• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lửa biên thùy
  3. Trang 11

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 40
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 40
  • Sau

Chương 8

S

criptura Sancta nói dưới sự phán xét của Chúa, mọi con người đều bình đẳng, và mỗi tuần một lần, những người hầu lại ngồi sánh vai cùng các lái buôn và quý tộc. Lần đầu tiên tôi và Ximena dự lễ tại tu viện Brisadulce, chúng tôi ngồi trên băng ghế xù xì với xung quanh là bao nhiêu con người xa lạ. Mỗi tuần lại thêm đông, và hôm nay, mọi chỗ trên mọi băng ghế đều kín người, và không khí thật bí bách.

Tôi ngờ rằng mình là nguyên nhân khiến người ta tự dưng sùng đạo. Mọi người đều mong được thoáng trông thấy nàng công chúa mang địa vị khó hiểu ẩn dật lánh đời, cô gái to béo, mặc đồ ngoại quốc thường lui tới thư viện nhà thờ và cầu nguyện với lòng sùng đạo. Càng nhiều người thì càng đồng nghĩa với việc tôi dễ chuyển thư cho cha Nicandro, dưới ánh mắt theo dõi của Ximena hơn.

Tôi cúi đầu khi các tu sĩ, dẫn đầu là cha Nicandro, xướng lên khúc “Glorifica.” Được dịch sang ngôn ngữ Plebeya, nó mất đi vẻ đẹp nhạc tính của ngôn ngữ gốc. Nhưng, những ca từ vẫn cháy trong tim tôi với sự phong phú, và Thánh thạch đáp lại lời hát nguyện của chúng tôi bằng sự ấm áp sung sướng.

Linh hồn con tôn vinh Chúa; hãy để nó được vui vầy cùng Đấng Cứu tinh

Vì ngài quan tâm tới bầy tôi hèn mọn

Giữa bao nhiêu người, con may mắn lắm thay

Vì Ngài đã đưa con rời mảnh đất chết

Bằng bàn tay phải chính nghĩa của Ngài

Ngài chuộc lỗi cho con dân, cho họ cuộc sống mới ấm no sung túc

Linh hồn con tôn vinh Chúa; hãy để nó được vui vầy cùng Đấng Cứu tinh.

Khám thờ lấp lánh ánh nến nguyện. Ở đằng sau, cha Nicandro giơ một bông hồng hướng lên trần. Đó là thánh vật – tôi có thể thấy những gai hồng từ khoảng cách này – được chọn và thánh hóa vì cánh hoa nhung đỏ như máu và những chiếc gai nhọn. Nó là biểu tượng hoàn mĩ của vẻ đẹp và niềm đau của đức tin, và chúng tôi đồng thanh đáp lại.

Sau bài hát ca ngợi sự giải thoát, cha Nicandro yêu cầu những người xin được ban phúc im lặng tiến lên. Vì lí do này tôi chọn ngồi ngoài rìa. Diềm váy tôi lướt trên hành lang giữa, và tôi kéo chúng lại gần để rộng lối đi.

Một nhóm người lác đác đứng lên và bắt đầu đi ra giữa, hướng về khám thờ. Tôi cúi đầu, nhưng mắt mở, và tôi cảm nhận có ai đó từ sau tiến tới. Tôi phải căn thời gian thật chuẩn. Thoáng liếc sau vai, tôi thấy một người phụ nữ trung niên cao ráo mặc váy hầu gái màu xám. Tôi đợi tới khi bà ta đi gần ghế mình.

Tôi bật dậy và chen lên trước. Tôi nghe tiếng bà ta hít hà khi mắt cá chân va nhẹ vào bắp đùi tôi. Tôi quay đầu cười xin lỗi; nụ cười đáp lại của bà ta có ngượng ngùng nhưng chân thành.

Ximena đứng dậy định đi theo, nhưng đã quá trễ. Ít nhất sẽ có một người giữa chúng tôi, và bà vú sẽ không thể thấy chuyện xảy ra khi tôi xin ban phước.

Lần lượt từng người thì thầm xin cha Nicandro ban phước. Họ cầu nguyện rồi ấn một đầu ngón tay vào gai hoa hồng. Họ giơ ngón tay chảy máu trên khám thờ tới khi tảng đá nhận được một giọt máu dâng lên Chúa. Cha Nicandro khum tay thành hình tượng trung cho bàn tay phải chính nghĩa dưới cằm người xin ban phước, rồi chuyển người đó sang một tu sĩ khác, đang đứng đợi cùng một tấm vải lau và nước lá cây phỉ.

Khi cậu bé đứng trước tôi bắt đầu thì thầm với tu sĩ, tôi từ từ lần tay dưới cạp váy tìm lá thư đã được chuẩn bị sẵn. Kế hoạch thành công hay thất bại phụ thuộc vào vị tu sĩ, rằng ông có sẵn lòng nhận lá thư của tôi trong một lễ bí tích không, vào khả năng tỏ ra không bối rối của ông.

Có lẽ tôi đã phạm sai lầm. Cha Nicandro sẽ giận tôi. Nếu ông ấy ngắt ngang buổi lễ thì sao? Nếu Ximena trông thấy thì sao? Cuộc đời ông sẽ thế là chấm hết.

Tôi đổi ý. Tay tôi lại lần ra cạp váy, để vứt lá thư đi, nhưng tôi không đủ nhanh. Cậu bé bước sang bên để lau ngón tay và ánh mắt cha Nicandro thoáng nhìn xuống cuộn giấy da nhỏ xíu kẹp giữa ngón trỏ và ngón cái của tôi.

Tôi bước lên chiếm chỗ cậu bé, cầm chặt lá thư áp trước ngực. Tay trái cha Nicandro áp vào gáy tôi và kéo đầu tôi xuống để trán chúng tôi chạm nhau.

“Công chúa,” ông thì thào. “Hôm nay con tìm gì ở Chúa?” Bằng tay kia, bàn tay cầm hoa hồng, ông thò ra và lấy mảnh giấy kẹp vào ngón giữa và ngón trỏ. Chỉ bằng một cử động mau lẹ, lá thư của tôi đã biến mất trong ống tay áo thụng, như thể ông đã lén lút làm việc này nhiều lần.

Ông thản nhiên chờ tôi trả lời. Tôi nói thật. “Sự thông thái,” tôi khẽ đáp. “Con cần sự thông thái hơn mức con có.”

Tôi cảm nhận được sự đồng tình trong giọng ông khi ông ngâm lời chúc phúc. Gai đâm vào nhanh và sâu; tôi ngờ rằng vị tu sĩ già đã bối rối, vì vết đâm sâu hơn thường lệ. Nó nhoi nhói khi chúng tôi giơ ngón tay trên khám thờ, một giọt máu lớn rơi xuống. Nó kêu xèo xèo và xỉn nâu khi chạm vào đá nóng. Một giọt nhỏ hơn lập tức rơi theo.

Nicandro kéo tay tôi lại và cười xin lỗi. Tôi cười đáp, mừng vì được rời khỏi nơi đây chỉ với một vết gai châm quá sâu mà thôi.

Tôi lùi vào góc để rửa ngón tay và băng lại, và người hầu gái cao cao thế chỗ tôi. Tim tôi đập rộn vì chuyện vừa làm. Tôi cầu cho Ximena không thấy vụ trao đổi, và rằng cha Nicandro sẽ sớm đọc thư. Gặp con đêm nay. Lúc một giờ sáng, cạnh khu văn kiện cổ.

Sau các buổi lễ, tôi mệt mỏi và ngủ một giấc sâu. Tôi cần ngủ thêm để có thể tỉnh táo sau khi Ximena về buồng. Giống như tôi, tối nào bà cũng đọc Scriptura Sancta, và có thể phải vài giờ bà mới thổi tắt nến đi ngủ.

Tôi tỉnh dậy khi nghe thấy tiếng gõ cửa. Ximena ngừng khâu – bà đang làm một chiếc váy rộng và áo cánh cho tôi từ những loại vải vóc sẵn có – và ra cửa.

Bà mở cửa he hé, nhưng tôi nghe có giọng nam giới. “Công chúa đang ngủ,” Ximena nói.

“Ai đó?” Tôi hỏi nhỏ.

“Đợi một lát,” bà nói với vị khách, rồi quay sang tôi. “Là tướng quân Luz-Manuel. Lại đến.”

Tôi nói không phát ra tiếng. “Con không thể đuổi ông ấy những hai lần.” Tôi mừng vì hôm nay Cosmé nghỉ và sẽ không ở đây nghe trộm trong lúc tôi tiếp vị tướng. Tôi rời giường, Ximena ném cho tôi chiếc áo choàng ngủ. Tôi quàng quanh vai và buộc lại tại cổ.

Ximena đảo mắt tỏ ý không hiểu lí do ông ta xuất hiện, rồi mở cửa. “Xin mời tướng quân vào.”

Ông ta vội vã bước vào, như sợ tôi đổi ý. Ông ta gầy và lưng còng, đỉnh đầu hói trọi, cũng để ria mép tỉa gọn như huân tước Hector và những người lính ngự lâm quân khác.

Nghĩ đến huân tước Hector khiến tôi mỉm cười. Tôi sẽ rất vui được gặp lại anh, một trong số ít người thực lòng tốt với tôi kể từ khi tôi tới đây.

“Chào công chúa.” Ông ta gập người cúi chào.

“Chào tướng quân Luz-Manuel. Ta xin lỗi vì không chuẩn bị chu đáo hơn để tiếp khách.”

Ông ta vẫy tay tỏ ý tôi không cần xin lỗi. “Công chúa hay thấy mệt ạ?” Mắt ông ta tràn ngập sự quan tâm.

“Ta luôn thấy mệt mỏi sau các buổi lễ thánh,” tôi đều đều đáp. “Ông không thấy những buổi lễ bí tích đau thương thường khiến chúng ta kiệt quệ cảm xúc sao?”

Ông ta chỉ nhún vai. “Tôi đến đây là bởi…” Ông ta nhìn sàn nhà. “Mọi người bỏ phiếu quyết định tôi tới mời công chúa, ờ, một cách chính thức, đến dự buổi họp Ngũ Trưởng lão tiếp đây.”

Ngũ Trưởng lão của Joya d’Arena. Hội đồng của Alejandro, gồm những quan chức và quý tộc chóp bu. Đến đó tôi phải cẩn trọng, ít nhất là không để họ dắt mũi tôi trong thời gian chàng vắng mặt.

“Tất nhiên, ta rất mừng được tham dự. Nhưng ta không chắc có thể giúp được gì.”

Ông ta hắng giọng. Có lẽ ông ta bực vì mình chỉ là kẻ chạy việc, hoặc giả không tán thành với quyết định của Hội đồng Trưởng lão, cho phép một đứa nhóc xuất hiện trong buổi họp. “Chúng tôi đang chuẩn bị cho cuộc chiến với Invierne.” Cũng giống như chị tôi đã viết trong thư, ông ta coi cuộc chiến như một việc tất yếu sẽ đến. “Chúng tôi muốn buổi thảo luận tới sẽ có đại diện của Orovalle.”

Hiểu rồi. Nếu người Joya chưa biết về cuộc hôn nhân giữa tôi và Alejandro, vậy có lẽ họ cũng chưa biết cha tôi đã đồng ý viện binh. Nhưng Alejandro đã cho tôi biêt trước, nên tôi biết mình phải nhập cuộc thôi.

“Buổi họp tiếp theo là khi nào?”

“Tròn một tuần nữa tính từ hôm qua, ngay sau bữa trưa.”

Tôi nở nụ cười tự tin nhất. “Ta sẽ có mặt.”

Ông ta vừa đi, Ximena đã dừng tay khâu vá ngước lên. Tôi vẫn luôn ngạc nhiên trước khả năng biến mình thành như vô hình trước mắt quan khách của bà. Họ luôn ngu ngốc mà quên mất sự hiện diện của bà vú, vì bà chẳng bỏ qua điều gì.

“Cẩn thận với Ngũ Trưởng lão đó, bầu trời của vú. Nghe đồn họ thủ đoạn đến độ có thể xoay cả Juana-Alodia như chong chóng vậy.”

Tôi lườm bà. Đến bà cũng so sánh tôi với chị mình. “Con sẽ lo được,” tôi gắt.

“Vú không nói con không thể. Nhưng hãy cẩn thận. Hãy thông minh hơn Alodia.”

Tôi nhìn ga giường, thấy hối hận vì đã nghi ngờ bà. “Con sẽ cố.”

Ximena thức muộn để may cho xong chiếc váy của tôi. Tôi đọc Scriptura Sancta, nhưng kể cả những chương đoạn hấp dẫn nhất với tôi hôm nay cũng trở nên nhạt nhẽo. Tôi liên tục liếc nhìn bà vú. Bực bội và cảm động chiến đấu với nhau trong lúc tôi quan sát bà khòm lưng may cái váy dài trong đêm, đánh vật với những chiếc cúc và lụa viền ren. Bà vất vả vì tôi, vậy mà hôm nay, tôi sắp phản bội bà.

Cuối cùng, bà cũng thu đồ may lại và đứng dậy, ngáp dài. “Xin lỗi nhé, bầu trời của vú, nhưng vú chẳng nhìn rõ đường khâu nữa rồi. Để mai vú làm nốt cho con.”

Tôi ghi khắc gương mặt bà vào đầu, đôi má tròn trịa, nếp nhăn lo âu ở hai bên thái dương. Tôi ước giá như mình có nhiều thời gian bên Aneaxi hơn, ước gì tôi biết trước chuyện tương lai để ghi nhớ gương mặt bà. Đến giờ, đôi mắt biết cười của bà đã phai nét trong tâm trí tôi, và tôi không thể nhớ bà cao bằng hay hơn tôi nữa. “Cảm ơn vú, Ximena. Chiếc váy rất đẹp.”

Bà cúi xuống hôn trán tôi. “Ngủ ngon nhé, Elisa của vú.”

Mừng làm sao, ánh sáng từ buồng ngủ của bà lọt qua buồng trung gần như tắt ngay tức thì, và tôi nằm mở to mắt trong màn đêm.

Tôi chờ đợi.

Mắt tôi trĩu xuống, nhưng nỗi lo lắng khiến tôi tỉnh táo. Tôi không dám châm nến đọc. Được một lúc, tôi rời giường, xỏ đôi dép lê và lặng lẽ rời phòng.

Tiếng chuông tu viện, xa xôi nhưng trong trẻo, vang qua ban công lúc nửa đêm. Nhưng tôi vẫn chờ đợi, lắng nghe xem có âm thanh gì từ buồng của Ximena không. Cuối cùng, tôi khoác chiếc áo choàng dài và lẻn ra hành lang.

Hành lang sáng và im ắng. Những ngọn đuốc cách nhau từng quãng hắt quầng sáng kì lạ trên đá sa thạch lấp lánh, và tôi suýt bật cười, vì lâu đài xấu xí của Alejandro lại khá đẹp vào buổi đêm. Tôi sợ bị người khác trông thấy. Dáng người tôi dễ nhận, và chỉ cần một ánh mắt thoáng liếc qua thôi chắc cũng khiến tôi chạy biến.

Tôi tự trách mình vì thói nhút nhát. Tôi được quyền đi lại trong hành lang lúc tối muộn như bất cứ ai. Kiếm cớ đâu có khó. Nhưng, bắp đùi tôi vẫn tê rần vì phải bước thật nhẹ, và khi tới được cánh cửa gỗ của tu viện, hàm tôi đau vì tôi nghiến răng suốt.

Tôi vội vào trong và nhón chân tới thư viện, đợi cha Nicandro. Ánh trăng chiếu qua các ô cửa sổ dài vừa đủ cho tôi tìm đường tới khu lưu trữ những văn kiện cổ nhất. Tôi ngồi lên một chiếc ghế đẩu.

Tôi không phải đợi lâu. Ánh nến thông báo ông đã tới. Tôi giật mình ngước lên, ngạc nhiên vì ông xuất hiện âm thầm đến vậy.

“Công chúa,” ông thì thào. “Con dùng buổi lễ linh thiêng nhất của chúng ta để gọi cha tới đây. Chắc con phải có nguyên do chứ?”

Vai tôi xụi lơ. “Con xin lỗi, thưa cha. Con nghĩ vậy là tốt nhất, nhưng…” Tôi nhún vai, không dám nhìn thẳng vào mặt ông.

Ông ngồi xuống cạnh tôi, đặt giá nến lên cái bàn ở giữa. Trong ánh nến chập chờn, tôi thấy các cuộn văn kiện cổ trên giá, những chồng giấy da dê được sắp xẵn để chuẩn bị chép ra, mấy cái tủ gỗ chứa những văn thư cổ nhất, không thể chịu nổi ánh sáng nhất, và tôi nhận ra mình đang buộc ông phải vi phạm một nguyên tắc khác của người tu sĩ. “Con rất xin lỗi.” Tôi ngại ngùng chỉ ngọn nến. “Con không nghĩ kĩ. Con biết không nên mang nến vào phòng sao chép.” Hồi ở nhà, phòng sao chép chỉ có ánh nắng, vì người ta dễ đánh đổ đèn hay nến sau nhiều giờ sao chép. Cổ tôi đỏ rần vì xấu hổ.

“Elisa. Sao vậy? Sao con muốn bí mật gặp cha?”

Tôi ngước lên, và đôi mắt ông ngập tràn sự quan tâm khiến tôi buột miệng. “Con cần cha giúp. Con cần biết về Thánh thạch.”

Một nụ cười xuất hiện trên gương mặt ông. “Cha biết ngay mà. Cha sẽ giúp con hết sức.”

Tôi nhẹ nhõm hết nỗi, thật khó để giữ cho môi dưới không run. “Thật sao?” Cảm giác có người giúp đỡ mình mới tuyệt vời làm sao.

“Thật. Nếu con được sinh ra tại Brisadulce này, cha sẽ lãnh trách nhiệm hướng dẫn con trong mọi chuyện liên quan tới Thánh thạch. Thế nên chúng ta sẽ vừa bàn kĩ vấn đề này vừa để mắt tới cây nến vậy.” Giọng ông mang chút trêu chọc. “Giờ nói cha nghe xem, con muốn biết gì nào?” Dưới ánh nến, ánh mắt ông dữ dội hơn bao giờ hết, và mũi ông cũng nhọn hơn. Tôi ấm lòng trước sự nhiệt thành của ông, thật giống người thầy cũ của tôi.

Tôi hít thật sâu. “Con đã thuộc lòng mọi chương đoạn trong Scriptura Sancta nói về Thánh thạch và người mang nó. Vậy con biết cứ trăm năm một lần, Chúa sẽ chọn một đứa trẻ phụng sự Ngài.” Tôi nhận ra những ngón tay theo thói quen đã di chuyển tới viên đá nơi rốn. “Con biết Chúa đặt nó lên người con vào ngày lễ đặt tên. Con cảm nhận được nó sống trong con, đập rộn như trái tim thứ hai. Đôi lúc nó đáp lại một số chuyện, những chuyện con không phải lúc nào cũng hiểu. Chủ yếu nó đáp lại những lời cầu nguyện của con.”

Ông gật đầu đồng tình. “Còn lịch sử Thánh thạch? Con biết gì nào?”

“Chỉ có mỗi chuyện là ngoài con ra, chỉ còn một người nữa mang Thánh thạch tại Orovalle. Chuyện đã bốn thế kỉ trước, ngay sau khi thung lũng quê hương con có người khai khẩn. Còn những người khác đều xuất thân từ Joya.”

“Con biết gì về bản chất của việc phụng sự?”

Tôi nhún vai. “Chỉ là một chuyện lớn, tuyệt vời, và…” Tôi dùng tay phác một cử chỉ tỏ ý giải thích một khái niệm quá lớn lao, nhưng vẫn mơ hồ trong tâm trí. “Chắc con không biết gì nhiều. Con lớn lên nghe người ta nói về định mệnh của mình. Người ta hình như nghĩ con sẽ thành… người hùng.” Tôi cảm thấy sắc hồng lan đến má. Nghe thật lố lắng, và tôi len lén liếc mắt trong bóng tối, chờ đợi đôi mắt sắc sảo kia sẽ chế nhạo mình.

Nhưng trong này quá tối. “Và người đầu tiên mang Thánh thạch tại Orovalle. Con biết người này đã làm gì chứ?”

“Tất nhiên ạ. Đó là Hitzedar cung thủ. Cha con được đặt tên theo tên ông ấy. Trong cuộc đụng độ đầu tiên giữa đất nước con và Invierne, anh ta hạ gục ba mươi tư tên địch, bao gồm cả gã người thú chỉ huy đám quân xâm lăng. Khi đó anh ta…” Tôi nhìn tay mình, “…mười sáu tuổi.”

Ông trầm ngâm im lặng một hồi. “Con đã đọc Afflatus của Homer chưa?

Vẻ ngơ ngác của tôi đã trả lời ông.

Cha Nicandro thở dài thườn thượt. “Đúng như ta e sợ.”

“E sợ? Cha sợ gì? Afflatus của Homer là sao?”

“Homer là người đầu tiên sở hữu Thánh thạch. Theo truyền thuyết, ông ta thuộc thế hệ đầu tiên được sinh ra tại tân thế giới.”

Tôi chưa từng nghe đến Homer. Sao tôi lại bị lừa phỉnh không biết đến nhân vật quan trọng như người đầu tiên mang Thánh thạch chứ? “Còn Afflatus?” Thánh thạch ấm lên khi nghe tới từ đó.

“Đó chính là sự phụng sự của ông ấy. Linh hồn Chúa đã nhập vào ông ấy và ông ấy viết Afflatus, một tập hợp những lời sấm truyền, trong đó có cả về Thánh thạch.”

Tôi lạnh cóng tay, và thở dốc. Thánh thạch tỏa sức nóng quá mức làm bụng dạ tôi nôn nao. “Sấm truyền,” tôi lẩm bẩm. “Một thánh thư. Con không hề biết. Con chưa từng…” Tôi đứng dậy khỏi ghế. “Người Orovalle. Họ không hề biết về nó.” Tôi đi tới đi lui trước giá sách.

“Công chúa…”

“Họ phải biết chứ. Cha có cuốn đó không? Con sẽ bảo Ximena sao ra một bản cho tu viện Amalur. Thầy Geraldo sẽ muốn thấy…”

“Elisa!”

Tôi ngước lên, giật mình trước sự sắc lạnh trong giọng ông.

“Công chúa,” ông nói, giờ dịu lại. “Họ vốn đã biết rồi.”

Tôi mất một lúc mới thấm thía lời ông. Khi ấy, cảm giác đau đớn như phải bỏng thiêu đốt ngực tôi. “Chính xác là ai đã biết?” Tôi nghĩ mình biết đáp án, nhưng tôi vẫn cần ông nói ra.

“Tất cả.” Môi ông mím chặt lại trước khi cất tiếng, “Cha rất tiếc, công chúa. Mọi người đều biết, trừ con.”