C
osmé phản ứng ngay khi thấy tôi la hét thở không ra hơi bằng cách hất cát vào đống lửa. Cô nhìn khắp hang.
“Đồ của Jacián vẫn ở đây,” cô gắt gỏng. “Giấu nó khi tôi đổ đồ ăn sáng.”
Tôi quỳ xuống và vội vàng vùi lấp, mừng vì có việc để làm.Quả vậy, tôi nghĩ khi hất cát từ mọi phía. Đúng như mình lo sợ. Tôi đào và đào, vừa lầm bầm những lời cầu nguyện vô nghĩa, tới khi thấy tay ươn ướt.
Cosmé quay lại và ném cái túi xuống hố. Chúng tôi cùng nhau lấp lại, rồi Cosmé giậm cho đất bằng phẳng. Có bóng ai đó che kín lối vào.
“Chúng đang trèo lên vách đá,” Humberto bối rối nói. “Chúng biết ta ở đây.”
Gương mặt Cosmé lạnh tanh như đá. Humberto cúi đầu nhìn đất như thể xấu hổ. Kể từ ngày tôi quen biết họ, họ luôn là những con người mạnh mẽ. Và kiên định. Tôi đột nhiên thấy lạc lõng và nhỏ bé.
“Ít nhất Belén an toàn. Và Jacián nữa.” Cosmé nói nhỏ.
An toàn. Đầu tôi bắt đầu tỉnh táo khỏi nỗi sợ hãi. “Không còn đường nào rời hang sao?” Tôi hỏi.
“Không,” Humberto nói.
Tôi không thể nào leo nhanh lên vách đá, và nếu có leo nổi, tôi cũng không thể cắt đuôi kẻ địch trong vùng đồi núi này.
“Hai người có thể trốn thoát không? Ý tôi là, nếu không có tôi ấy.”
Họ chẳng nói gì. Vậy thì đáp án đã rõ.
“Hãy chỉ tôi chỗ trốn kín đáo nhất đi. Để tôi lại với đồ ăn và nước uống, rồi hai người hãy đi khỏi đây.”
Tôi thấy vẻ phản đối trong mắt Humberto, sự chấp nhận trong mắt Cosmé.
“Vài ngày nữa hãy tìm tôi,” tôi nói thêm. “Nếu có thể, tôi sẽ thoát khỏi hang và đi về hướng tây.” Tất nhiên chuyện như vậy chẳng thể xảy ra, nhưng sẽ thuyết phục được Humberto bỏ đi. “Tôi sở hữu Thánh thạch. Nếu ai có cơ may sống sót, người đó phải là tôi. Giờ thì đi đi! Hãy dẫn chúng rời xa nơi này.”
Dù Humberto vẫn do dự, nhưng Cosmé đã kéo tôi đi. “Có một chỗ ở cuối con đường kia,” cô nói trong lúc tôi vội vàng rảo bước theo. “Hơi thụt vào một chút. Nó không thoải mái, nhưng cô sẽ khuất khỏi tầm mắt chúng.”
Chúng đến quá nhanh. Tôi ước cái hang rộng hơn, dễ lạc hơn. Cosmé chỉ cho tôi chỗ ẩn náu. Nó dốc lên thành một loạt những đường vân mấp mô, như một thác nước bằng đá vôi lấp lánh.
“Trèo lên,” Cosmé ra lệnh. “Một khi đã khuất trong bóng tối, cô sẽ thấy một cái hốc bên trái. Bò vào đó hết cỡ có thể.”
Tôi vội vàng trèo lên, dùng cả bốn chi để bò lên đá quá trơn nhẵn. Cosmé ủn tôi lên trước. Cái hốc tối om nằm bên tay trái; tôi không rõ nó sâu bao nhiêu. Tôi vụng về quay người và lủi vào trong, làm đầu gối trầy xước. Đó là một cái hang nằm trong hang, được một khối đá che khuất. Tôi chui sâu hết cỡ, trốn trong vùng tối.
“Giờ ở yên trong đó nhé,” Cosmé nói. “Tôi sẽ mang thức ăn và nước đến.”
Trong này mát hơn, nếu không muốn nói là khá lạnh. Hoặc có thể là do Thánh thạch. Xin hãy cho con được bình an, tôi nói không thành lời. Nền cát khá dễ chịu, nhưng tôi phải so vai rụt cổ và co chặt chân để khuất trong bóng tối.
Humberto thò cổ vào. Anh ném cái túi của tôi vào trong, ngay bên cạnh tôi trên nền cát. “Anh đã bỏ toàn bộ đồ ăn và nước uống vào rồi đó. Còn có cả mực nữa. Chắc em phải bôi bẩn mặt và quần áo sáng màu đấy. Nếu có lũ quét, nước sẽ tràn qua cái hang này. Hãy theo dòng nước trở vào hang chính. Nước ở đó nông hơn.”
Lũ quét ư?
“Humberto!” Đó là giọng Cosmé, giờ xa xăm. “Chị nghe thấy tiếng chúng rồi!”
Mắt anh mở to tràn ngập buồn bã. Anh thấy có lỗi.
“Đi đi, Humberto,” tôi nói khẽ. “Em không muốn có chuyện gì xấu xảy đến với anh.”
“Anh sẽ quay lại tìm em. Dù có chuyện gì đi nữa.”
“Em biết.”
Anh đưa tay, bóp cổ chân tôi. Và rồi anh đi mất, để lại mình tôi trong bóng tối chật hẹp, lạnh giá. Một lát sau, tôi nghe có tiếng hò hét. Quân địch đã thấy bóng họ rời hang và đang đuổi theo. Tôi vừa muốn kẻ thù đuổi theo họ vừa muốn chúng tới tìm tôi, để Humberto và Cosmé có cơ hội thoát nạn.
Tôi ngồi im trong bóng tối, căng tai nghe ngóng. Tiếng la hét nhỏ đi. Có lẽ chúng đã đi xa. Tôi không biết có nên thấy nhẹ lòng không.
Rồi tôi nghe có tiếng bước chân khẽ khàng lướt trên cát.
Tim tôi đập rộn. Tôi sợ đến độ không dám thở. Chắc chắn chúng đã thấy cái hốc này. Chúng sẽ nhòm vào và thấy nơi ẩn náu của tôi. Tôi nghĩ đến mực trong túi, và ước có thời gian bôi đen chân tay và quần áo. Nhưng có lẽ mùi mực sẽ bán đứng tôi mất.
Mùi… Trong hang vẫn sực nức mùi thỏ nướng. Mắt tôi cay sè nước mắt. Humberto, Cosmé và tôi đáng nhẽ lúc này đang cùng nhau ăn sáng. Và rồi tôi nghĩ:Thật là một ý nghĩ kì cục khi sắp bị bắt hoặc bị giết đến nơi rồi.
Tiếng bước chân gần hơn. Những giọng đàn ông đang dùng thứ ngôn ngữ tôi không hiểu.
Nhưng đột nhiên tôi hiểu ra. Nó từa tựa Thánh ngữ, dù cách phát âm giật cục và mang âm yết hầu nhiều hơn. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi sửng sốt đến quên cả sợ. Người Invierne nói Thánh ngữ ư?
“Né hay ninguno iqui,” có kẻ bảo. Không có ai ở đây.
“Lo Chato né sería feliz si alquino nos escapría.” Mèo sẽ không vui nếu có kẻ trốn được khỏi tay chúng ta.
Giọng yết hầu dường như lớn hơn, gần hơn. Phía trước, cách tôi chừng một cánh tay, có một bàn tay đặt lên thác đá vôi, được ánh nắng xiên qua các khe nứt bên trên chiếu sáng. Một bàn tay dày, trắng. Và chằng chịt sẹo.
Cầu Chúa. Hãy làm hắn đi đi.
Tôi đợi sẽ trông thấy một cánh tay. Hoặc một gương mặt trắng tái cũng chưa biết chừng. Tôi nhắm mắt, không dám nhìn. Cuối cùng tôi nghe thấy, “Né vieo nado.” Tôi không thấy gì. Tiếng bước chân xa dần. Tôi cảm nhận rõ sự cô độc của mình, và nó trống rỗng, buồn bã.
Tôi không dám nhúc nhích, sợ đây là một trò lừa, sợ chúng sẽ đứng gác tại cửa hang, chờ tôi xuất đầu lộ diện. Tôi ước giá như mình mang theo lá mộng diệp, để có thể ngủ qua cơn ác mộng này. Rồi vài ngày nữa, tôi tỉnh giấc, một là bị bắt hai là được tự do. Hoặc tôi sẽ chết và không còn mở mắt thêm một lần nào nữa. Nhưng dù có ra sao thì tôi cũng thoát được nỗi hoảng hốt vì chẳng biết chuyện gì sắp tới, không biết kẻ thù có trốn ở một góc không.
Bụng tôi đói meo. Tôi cần thả lỏng. Nhưng tôi không dám nhúc nhích lấy một ngón tay, thậm chí hít thở sâu cũng không được. Lưng dưới tôi đau nhừ cần được giãn gân cốt và vì ôm chân bó gối quá chặt. Nhưng tôi vẫn ngủ được, nhờ hơi ấm từ những lời cầu nguyện chân thành nhất đời mình. Xin Chúa hãy trông chừng Humberto, Cosmé, Jacián và Belén. Hãy để họ trốn thoát. Hãy để họ được sống.
Khi tỉnh dậy, lưng tôi cứng như đá còn bụng rỗng tuếch, cuộn lên từng cơn vì đói. Bóng tối dày đặc bủa vây, vậy nên tôi biết mình đã ngủ ít nhất tới chiều muộn, có lẽ còn dài hơn. Tôi khẽ vươn tay lấy túi và kéo dây rút, ngạc nhiên khi những ngón tay có thể lanh lẹ cởi dây, và tìm thịt bò khô. Miếng thịt – thịt cừu khô được tẩm muối sau đó thêm mật ong – thật ngon lành, dù nó dính vào răng trong lúc tôi xé thịt. Sau đó, tôi uống nước, tự hỏi có nên tiết kiệm không, vì chẳng rõ sẽ còn kẹt trong cái hốc này bao lâu. Tôi lục túi xem Humberto để lại những gì. Một bọc đồ ăn nữa, túi nước thứ hai, một cây nến, một con dao, một bộ đánh lửa. Tôi chưa từng tự đánh lửa, dù đã thấy những người khác làm. Chắc cũng không khó lắm.
Tôi nhét dao vào sau giày, dưới cái xà cạp lông lạc đà. Trước khi quyết định sẽ làm gì, tôi phải giải quyết nỗi buồn đã. Tôi tính đào một cái hố ngay trong cái hang nhỏ này, nhưng như vậy tôi sẽ buộc phải ngồi trên thứ mình thải ra. Giờ tốt nhất nên lẻn xuống và trước sáng lại bò lên.
Từ từ, tôi lẳng lặng đưa chân qua gờ đá, rồi bám vào đó mượn lực kéo chân kia theo. Tôi trượt xuống dốc bằng bụng và thả tay vào giây cuối, thở một tiếng dài thườn thượt nhẹ nhõm khi giày chạm nền cát. Tôi đứng thẳng và nghe ngóng một lát. Chẳng có gì. Tôi liều lĩnh đi vài bước. Vẫn không có âm thanh nào hết.
Tôi không dám đi quá xa, vì không chắc có thể tìm được đường về trong bóng tối. Ngồi xổm giúp giảm áp lực ở bụng một chút. Tôi xúc cát, và thi thoảng ngừng lại nghe ngóng. Rồi tôi ngồi xuống, sờ tìm chỗ lõm, và dùng ngón chân cái đánh dấu điểm sâu nhất trong khi nâng áo choàng và tháo dải rút quần. Tôi cần giải quyết lắm rồi, và suýt không kịp ngồi xổm xuống.
Tôi nghe thấy tiếng nói, rồi tiếng chân.
Không kịp rồi. Tôi kéo quần và trèo vội lên dốc trong lúc nước tiểu âm ấm chảy xuống chân. Đá vôi quá trơn, quá mềm. Tôi trèo được một đoạn, bám vào đá, lờ đi đầu ngón tay trầy xước, nhưng chân bị vướng vào cái quần được nới lỏng và chưa buộc lại. Những giọng nói vang gần hơn. Tôi hoảng hốt, nhưng mỗi lần tay tìm được điểm bám thì chân lại trượt. Nước mắt hoảng loạn chảy tràn xuống mặt tôi. Rồi Thánh thạch lạnh đi, và tôi hoảng hốt hít thở. Đầu ngón tay tôi lạnh băng. Tôi buông tay và trượt xuống. Mông tôi nện xuống nền hang; toàn bộ không khí trong phổi tôi bật ra ngoài trong một tiếng thở mạnh, duy nhất.
Ánh đuốc làm tôi lóa mắt. Những bàn tay chai sần tóm vai tôi. Chúng kéo tôi đứng lên, quay tôi lại. Tôi thấy những gương mặt trắng xanh, những mái tóc bết, những đôi mắt giận dữ.
Một kẻ bực bội quay đi, và chun mũi. Tới đó thì tôi ngửi thấy mùi khai nồng nặc. Trong một khắc ngắn ngủi, tôi xấu hổ đến quên cả sợ. Rồi một kẻ nói, bằng Thánh ngữ, “Đưa nó tới chỗ Mèo.”
Một người đàn ông khỏe mạnh, thấp hơn kề dao vào cổ tôi trong khi đồng bọn xô tôi đi. Tôi nghĩ tới con dao của mình, cắm trong giày, kể cả khi bị đẩy đi giữa đám Invierne. Lần đầu tiên tôi để bản thân nhớ đến tên Perdito bị mình giết, cách dao chạm vào xương, lách giữa các xương sườn như kim đâm vào tấm thảm treo dày dặn. Máu ướt đầm váy tôi đã lạnh đi rất nhanh. Tôi còn dám giết người nữa không?
“Ả không phải chiến binh,” một tên nói. Tất nhiên là hắn đúng. Khi tôi giết gã Perdito nọ, đó gần như là một tai nạn.
“Đồng bọn của mày đâu?” Tên khác hỏi.
Tôi mở miệng định nói, Đồng bọn nào? Nhưng rồi nhớ ra hầu hết dân vùng trung du không dùng Thánh ngữ. Thay vào đó, tôi trả lời bằng tiếng Plebeya, “Tôi không hiểu.”
Cú đấm quá đột ngột, đến độ tôi còn không kịp sợ. Môi tôi bị rách to và đau nhói khi hắn dí mặt đến, mắt lấp lánh ánh đỏ cam dưới ngọn đuốc. “Lũ mọi chúng mày đều bẩn thỉu hết,” hắn nhổ nước bọt. “Còn đái dầm nữa đấy. Và nói thứ ngôn ngữ bẩn thỉu.” Hắn quay sang những kẻ khác. Mắt tôi giờ đã thích nghi với ánh sáng mới, và tôi nhìn thấy năm tên, tất cả đều là đàn ông mặc áo da thô viền lông thú. “Đưa ả xuống vách núi,” hắn ra lệnh. “Nếu ả không đi được, cứ ném xuống.”
Chúng giục tôi đi ra cửa hang và bắt tôi thò chân ra ngoài rìa. Trời quá tối, tôi không biết đặt tay đặt chân vào đâu, nhưng mũi giáo dí vào mặt khiến tôi có can đảm. Tôi trượt xuống, lần sờ những gốc cây bụi hoặc hốc đá. Việc di chuyển không khó như vào ban ngày. Với cơ thể áp sát vách núi, tôi nhận ra nó không hoàn toàn dốc đứng. Tôi tính trượt xuống, xa tầm với của đám bắt giữ mình. Tôi có thể gãy chân, hoặc tệ hơn, nhưng chúng sẽ không ngờ tôi dám liều. Nhưng thoáng nhìn xuống thôi đã khiến tôi đổi ý. Lửa trại Invierne kéo dài tưởng chừng như vĩnh cửu. Một khi xuống đất, tôi đừng hòng có đường thoát. Vậy nên tôi tận dụng thời gian – bao nhiêu trong mức mũi giáo dí vào mắt tôi cho phép – để cẩn thận trèo xuống.
Tay tôi đau nhức khi tôi tới được chân thung lũng, nhưng tôi lại tràn ngập nguồn năng lượng lạ lùng. Tôi tính chạy, nhưng biết mình không đủ nhanh hay khỏe để lẩn trốn kẻ thù. Tôi tưởng tượng cảm giác mũi giáo đâm xuyên lưng là thế nào. Ngay bây giờ, dù vì lí do gì, thì tôi vẫn được sống. Khi chúng dẫn tôi đến một căn lều lớn màu trắng, dấu hiệu chống cự duy nhất tôi dám tỏ ra là ngẩng cao đầu.
Những kẻ khác ngước lên khỏi bếp lửa khi chúng tôi đi qua, trong mắt tràn ngập sự hiếu kì. Một ả đàn bà đang ngồi bên con thỏ đã lột da, và tư thế của ả càng làm nổi rõ bộ ngực trong chiếc áo chẽn da viền lông thú. Tôi nhìn thẳng vào ả khi đám bắt giữ đẩy tôi đi. Tôi nhận ra mình khó lòng phân biệt nam với nữ nếu ở xa. Tất cả đều mặc cùng một kiểu trang phục, cùng tóc bù xù, cùng nước da trắng tái.
Một cái chuông đồng nhỏ treo lủng lảng ngoài lều. Một gã Invierne rung chuông.
“Vào đi,” có người nói, và bụng tôi lại lạnh đến thắt vào. Tôi cầu xin sự ấm áp và an toàn khi một tay bắt tôi kéo cửa lều và đẩy tôi vào trong.
Khói hương trầm hăng sè bay quanh đầu tôi, kéo tôi đi về phía một khám thờ đá đầy những nến, tất cả đều đã chảy theo đủ kiểu. Tôi chớp mắt để nhìn cho rõ giữa không gian sáng nhưng mù khói.
“Các ngươi lại đưa một đứa mọi nữa tới,” giọng kia khinh miệt. Nó trầm và lạnh như cái lạnh trong bụng tôi. “Sao chúng mày không giết quách nó cho rồi?”
Gã to béo bên phải tôi cúi đầu. “Xin thứ lỗi cho tôi, thưa chúa tể. Tôi nghĩ thật lạ khi một kẻ không phải chiến binh lại trốn trong cái hang ngay trên doanh trại của chúng ta. Nhưng nếu ngài muốn tôi đưa ả đi và không làm phiền ngài thêm nữa…”
“Không phải chiến binh, hả?” Kẻ kia lại gần hơn. Hắn có vóc người trung bình, cao ngang tôi, gầy như thân dừa, mặc áo choàng trắng như thạch anh. Mặt hắn trắng bệch và nhẵn nhụi, như một điêu khắc gia đã tạc khắc nó với ý định của nghệ sĩ tạo ra một bức tượng đẹp. Bím tóc trắng dài quấn quanh vai hắn như một con rắn. Không, nó có màu vàng rất nhạt, như rìa trong cùng của vầng mặt trời bình minh. Điều khó chịu nhất là mắt hắn. Tôi chưa từng thấy đôi mắt nào như vậy, vì chúng rất xanh, xanh như Thánh thạch của tôi. Sao hắn nhìn được nhỉ?
Hắn nhoài tới đến khi đôi môi dày của hắn chỉ còn cách lông mày tôi một hơi thở. “Ngươi là thứ nhỏ bé mềm mại, phải không? Ngươi là chiến binh?”
Đó là Mèo sao? Có lẽ là một người thú ư? Đây là một trong những kẻ đã gây ra những vết sẹo bỏng cho dân làng tôi? Đã gây chiến loạn trên đất nước của cha và chồng tôi? Nhìn vào đôi mắt bất bình thường của hắn, có gì đó lóe lên trong tâm tôi. Gì đó hoàn toàn khác viên đá. Cơ thể tôi bắt đầu hòa nhịp đập cùng Thánh thạch; má tôi nóng lên. Tôi nhận ra đó là giận dữ.
Tôi nheo mắt và nói lớn, dõng dạc bằng tiếng Plebeya. “Tôi xin lỗi. Tôi không hiểu một từ nào ông nói.”
Hắn nhìn mặt tôi một lúc; rồi mắt hắn lóe lên, hoang dại và nguy hiểm, rồi hắn quay người lướt đi mất. Cách hắn di chuyển làm tôi nổi da gà. Hắn uyển chuyển như khói vấn vít quanh chúng tôi, nhẹ nhàng và dễ dàng.
Từ bục gỗ cạnh khám thờ sáng ánh nến, hắn cầm một túi rượu và đổ chất lỏng đỏ sậm lóng lánh – tôi mong là rượu – vào cái cốc sứ. Hắn vừa uống vừa trầm ngâm ngoái nhìn chúng tôi. “Các ngươi không tìm ra ba tên trốn thoát?” Hắn hỏi.
“Không, thưa chúa tể,” gã lùn bảo.
Hắn lại nhấp ngụm nữa. Bằng tay kia, hắn vươn tay và búng tay với sự thờ ơ đáng bực bội. Đám còn lại cứng đờ. Tôi nhìn chúng, nhìn những đôi mắt trợn tròn hoảng hốt, khi chúng nghẹt thở và thở khò khè, không nhúc nhích được. Tôi nhận ra, đây là ma thuật, và Thánh thạch nóng bừng lên phản ứng.
Gã mắt xanh hằm hè nhìn tôi. “Ngươi vẫn nhúc nhích!” Hắn nói. Hắn lại búng tay. Đáng lí ra tôi không chuyển động được. Đáng ra tôi cũng phải đông cứng như những kẻ khác. Vậy nên tôi giả bộ đứng yên, rất yên, mặc cơn giận dữ đang ùn ùn khắp da thịt. Tôi nghe thấy giọng Alodia vang lên trong đầu.Đôi lúc tốt nhất,chị sẽ nói giọng kẻ cả như thế, là để kẻ thù lầm tưởng rằng hắn đã nắm quyền kiểm soát.
“Nếu mai ta không tìm được chúng, vậy là chúng đã vuột khỏi tay ta,” hắn bảo.
Tôi bỗng nhớ lại những lời lúc trước của hắn. Ba tên trốn thoát… Nhưng tôi đi cùng bốn. Có lẽ một cũng bị bắt giữ tại doanh trại này. Hoặc đã chết. Tôi khó mà vờ đứng yên khi đang nghĩ đến Humberto. Tôi tưởng tượng anh nằm úp sấp, một ngọn giáo, hoặc có lẽ là một mũi tên, trồi lên từ đằng lưng. Má tôi giật giật.
“Tìm những kẻ còn lại,” gã mắt xanh nói, giọng giờ đã bình tĩnh. Hắn lại búng tay, và những người khác được giải thoát. Hắn tiến về phía tôi.
Tôi vẫn sợ, nhưng là sợ trong suy nghĩ, và những khả năng khác nhau đang vật lộn dữ dội trong đầu tôi.
Nến hắt ánh sáng lên thứ gì đó trên sợi dây da nâu ở cổ hắn. Một cái lồng nhỏ xíu treo tòng teng giữa ngực hắn, chỉ nhỏ vừa lòng bàn tay tôi, có những chấn song màu đen, có lẽ bằng sắt và một cái chốt ở trên cùng, chứa vật sang sáng bên trong.
“Thứ mềm mại,” hắn thì thầm, cúi sát hơn, và cái lồng nhỏ đong đưa trên ngực hắn. “Ta thấy ngươi thông minh. Gương mặt người có gì đó là lạ.”
Tôi nghe được, nhưng không hiểu nổi. Tôi chỉ chăm chăm nhìn cái bùa của hắn, vào viên đá xanh lấp lánh nằm trong cái lồng nhỏ. Tôi đã từng thấy thứ đó, trong thư phòng của cha Nicandro, và ở ngay rốn tôi.
Đó là Thánh thạch.