• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lửa biên thùy
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 40
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 40
  • Sau

Chương 9

T

ôi đột nhiên hiểu rõ đời mình. Tiếng xì xào bàn tán mỗi khi tôi bước vào một căn phòng. Ánh mắt trao đổi giữa thầy và chị tôi. Người ta che miệng thì thầm bảo nhau. Những lời nói vô vị trấn an từ những gương mặt lo lắng đằng sau. Tôi nghĩ đó là vì thế giới thất vọng với tôi, vì tôi không giống chị mình. Vì tôi béo.

Cảm giác thật đáng sợ, giống như sâu mọt đục ruỗng người tôi này thật nực cười. Tôi là một học sinh giỏi; nhận ra các chi tiết, giải được các câu đố logic, ghi nhớ thông tin. Đó là điều duy nhất tôi luôn lấy làm tự hào.

Nhưng sao tôi bị lừa dễ dàng đến vậy? Tôi là một đứa trẻ ngu ngốc, quá đỗi ngu ngốc.

“Công chúa?” Giọng ông cẩn trọng, lo lắng.

“Vì sao?” Tôi thì thào. “Vì sao lại giấu con?”

“Ngồi đi.” Ông chỉ cái ghế đẩu.”Con chứ đi đi lại lại làm lão già đây chóng mặt quá.” Ông liếc nhìn ngọn nến khi tôi làm theo, rồi vui vẻ bảo. “Có lẽ chúng ta cần thêm cây nữa.”

Tôi không hưởng ứng sự vui vẻ của ông. “Cho con biết đi.”

Ông nhoài ra bàn. “Khi người Tân giáo rời Joya đến lập cư tại Orovalle, họ có một mục đích vô cùng quan trọng.”

Tôi đã biết điều này. “Để phụng sự Chúa.”

Ông gật đầu. “Họ tin – và vẫn tin – rằng khát vọng lớn nhất của con người phải là nghiên cứu các thánh thư, rằng thế giới ngày càng vô thần này đang quên đi những sự thật thiêng liêng đang chờ được tái khám phá. Khát vọng lớn thứ hai của con người là…”

“Phụng sự.”

Ông gật đầu. “Đúng, phụng sự. Vậy họ bỏ xứ ra đi, và vài năm sau, khi người mang Thánh thạch tiếp theo xuất hiện tại Orovalle, họ cho đó là tín hiệu ủng hộ của Chúa.”

“Vậy thì liên quan gì đến Afflatus của Homer?”

“Kiên nhẫn nào. Cha cho rằng hoàng gia vẫn theo Tân giáo chứ?”

“Đương nhiên ạ.” Đó luôn là niềm tự hào rằng tổ tiên tôi không sợ tìm kiếm sự thật.

“Và mọi việc khởi sự tốt đẹp. Người ta trở lại tìm con đường của Chúa. Và tôn giáo mới cứ thế lớn dần, giành nhiều thành tựu, và … khác đi.”

Dù giận chị, giận thầy Geraldo, và nhất là giận Ximena, vì đã giấu diếm tôi, nhưng tôi không dám chắc mình sẵn sàng nghe rằng đức tin của tôi bị sai lệch. “Giải thích đi ạ.” Sự cảnh cáo trong giọng tôi không nhầm lẫn được.

“Họ nghiên cứu. Ừ, họ nghiên cứu. Đó trở thành niềm kiêu hãnh – họ hiểu các thánh thư hơn bất cứ dân tộc nào, và họ biết vậy. Một nỗi ám ảnh văn hóa được hình thành, dựa trên việc nghiên cứu thánh thư đó. Họ tìm ra những sự thật được… che giấu khỏi con mắt trần tục.”

Tôi nhanh chóng phản đối. “Điều này cực kì dễ hiểu. Sẽ dễ dàng hiểu Scriptura Sancta hay Nhập môn phụng sự Chúa hơn nếu nghiên cứu sâu. Như Scriptura Sancta viết, “Học nhiều sẽ hiểu rộng.”

“Đúng,” ông đồng tình với một nụ cười bao dung. “Nhưng nó cũng nói, ‘Trí tuệ của Chúa là bí ẩn và không ai có thể hiểu.’ Con thấy đó, họ đã đi quá xa. Họ từ bỏ việc đọc và hiểu theo lẽ thường, mà cứ thích tìm kiếm những điều ẩn giấu, cao siêu. Sự thật quý giá bị khuất lấp bởi thái độ hợm hĩnh và cậy mình giỏi.”

“Cha thử ví dụ xem.”

Ông đứng dậy và khuất dưới bóng tối của các giá sách. Tôi nghe ông lục các cuộn giấy da, lẩm bẩm một mình, rồi tiếng bước chân ông trở lại. Theo cùng ông là cái mùi da thuộc mốc meo của những bí mật bị vùi sâu chôn chặt.

“Đây,” ông tuyên bố, và thả cuộn giấy lên bàn, “là Afflatus của Homer.” Mép giấy cổ cong lại thành ống quyển; Nicandro dùng cẳng tay chặn chúng xuống. Bằng tay còn lại, ông chỉ đoạn ở giữa. “Đây, con đọc đi.”

Ánh nến tù mù, nội dung đã mờ, còn tôi thì quá mệt. Tôi day mắt và cúi sát hơn.

Và Chúa tìm cho mình một người hùng. Đúng, cứ bốn thế hệ một lần, Ngài tìm cho mình một người mang Dấu Ấn.

(Người hùng không được sợ hãi.)

Nhưng thế giới không biết người đó và giá trị của người đó bị giấu đi mất; như sa mạc che giấu ốc đảo Barea. Nhiều kẻ đi tìm người hùng, xuất phát từ những ý định xấu xa.

(Người hùng không được nao núng.)

Người đó không thể biết điều gì đang chờ đợi nơi cánh cổng của kẻ thù, và người đó được đưa đi, như con lợn bị đưa tới lò mổ, vào vương quốc ma thuật. Nhưng bàn tay phải chân chính của Chúa thật giàu quyền năng.

(Lòng nhân từ của Ngài phủ khắp con dân.)

Tôi ngồi ngả ra và ngẫm nghĩ. Trái tim tôi biết đoạn văn này nói đúng; Thánh thạch rung nhè nhẹ đáp lại. Nhưng tôi đang đón nhận thêm một điều mới mẻ nữa, và tôi để nó từ từ ngấm vào đầu óc. Vương quốc ma thuật. Cánh cổng của kẻ thù.

“Sao gia đình Tân giáo của con lại không cho con biết đến nó?”

Cha Nicandro nhoài người tới và mỉm cười. Như mọi thầy giáo giỏi, ông thích giây phút sự thật hiển lộ, khi ánh sáng thông thái chiếu tỏ học trò. “Tất cả chỉ vì từ này.” Ông chỉ đoạn văn đó và đọc, Người đó không thể biết điều gì đang chờ đợi nơi cánh cổng của kẻ thù… ‘Không thể’. Chỉ một từ nho nhỏ thôi. Nếu đọc bình thường, ta sẽ hiểu là người hùng không biết, dù vì nguyên nhân gì đi chăng nữa, nguy hiểm đang chờ đợi mình.”

Tôi gật đầu. Tôi cũng hiểu như vậy.

“Nhưng!” Ông vẫy một ngón tay trước mắt tôi. “Lại có một đoạn khác. ‘Người phụng sự không được đánh mất sự trong sáng trong ý định của mình.”

Tôi nhớ những lời đó. Chúng nằm trong Nhập môn phụng sự Chúa. Một câu Ximena thích trích dẫn.

“Hai ý nghĩa khác nhau,” ông nói tiếp. “‘Không thể’ và ‘không được.’ Nhưng trong ngôn ngữ gốc, chúng chỉ là một: ‘Né puder.’ Tổ tiên của chúng ta, không rõ vì lí do gì, lại dịch chúng khác đi. Tân giáo tin rằng ví dụ trước bị dịch sai. Chỗ ‘Người đó không thể biết điều gì đang chờ đợi’ phải là ‘Người đó không được biết điều gì đang chờ đợi.’

“Vì vậy họ tin rằng người mang Thánh thạch không được biết về nguy hiểm. Đó trở thành một niềm tin, chứ không còn là một câu nói đơn thuần nữa.”

“Chính xác.”

“Vậy nên người ta giấu con.”

“Đúng.”

“Chỉ vì một từ.”

Ông nhún vai. “Họ còn lấy những chương đoạn khác để củng cố nhận định của mình, nhưng chủ yếu là cái này.”

“Thế những người mang Thánh thạch khác, những người Joya ấy, họ có biết không?”

“Biết chứ. Chỉ trừ con và Hitzedar cung thủ là không may may hay biết thôi.”

Tôi áp mặt vào tay, cố hiểu mọi sự. Cha Nicandro chưa trả lời tất cả, nhưng tôi quá mệt không thể nhớ thêm nữa rồi. Tôi lo lắng rằng rồi đây, Ximena sẽ làm gì khi biết tôi đã biết về Afflatus của Homer. Có lẽ không kể cho bà là hay nhất. Và nếu Tân giáo đúng thì sao? Nếu tôi không được biết chút gì thì sao?

“Cha.” Tôi ghét giọng mình run run, nhưng không đừng được. “Điều gì chờ đợi con ở cánh cổng của kẻ thù?”

“Con gái thân yêu, cái đó thì cha không nói được. Không ai biết. Chúng ta chỉ biết có những hiểm nguy lớn lao đang chờ đợi người mang Thánh thạch.”

“Nhưng con sẽ vượt qua tất cả, phải không? Vì trong đây nói, Bàn tay phải chân chính của Chúa thật giàu quyền năng.”

“Một lần nữa, cha không biết. Cha không muốn làm con hoảng, nhưng cha lo về những gì không được viết trong đây hơn. Nó không nói người hùng sẽ chiến thắng.” Ông đưa tay lên bàn và lật tờ giấy lại. “Nhìn đi.”

Đó là danh sách những cái tên kèm theo ngày tháng. Mỗi cái tên cách nhau một trăm năm, với vài khoảng trống lớn ở giữa. Về phía cuối, tôi thấy tên mình.Lucero-Elisa de Riqueza. Nó mới được bổ sung, vì mực đen hơn và con chữ chưa ăn vào giấy. Tôi nhìn đắm đuối. Homer ở đầu danh sách. Hitzedar cung thủ chỉ trên tôi một chút.

Những người mang Thánh thạch trước tôi. Tên thật, những con người thật.

“Có những khoảng trống.” Tôi thắc mắc nhìn Nicandro.

“Đúng. Bản ghi chép không hoàn thiện. Hoặc là chúng ta mất tư liệu lịch sử, hoặc chúng ta không hề biết đến một số người mang Thánh thạch.”

Một suy nghĩ thật đáng giật mình. “Sao có thể?”

Ông nhún vai. “Có lẽ họ sống xa tu viện, được nuôi dạy theo một tôn giáo khác, không hề biết đến định mệnh của mình. Có lẽ họ chết – hoặc bị giết – trước khi kịp phụng sự xong xuôi. Ai mà biết được chứ?”

“Vậy là có khả năng.” Nỗi sợ hãi lớn nhất của tôi đã xuất hiện. Định mệnh là thứ quá dễ thay đổi, không thể đảm bảo chỉ bằng một viên đá. “Người mang Thánh thạch có thể chết trước khi phụng sự xong.”

“Đúng. Những cái tên này” – ông vẫy tay chỉ phần trên danh sách – “chưa đầy một nửa hoàn thành phụng sự. Và hầu hết đều chết trẻ. Và chết đau đớn. Như Hitzeder cung thủ, chết vì mũi tên bắn xuyên tim.”

Thật không phải ví dụ hay.

Mắt tôi cay sè, đau vì lo lắng và vì kìm lệ. Tôi cấu cấu sống mũi và nói, “Sao cha cho con biết những chuyện này? Bà vú… bà ấy… là…”

“Hộ vệ của con. Ximena dám bỏ mạng vì con.”

“Bà ấy là bà vú của con.” Bà còn hơn thế, tất nhiên, nhưng tôi đang mệt mỏi và giận dỗi.

“Một hộ vệ được tu viện gần nhất lựa chọn để chăm nom cho người mang Thánh thạch. Ở Orovalle, ta chắc chắn nhiệm vụ của bà ấy bao gồm cả giấu không cho con biết về những lời sấm truyền. Thực ra –“ Ông nhìn vào bóng tối. “Cha không muốn bà ấy biết đến cuộc trò chuyện đêm nay. Là đại tu sĩ tu viện Brisadulce, nhiệm vụ của cha là hướng dẫn con, chuẩn bị cho con trong khả năng có thể. Nhưng tín đồ Tân giáo lại nhìn nhận mọi chuyện rất khác.”

Bà ấy không đơn giản là chăm nom tôi thôi đâu. “Bà ấy từng giết người. Vì hắn biết con mang Thánh thạch.” Tôi quan sát kĩ xem thái độ ông ra sao, nhưng gương mặt xương xẩu của ông vẫn bình thản. “Bằng một cây trâm,” tôi bổ sung, và hài lòng với lời nói đế thêm này.

“Ximena là một người phụ nữ đáng nể.” Giọng ông chứa sự tôn trọng xen lẫn sợ hãi.

Ông thật tốt khi chịu gặp tôi lúc đêm tôi và chỉ dạy tôi dù biết tính mạng có thể bị đe dọa. Tôi nắm tay ông. “Bà vú của con sẽ không hề hay biết về cuộc gặp này.”

Ông bóp tay tôi, vừa trấn an tôi vừa là để an ủi mình. Dù đêm tối, nhưng tôi ấm lòng vì biết mình có một người bạn.

“Chúa luôn lựa chọn đúng đắn, con ạ. Cha sẽ giúp con trong khả năng của mình.”

Tôi hít một hơi để trấn áp nỗi sợ trong lồng ngực. “Nếu Ngài chọn đúng, vậy vì sao lại có bao nhiêu người mang Thánh thạch thất bại? Sao đôi lúc Ngài không nghe lời cầu nguyện của con?”

“Cha không biết nữa, Elisa. Chúng ta không hiểu rất nhiều điều về Thánh thạch và người sở hữu nó. Nhưng Chúa lại biết. Ngài biết nhiều hơn chúng ta có thể tưởng tượng.”

Những lời của Aneaxi, trước khi Chúa để bà từ giã cõi đời. Dù tôi kiềm chế không để mình đảo mắt hồ nghi, nhưng không thể kiểm soát đôi môi mình. Ngài sẽ tin tôi có khả năng nếu biết những nghi ngờ luôn lẩn khuất trong tâm trí của tôi chứ?

Cái ghế kêu cọt kẹt khi tôi đứng dậy. “Cảm ơn Cha. Con còn nhiều thắc mắc, nhưng con đã mệt và con… con cần suy nghĩ một chút.”

Ông đứng lên và giữ cẳng tay tôi. “Trước khi con đi, cha có thứ này cho con.”

Khi ông lại biến mất trong bóng tối, tôi vươn vai ngáp dài. Tôi hi vọng là một bản Afflatus của Homer. Tôi rất muốn được tự nghiên cứu. Dĩ nhiên Ximena không được biết tôi có nó, và trong lúc chờ đợi, đầu óc tôi đang tính toán không biết bao nhiêu chỗ cất giấu.

Ông đi một lúc lâu. Tôi nghe tiếng giấy da xột xoạt, tiếng khóa lách cách, và tiếng cọt kẹt. Rồi ông trở vào trong vùng ánh nến chiếu tỏ, cầm theo một cái túi da to cỡ nắm đấm có dải rút dài đeo lủng lẳng giữa các ngón tay ông.

Không phải Afflatus. Tôi cố giấu vẻ thất vọng. “Gì vậy ạ?”

Ông mở túi. Ba vật nho nhỏ, lấp lánh rơi xuống bàn. Tôi nhìn kĩ hơn. Chúng là những viên đá quý bằng cỡ móng tay cái, khá xỉn màu trong bóng tối, nhưng vẫn phản chiếu được ánh nến. Màu xanh sẫm. Rất quen mắt. Tôi cầm một viên lên; nó lạnh và cứng trong lòng bàn tay tôi.

“Thánh thạch đấy,” cha Nicandro bảo.

Tôi hít một hơi. Nằm ngoài cơ thể, nó trông thật khác, nặng và không sức sống.

“Tu viện này đã chăm lo cho ba người mang Thánh thạch. Khi họ qua đời, Thánh thạch rời ra. Viên này” – ông chỉ viên trên bàn – “đã hai trăm năm tuổi.”

Cảm giác nắm giữ lịch sử của mình trong tay thật lạ. Và khi viên đá nơi rốn tỏa hơi ấm dễ chịu trái ngược với thứ lạnh ngắt trong lòng bàn tay tôi, tôi nhận ra đó cũng là tương lai của mình. Cái chết của mình.

Tôi bỏ nó xuống cạnh hai viên kia và lau tay vào áo choàng.

Nicandro thu chúng vào cái túi da và rút chặt dây. “Không ai trừ người mang Thánh thạch có thể sử dụng quyền năng của nó. Cha không biết còn chút sức mạnh nào trong những viên đá cũ này không, nhưng biết đâu chúng lại giúp được cho con.” Ông nhún vai, và giao cho tôi.

Tôi chưa sẵn sàng nhận. “Và nếu con chết? Trước khi phụng sự xong thì sao?”

“Vậy cha sẽ lấy lại chúng. Cùng với viên đá của con.”

Sự thẳng thắn của ông khiến tôi cầm cái túi nhỏ. Tính nói thẳng của ông làm tôi sợ, nhưng cũng khiến tôi cảm thấy mình có thể tin ông. Tôi nhét nó vào túi áo choàng.

“Hôm nay cha có thể làm gì cho con nữa không, công chúa?”

Đúng lúc đó bụng tôi sôi lên, và tôi nhăn nhó, xấu hổ.

Ông cười. “Các tu sĩ chúng ta sinh hoạt giờ giấc cũng lạ, và bếp không bao giờ tắt lửa.”

Vậy là với hai cái bánh lựu – một trong túi, một cầm tay – tôi lẻn về phòng. Đầu tôi đau vì những kiến thức mới khi bước đi trên hành lang yên lặng sáng ánh đuốc, và nhấm nháp từng miếng bánh: Afflatus của Homer, những người mang Thánh thạch đã thất bại trước tôi, người hộ vệ trong vai bà vú.

Cánh cổng của kẻ thù.

Tôi đến gặp vị tu sĩ nhằm tìm một ưu thế, gì đó có thể giúp tôi chơi trò chơi quyền lực tại Joya d’Arena này, và khiến tôi quan trọng với Alejandro. Thay vào đó, con đường tương lai của tôi lại tối tăm hơn bao giờ hết.

Như con lợn bị đưa tới lò mổ.

Giờ, tôi chỉ cần sống sót.

Tôi ngoặt ở góc dẫn về phòng và dừng sựng lại, vừa may không bôi vụn bánh vào cái áo choàng vải bông đã sờn trước mắt.

“Elisa!” Ximena ôm chầm tôi, và tôi đành bôi nhoe nhoét vụn bánh lên áo bà. Bà giữ vai tôi và đẩy tôi lùi ra một chút. “Con đã đi đâu vậy?” Giọng bà gay gắt vì sợ và giận.

Tôi giơ cái bánh ăn dở. “Con đói.”

“Ôi, Elisa. Bầu trời của vú. Vú tỉnh dậy định cố khâu nốt cái váy, và vú vào buồng trung nhưng lại không nghe tiếng con thở và…” Bà thở dài thườn thượt. “Con phải đánh thức vú chứ, rồi vú sẽ đi cùng con.”

Người hộ vệ của tôi.

Tôi biết bà có nhiệm vụ coi chừng tôi, rằng lòng nhiệt thành của bà được hun đúc từ sự sùng đạo suốt bao thế kỉ mà tôi chỉ vừa mới hiểu. Nhưng cái cách đôi mắt bà lo lắng nhìn gương mặt tôi, và cách tay bà vuốt ve cánh tay tôi với sự an lòng lại cho thấy một niềm cảm xúc sâu sắc hơn.

Bà vú của tôi.

“Con xin lỗi.” Tôi cho tay vào túi lấy chiếc bánh thứ hai, và ngón tay tôi vuốt qua cái túi da. Nó có vẻ to và nặng, nên tôi lo Ximena sẽ trông thấy. “Con… ờ… mang bánh về cho vú này.”

Bà cầm lấy, một nụ cười dịu dàng cong cong trên đôi môi mỏng. “Cảm ơn con.” Bà quay người khoác vai đưa tôi về.

Ximena cao to và khỏe mạnh. Khi chúng tôi đi cùng nhau, tay trong tay, tôi dựa đầu vào vai bà, thấy thật thoải mái khi có bà bên cạnh.

Đêm đó, khi chắc chắn Ximena đã ngủ lại, tôi bèn ra ngoài ban công và chôn những viên Thánh thạch đã chết dưới rễ cây cọ cảnh.