. Nếu con trai bạn chưa biết học ngành gì thì cháu nên chọn ngành có nhu cầu cao trong thời buổi thay đổi nhanh chóng này. Câu hỏi bạn cần đặt ra là: Liệu tấm bằng đó có hỗ trợ con trai bạn kiếm được công việc tốt và phát triển được nghề nghiệp không? Hãy chắc chắn rằng chương trình đào tạo cấp bằng mà con trai bạn chọn là mới nhất để đảm bảo rằng khi tốt nghiệp, cháu sẽ có được những kỹ năng mà các công ty cần.
Điều quan trọng thứ ba là cải thiện kỹ năng ngôn ngữ. Vào được một trường đại học tốt chỉ là điểm xuất phát. Việc học tốt và đạt được các mục tiêu trong học tập mới là quan trọng. Do đó, con trai bạn cần có kỹ năng tiếng Anh tốt TRƯỚC KHI cháu sang Mỹ, vì mọi bài giảng, bài tập về nhà, bài thi và trao đổi với các giáo sư đều bằng tiếng Anh. Nếu không thông thạo tiếng Anh, con trai bạn sẽ gặp khó khăn trong quá trình học, đặc biệt là trong năm đầu. Tôi đã thấy nhiều du học sinh không theo kịp chương trình học suốt năm đầu tiên chỉ vì không giỏi ngoại ngữ. Nhiều em không thể bắt kịp với lớp, đâm ra thất vọng, vỡ mộng, chán nản và thậm chí còn bỏ học.
Điều quan trọng thứ tư là phải chắc chắn rằng con trai bạn đã chuẩn bị sẵn sàng để sống tự lập và tự chịu trách nhiệm. Nhiều bạn trẻ chưa chuẩn bị sẵn sàng đã bị đẩy đến một chỗ mới, một môi trường mới, nền văn hóa mới, bị hạn chế về ngôn ngữ thì sẽ cảm thấy chán nản, nhớ nhà, và việc đối diện với nhiều khó khăn có thể khiến họ học hành xao lãng. Một số bạn trẻ chưa được học về trách nhiệm, nên khi không có sự giám sát của gia đình, họ dễ sa vào những thói quen xấu dẫn đến việc học hành sút kém. Với nhiều sinh viên, việc ra nước ngoài du học mà không có sự chuẩn bị và hướng dẫn đúng đắn có thể tiềm ẩn nhiều thách thức và rủi ro. Bạn hãy theo sát con trai và tạo điều kiện để cháu có ý thức trách nhiệm nhiều hơn trong học tập và đời sống.
Các vấn đề du học sinh thường gặp
Theo một báo cáo của Mỹ, năm 2016 là năm đầu tiên sinh viên quốc tế ghi danh vào các trường đại học ở Mỹ vượt quá con số một triệu. Báo cáo này cũng cho thấy rằng mặc dù sinh viên tới Mỹ để học nhiều ngành khác nhau, nhưng các lĩnh vực phổ biến nhất vẫn là khoa học, kỹ thuật, công nghệ, và toán học (STEM). Trong đó, hơn một phần ba số sinh viên quốc tế học về kỹ thuật và khoa học máy tính.
Trong mười năm trước, đa số sinh viên quốc tế thường tới Mỹ để học kinh doanh và quản trị. Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính, hàng triệu người Mỹ mất việc làm, thậm chí đến nay họ vẫn đang tìm việc, số sinh viên quốc tế học ngành kinh doanh đã sụt giảm đáng kể. Một yếu tố khác là các lĩnh vực STEM như máy tính và kỹ thuật có nhu cầu cao nhưng cung không đủ, và những người tốt nghiệp công nghệ thông tin có thể ở lại Mỹ làm việc, trong khi kinh doanh và các lĩnh vực khác thì không được như thế. Theo báo cáo này, sự tăng trưởng trong ngành công nghệ thông tin là do rất nhiều sinh viên Ấn Độ ghi danh vào các trường đại học Mỹ với mục đích trên hết là kiếm được việc làm và ở lại Mỹ.
Một nước khác có lượng du học sinh đến Mỹ lớn là Trung Quốc. Tuy nhiên, so với du học sinh Ấn Độ, du học sinh Trung Quốc gặp nhiều khó khăn hơn do kém thông thạo ngôn ngữ và khác biệt văn hóa. Báo cáo trên cũng cho thấy rằng người Trung Quốc không giỏi giao tiếp, điều này làm cho họ khó hòa nhập hơn. Mặc dù học sinh Trung Quốc bắt đầu học tiếng Anh từ tiểu học, nhưng cách dạy tiếng Anh ở Trung Quốc lại chú trọng “ngữ pháp – dịch thuật” theo kiểu truyền thống hơn là ngôn ngữ giao tiếp. Điều này khiến cho các em gặp khó khăn khi diễn đạt quan điểm của mình trong các cuộc thảo luận ở lớp và tham gia các hoạt động nhóm, vốn là hoạt động học tập thường xuyên ở hầu hết các trường học tại Mỹ. Một vấn đề khác là hầu hết du học sinh người Trung Quốc đều không có thói quen đặt câu hỏi tại lớp hay tìm kiếm sự giúp đỡ từ các giáo sư. Ở Trung Quốc, học sinh không hỏi được coi là “thông minh hơn” vì giáo dục ở đó không khuyến khích đặt câu hỏi và làm gián đoạn thời gian của lớp.
Báo cáo này cũng cho thấy rằng du học sinh quốc tế gặp khó khăn ở các trường Mỹ vì sự khác biệt trong phương pháp dạy và học. Nhiều sinh viên bị điểm thấp và phải học lại một số môn nên mất nhiều thời gian hơn mới lấy được bằng đại học. Lý do là họ không được chuẩn bị đầy đủ trước khi du học. Gia đình bỏ ra nhiều tiền cho các em tới Mỹ học nhưng không giúp các em chuẩn bị để ứng phó với những khó khăn trong học tập. Một yếu tố khác là hệ thống giáo dục ở các nước sở tại khá lạc hậu, kiến thức đã lỗi thời, vì vậy các học sinh này phải rất vất vả mới có thể bắt kịp nhịp độ của nền giáo dục ở hầu hết các trường Mỹ.
Gần đây, nhiều trường ở Mỹ đã bắt đầu nhận ra những vấn đề này. Một số trường đặt ra tiêu chuẩn xét tuyển cao hơn với sinh viên quốc tế; một số trường khác tăng thời lượng học dự bị, cho các em có nhiều thời gian hơn để chuẩn bị trước khi theo học các môn đúng trình độ đại học. Những động thái hỗ trợ thêm này tất nhiên sẽ kéo dài thời gian học lấy bằng cử nhân của các em.
Phát triển nghề nghiệp sau khi ra trường: sớm thảo luận nghiêm túc với con
Cách đây không lâu, tôi có đến ăn tối ở nhà một người bạn. Trong khi trò chuyện, anh ấy bảo tôi: “Con trai tôi đã tốt nghiệp đại học sáu tháng rồi nhưng chưa tìm được việc làm và cháu nó đang nản đây. Tôi không biết phải làm gì, anh có thể giúp cho cháu lời khuyên được không?”. Tôi hỏi: “Cháu học chuyên ngành gì và đang tìm loại công việc như thế nào?” Anh ấy nói: “Con trai tôi tốt nghiệp cử nhân kinh tế. Cháu nó đã nộp đơn xin việc ở một vài chỗ trong cơ quan nhà nước nhưng chưa được chỗ nào. Nó đang thất vọng nên sẵn sàng chấp nhận làm bất kỳ loại công việc nào”.
Tôi bảo anh ấy: “Kinh tế là lĩnh vực rất rộng với nhiều chuyên ngành khác nhau. Tôi không biết con trai anh học chuyên ngành gì, nhưng hầu hết những công việc tốt đều yêu cầu bằng thạc sĩ hay tiến sĩ. Một chuyên viên kinh tế có bằng cấp chuyên sâu sẽ dễ có cơ hội kiếm được việc làm trong cơ quan nhà nước hơn là một cử nhân. Nếu cháu tiếp tục học lên tiến sĩ, cháu có thể giảng dạy ở trường đại học. Tuy nhiên, nếu cháu muốn trở lại trường, thay vì học để lấy bằng thạc sĩ kinh tế, cháu có thể cân nhắc để lấy bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh. Điều này sẽ mở ra nhiều cơ hội việc làm hơn trong các công ty tư nhân. Tôi không biết nhiều về lĩnh vực kinh tế, cháu nên trao đổi với các giáo sư hay các cố vấn của nhà trường để có được lời khuyên tốt hơn”.
Một người bạn khác của tôi hỏi: “Con gái tôi cũng sẽ vào đại học trong năm tới. Tôi không biết phải khuyên cháu thế nào nhưng với tình hình con trai của tôi đến giờ vẫn chưa xin được việc, tôi thật lo lắng cho tương lai của cả hai đứa. Tôi có thể làm gì để giúp con?”.
Tôi trả lời anh ấy: “Là phụ huynh, anh chị cần thảo luận nghiêm túc với các con về tương lai của chúng. Hãy cùng con lập kế hoạch phát triển nghề nghiệp sớm nhất có thể, đó là bước đầu tiên phải làm khi vừa đặt chân vào trường đại học. Việc các cháu học ngành gì, ngành học đó bao gồm những môn học hay chứng chỉ gì, và ngành học các cháu chọn thuộc chuyên ngành nào ở đại học đều ảnh hưởng đến công việc đầu tiên của các cháu sau khi tốt nghiệp. Mặc dù rất có thể các cháu sẽ đổi ý hoặc thay đổi công việc, nhưng một sự định hướng tốt vào giai đoạn này sẽ giúp các cháu nỗ lực tập trung. Bố mẹ bao giờ cũng muốn điều tốt nhất cho con, nhưng chúng ta có thể không biết làm thế nào tốt nhất trong một thị trường lao động thay đổi từng ngày. Có thể bọn trẻ thích học ngành khác nhưng chúng không thấy được sự cách biệt giữa công việc mơ ước và đời sống thực tế. Đó là lý do tại sao cả hai bên phải thảo luận để đi tới quyết định đúng đắn”.
Anh bạn tôi ngần ngại: “Tôi không biết nhiều về thị trường việc làm và thế nào mới tốt cho các con. Khi tôi còn trẻ, bằng đại học mở ra nhiều cơ hội nhưng ngày nay thì khác, vì thị trường đã trở nên phức tạp hơn và có quá nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học mà vẫn thất nghiệp”.
Tôi giải thích: “Đó là lý do tại sao việc bố mẹ và con cái đối thoại về kế hoạch phát triển nghề nghiệp là rất quan trọng. Đối thoại nghĩa là trao đổi ý kiến, hai bên lắng nghe nhau và tìm hiểu các cơ hội nghề nghiệp. Chìa khóa ở đây là việc chia sẻ về sở thích của con. Là bố mẹ, anh chị cần biết những ngành học nào đem lại cho con niềm vui thích. Các cháu muốn học gì ở trường đại học? Cháu hứng thú với loại nghề nghiệp nào? Tôi tin lúc này cháu đã có sẵn những ý tưởng trong đầu, anh cần hỏi ý cháu. Khi thảo luận, cháu sẽ có cơ hội giải thích cho anh về ngành nghề mà cháu muốn theo học và tại sao lại chọn ngành học đó. Nếu cháu còn chưa quyết định thì anh có thể tìm hiểu sở thích, những điểm mạnh, điểm yếu của cháu. Môn nào cháu học tốt ở trường phổ thông? Cháu thích tham gia những loại hoạt động nào trong trường? Anh chị nên thăm dò một số lựa chọn nghề nghiệp bằng cách đặt ra các câu hỏi như: ‘Con nghĩ mình có thể làm những việc gì với tấm bằng tốt nghiệp ngành…?’. Điều này sẽ giúp cháu suy nghĩ nghiêm túc hơn về lựa chọn của mình.
Sau khi đã đưa ra được một vài khả năng lựa chọn, anh có thể kiểm nghiệm thực tế bằng việc yêu cầu cháu đánh giá lựa chọn của chính mình. Chẳng hạn, anh có thể hỏi cháu: ‘Con có thực sự muốn làm chuyên viên phát triển phần mềm dù không giỏi toán không?’, hay ‘Con có thực sự muốn theo học nghệ thuật dù biết ngành này khó xin việc không?’. Tất nhiên sẽ có những vướng mắc trong khi thảo luận, nhưng quan trọng vẫn là nên đối diện với vấn đề và phải thực tế trong việc lựa chọn nghề nghiệp ngay từ bây giờ, thay vì đợi đến nước tới chân mới nhảy. Nhiều người trẻ không biết cách lập kế hoạch nghề nghiệp hay định hướng cho con đường học vấn của bản thân, nên họ chỉ biết hoặc theo đuổi ước mơ hoặc đua theo chúng bạn, nhưng ngay cả bạn bè của họ cũng không biết bản thân muốn gì, cho nên tất cả đều đi theo cái mà họ thậm chí cũng không biết gì nhiều. Điều này là phổ biến và đó là lý do tại sao bố mẹ cần phải thảo luận nghiêm túc với con cái.
Một khi hai bên đã đi tới một số lựa chọn thì bước tiếp theo là chọn lọc để còn lại ít lựa chọn hơn nữa. Đây là thời điểm anh cần đưa cháu tới thăm vài trường đại học, gặp gỡ một vài chuyên viên tư vấn của trường để giúp cháu hiểu rõ hơn về nghề nghiệp và các ngành học. Cách tốt nhất là trò chuyện với các sinh viên đang học trong lĩnh vực đó để biết thêm, đặc biệt là sinh viên năm thứ tư vì họ sắp tốt nghiệp và tìm việc làm. Những sinh viên này có thể nói cho anh chị nhiều điều về ngành học cũng như các cơ hội việc làm. Anh cũng có thể hỏi nhà trường về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp tìm được công việc có liên quan tới lĩnh vực mà họ theo học để đánh giá. Những dữ kiện này sẽ giúp con gái anh kiểm định thực tế tốt nhất xem nên học ngành gì. Lập kế hoạch nghề nghiệp không bao giờ là sớm và ngày nay, nên tiến hành việc này càng sớm càng tốt”.
Việc đọc sách
Ngày nay, nhiều học sinh, sinh viên không đọc sách mà chỉ lướt Facebook, Twitter, Snapchat, Instagram và đọc tin nhắn. Nếu để ý, bạn có thể thấy các em luôn nhìn vào điện thoại thông minh. Cứ vài phút, họ lại mở điện thoại xem có tin nhắn hay tweet không. Lúc nào các em cũng đọc, nhưng chỉ đọc những nội dung ngắn và có tính giải trí. Các em có thể nói về nhiều thứ, từ các sự kiện hằng ngày cho tới cuộc sống của các ngôi sao, nhưng rất ít người đọc cái gì đó có ý nghĩa cho nghề nghiệp của mình hay mở mang kiến thức về một lĩnh vực nào đó.
Vài năm trước đây khi dạy ở châu Á, tôi đã ra một bài tập đơn giản trong lớp kỹ thuật phần mềm. Tôi yêu cầu sinh viên liệt kê năm sự kiện “làm phẳng” thế giới và năm người mà các em ngưỡng mộ, không kể đến giới lãnh đạo chính phủ và người làm chính trị (bởi vì, lớp của tôi là lớp thuộc chuyên ngành công nghệ và kỹ thuật, không phải lịch sử hay chính trị). Tôi thật ngạc nhiên khi phần lớn sinh viên chẳng có ý tưởng gì về cái gọi là “thế giới phẳng”, mặc dù một trong những bài tập được giao là đọc ba chương trong cuốn sách Thế giới phẳng của Thomas Friedman. Đó là một chỉ báo cho thấy nhiều sinh viên chưa đọc cuốn sách này. Điều ngạc nhiên nữa là trong số những người mà các em ngưỡng mộ, có vài em chọn Bill Gates và Steve Jobs nhưng phần lớn lại chọn những cái tên tôi không biết là ai. Sau khi hỏi, tôi mới biết đó là các ngôi sao điện ảnh và ca sĩ Hàn Quốc. Khi tôi nói với sinh viên về cảm giác thất vọng vì các em đã không đọc bài được giao, một sinh viên giải thích: “Nhưng thầy yêu cầu chúng em đọc tới hơn 40 trang, như vậy là quá nhiều”.
Một nghiên cứu cho thấy rằng những sinh viên đại học trước đó không được trang bị kỹ năng đọc tốt thì thường gặp vấn đề trong năm thứ nhất đại học. Nếu có một khóa học phụ đạo để các em cải thiện kỹ năng đọc thì các em có thể tăng cơ hội thành công so với những sinh viên không học kỹ năng này. Nghiên cứu nói trên kết luận rằng đọc là một phần thiết yếu của giáo dục đại học và là nền tảng cho thành công trong tương lai. Trong hầu hết các giờ lên lớp của tôi, bên cạnh sách giáo khoa, sinh viên phải đọc mỗi tuần ít nhất ba bài báo và một tin tức về kỹ thuật để chuẩn bị cho giờ thảo luận trên lớp, và phải viết một bài báo về kỹ thuật dài khoảng 5 – 15 trang mỗi tháng về một chủ đề nào đó để mở rộng sự học. Tôi thường khuyên các em: “Ngoài các kỹ năng chuyên ngành, các em còn phải giỏi đọc, viết vì bất kể làm loại công việc nào, các em đều cần kỹ năng giao tiếp tốt khi làm việc với người khác. Nếu các em giỏi đọc, các em sẽ giỏi viết, và nếu có vốn từ vựng phong phú, kỹ năng giao tiếp của các em có thể được cải thiện”.
Đọc là thói quen cần được phát triển từ rất sớm. Theo nhiều nghiên cứu, trẻ em có thể bắt đầu phát triển kỹ năng đọc từ 2 hay 3 tuổi, và có một mối tương quan mạnh mẽ giữa thói quen đọc tốt và thành tích học tập trong những năm về sau. Tôi thích đọc từ khi còn rất nhỏ, và đọc mọi thứ mà tôi tìm thấy. Các con tôi cũng đọc rất nhiều vì bố mẹ chúng đọc nhiều. Ở nhà chúng tôi có rất nhiều sách, nhờ đó mà con tôi đã có được thói quen đọc. Khi các con còn nhỏ, tôi đọc cùng con mỗi tối trước khi chúng đi ngủ. Tôi làm điều đó vì biết đó là phần quan trọng của việc giáo dục con. Tôi không thể giao phó việc nuôi nấng con cho ai khác. Hiện nay, các cháu đã trưởng thành và vẫn đọc nhiều, tôi vui mừng vì chúng tôi có thể nói về những quyển sách, bài báo, tin tức khi các con tới thăm chúng tôi. Tôi tin rằng bố mẹ phải đóng vai trò chính trong việc giáo dục con và họ cần phải chắc chắn rằng con cái họ có đọc sách. Bố mẹ chịu trách nhiệm về thói quen đọc của con, và nếu có nhiều sách hay ở nhà, trẻ em sẽ đọc nhiều hơn.
Tất nhiên, nếu bố mẹ dành nhiều thời gian xem tivi thì con cái cũng sẽ làm điều đó, nhưng như vậy thì bố mẹ sẽ không gắn bó nhiều với con cái. Thật dễ dàng để đổ lỗi cho tivi, trò chơi video hay các ứng dụng trong điện thoại di động thay vì đổ lỗi cho bản thân, nhưng nếu bố mẹ không nhận lấy trách nhiệm nuôi dạy nên những đứa trẻ biết suy nghĩ, thấu cảm thì con cái họ khó có thể trở thành những người lớn có tâm thức cởi mở và có trách nhiệm. Tôi tin sách là phần cốt yếu của giáo dục trẻ em và bọn trẻ sẽ không đọc chừng nào chúng ta chưa nói cho chúng rằng sách là một phần quan trọng của việc làm người lớn. Bố mẹ phải dạy con cái đọc bằng cách đọc sách cho con nghe khi các con còn rất nhỏ, và đọc cùng con khi chúng bắt đầu học đọc. Việc dạy cho các con biết nên đọc những gì cũng rất quan trọng trong quá trình trưởng thành của con.
Cách trẻ con đọc và những gì chúng đọc sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến thái độ của trẻ về việc đọc khi chúng lớn lên. Thói quen đọc sách phải được nuôi dưỡng khi trẻ em còn nhỏ, bằng việc có một “thư viện nhỏ” tại nhà với thật nhiều sách hay, bố mẹ có thể đặt nền tảng vững chắc cho tương lai của con và cho xã hội.
Học tập trọn đời
Ngày xưa, bố mẹ cho con cái đi học, chỉ cần học chăm chỉ, thi đỗ, có được mảnh bằng, tìm việc làm, và làm việc ở đó cho tới khi về hưu. Bây giờ, thời thế đã thay đổi với nhiều thứ gây hoang mang và bất ổn, bố mẹ có thể khuyên bảo con cái những gì? Đó là câu hỏi nhiều phụ huynh hỏi tôi. Một người mẹ viết: “Tôi nghe nói rằng mọi học sinh đều phải học khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán học (STEM) vì những môn học đó là nền tảng của mọi công việc trong tương lai, nhưng tôi không biết những môn học đó là gì”. Một người bố hỏi: “Phải chăng điều đó có nghĩa là học sinh không nên học kinh doanh, nghệ thuật, lịch sử hay văn học?”. Một phụ huynh khác viết: “Tôi bao giờ cũng khuyên con tôi học ngành ngân hàng hay kinh doanh vì đó là những công việc được trả lương cao. Giờ tôi có thể khuyên các con tôi điều gì?”.
Ngày nay, công nghệ tác động tới mọi ngành nghề, công việc kinh doanh và mọi quốc gia, tư tưởng cả đời chỉ làm một công việc trong một công ty đã hoàn toàn lỗi thời. Chẳng bao lâu nữa, nhiều công việc sẽ được máy móc thông minh thực hiện, con người sẽ không có khả năng kiếm được việc làm chừng nào họ chưa có các kỹ năng phù hợp mà thị trường đang có nhu cầu. Tuy nhiên, lời khuyên của tôi KHÔNG phải là về việc chọn ngành học vì mọi sự đều sẽ thay đổi, nhưng sinh viên phải coi học tập là hành trình trọn đời – trên hành trình đó, các em không ngừng học hỏi bất kỳ điều gì thị trường cần.
Ngày nay, công nghệ là một lĩnh vực quan trọng, mọi người đều cần có các kỹ năng như sử dụng máy tính, tìm kiếm thông tin trên internet, dùng các ứng dụng cơ bản như xử lý văn bản (Word) và bảng tính (Excel),… Mọi học sinh, sinh viên đều phải biết cách viết code (mã) và dùng công nghệ máy tính để tiếp cận thêm những kiến thức, kỹ năng mới. Vì công nghệ liên tục thay đổi, mọi người đều phải có khả năng điều chỉnh và tiến hóa cùng những thay đổi này. Theo ý kiến của tôi, vấn đề không phải là học cái gì, mà là bạn phải biết cách sử dụng công nghệ và có khả năng áp dụng công nghệ vào những gì đã học. Chẳng hạn, nếu học ngành nghệ thuật, bạn phải biết cách dùng máy tính để hỗ trợ bản thân trong công việc thiết kế và sáng tạo. Nếu học ngành âm nhạc, bạn sẽ dùng máy tính để hỗ trợ bạn viết nhạc thay vì viết bằng tay. Điều quan trọng là cần xem công nghệ là CÔNG CỤ giúp bạn làm bất kỳ công việc gì.
Tôi đã trả lời email của nhiều phụ huynh, cho họ biết rằng khi một công nghệ mới nổi lên có nghĩa là một công nghệ khác đã trở nên lạc hậu. Việc đạt tới thành công trong nghề nghiệp không dựa trên những gì sinh viên biết mà dựa trên những gì các em có thể học. Thực tế là những công việc mọi người làm hôm nay sẽ không còn nguyên như vậy trong tương lai. Những kỹ năng mọi người đang có hôm nay có thể sẽ không phải là những kỹ năng mà con cái chúng ta cần trang bị trong tương lai để có được việc làm ổn định. Bất kể sinh sống ở đâu và làm việc cho ai, mọi học sinh, sinh viên đều phải sẵn sàng để đáp ứng nhu cầu thị trường luôn thay đổi, tất cả là tùy thuộc ở các em và gia đình trong việc chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai của các em bằng cách phát triển thói quen học tập trọn đời.
Cách tốt nhất để phát triển kỹ năng “học tập trọn đời” cho con bạn là bắt đầu rèn kỹ năng đọc từ khi con còn nhỏ. Căn bản của việc đọc yêu cầu vốn từ vựng và khả năng nhận diện từ ngữ tốt, đây chính là nền tảng. Đến lúc các em vào trung học và đại học, các em cần đạt đến trình độ đọc hiểu sao cho có thể hiểu toàn bộ nội dung để áp dụng hoặc thực hành kiến thức đó. Ngày nay, nhiều sinh viên vào đại học mà vẫn chưa có kỹ năng đọc hiểu tốt. Hằng năm, vẫn có những sinh viên thi trượt vì không có kỹ năng đọc tốt. Một số sinh viên nói với tôi rằng dù đã dành nhiều thời gian để đọc, nhưng em vẫn không thể hiểu được các khái niệm trong sách giáo khoa. Tôi khuyên các em rằng nếu biết lý do khi đọc một nội dung thì các em sẽ đọc nội dung đó bằng một cách khác. Nếu đọc tiểu thuyết vì sở thích, các em chỉ cần đi theo mạch truyện, rồi có thể đọc lại bất kỳ đoạn nào mình thích. Nếu đọc Facebook, Twitter, Snapchat hay các bài báo trên internet, nhiều đoạn các em chỉ cần lướt qua và không cần quá chú tâm, trừ khi tìm thấy một nội dung thú vị và muốn dừng lại đọc kỹ hơn. Tuy nhiên, khi đọc sách giáo khoa, các em phải xác định những nội dung quan trọng nào cần nắm rõ. Các em không thể đọc sách giáo khoa theo cách đọc các nội dung trên internet hay tiểu thuyết.
Ngày nay, có bằng đại học không phải là yếu tố đảm bảo cho mọi thứ nữa. Ngay cả khi đã có việc làm, bạn cũng phải không ngừng học các kỹ năng mới, đặc biệt trong thời đại công nghệ thay đổi nhanh chóng. Đào tạo chuyên môn trong quá trình làm việc ích lợi ở chỗ nó trang bị cho mọi người một số kỹ năng nhất định, nhưng những kỹ năng đó vẫn cần phải được cập nhật sau mỗi vài năm. Lời khuyên của tôi cho tất cả sinh viên là: Bạn sẽ không phải lo lắng gì nếu liên tục học hỏi các kỹ năng mới bằng việc đọc không ngừng, luôn cập nhật các xu hướng trong ngành nghề của mình và sẵn sàng điều chỉnh để thích ứng.