T
ôi sửng sốt, thực sự đờ đẫn, tuy không phải vì phép thuật của gã người thú. Đây chính là bùa lửa mà mọi người vẫn nhắc tới ư? Thứ đã để lại những vết sẹo lồi lõm xấu xí trên cơ thể dân làng tôi? Nếu vậy, sao Chúa có thể để một thứ linh thiêng như vậy được dùng cho mục đích xấu xa đến thế?
Đấy không thể là Thánh thạch của chính tay người thú này, trừ khi hắn nạy nó ra từ rốn mình. Khả năng cao hơn là hắn tìm được nó. Cha Nicandro chỉ cho tôi ba viên, nhưng gần hai mươi thế kỉ đã trôi qua kể từ ngày Chúa đưa chúng tôi đến thế giới này. Gần hai mươi người mang Thánh thạch. Và rồi một suy nghĩ khủng khiếp nhất đột nhiên xuất hiện: Có thể nào Chúa chọn người mang Thánh thạch giữa những kẻ thù này?
Hắn ngắm nghía tôi trong lúc những suy nghĩ kia lũ lượt xuất hiện trong tâm trí tôi. Tôi hi vọng mặt mình không để lộ nhiều điều.
Hắn cười. Răng hắn vàng ệch và hôi tanh, thật không ăn nhập với gương mặt đẹp hoàn hảo. “Ngươi làm ta muộn bữa tối rồi,” hắn ngâm nga. “Nhưng đừng lo. Ta vốn biết điều.” Hắn nghiêng đầu sang bên này, rồi bên kia, và tôi như con chuột nhắt đối mặt với sư tử núi. “Ngươi không hiểu Thánh ngữ, đúng không? Đừng lo, đừng lo. Khi ta quay lại, mặt đất sẽ được hưởng chút máu của ngươi, rồi chúng ta sẽ xem chuyện sẽ thế nào.” Hắn vuốt má tôi, và tôi chẳng kìm nổi cái rùng mình, vì da hắn khô và lạnh như da rắn. “Ta sẽ mang đồ ăn cho ngươi. Hãy ngoan ngoãn và đừng nhúc nhích khi ta vắng mặt đấy.” Hắn cười nắc nẻ trước câu nói đùa ấy.
Rồi hắn bỏ lại tôi một mình trong lều.
Tôi hoảng hốt nhìn quanh, long tự hỏi còn bao nhiêu thời gian. Đây có thể là cơ hội trốn thoát duy nhất, nhưng tôi phải nghĩ thật nhanh. Tôi tính bỏ chạy, nhưng giữa tôi và những rặng núi là nhan nhản binh lính Invierne. Tốt nhất tôi nên đợi tay người thú trở lại. Và giết hắn. Có lẽ tôi có thể cướp Thánh thạch của hắn và giơ ra như vũ khí khi bỏ chạy khỏi lều. Tất nhiên tôi không biết cách dùng, nhưng có lẽ nó sẽ giúp tôi kéo dài thời gian. Hoặc có thể không. Ít nhất tôi chết nhưng được biết mình đã xóa sổ khỏi thế giới này một tay pháp sư Invierne. Hitzedar cung thủ đã giết được một tên. Và cụ Damián của Humberto cũng hạ được một kẻ. Và giờ đến lượt tôi.
Tôi thấy thật lố bịch khi vươn tay lấy dao dắt giày, và còn nực cười hơn khi cảm nhận được nước tiểu thấm ướt cái quần bên dưới áo choàng. Tôi quyết định không nghĩ đến nữa.
Tôi không biết mình có gan giết người không. Lấy mạng người khác bằng dao là một hành động quá cá nhân mà tôi chưa từng dám nghĩ. Hơn nữa, đám bắt giữ tôi nói đúng, tôi không phải chiến binh.
Vậy nên muốn thành công, tôi phải đánh bất ngờ. Tôi giấu dao trong thắt lưng để cán dao trồi lên đằng lưng. Tôi dám bị thương lắm nếu đột nhiên vặn ngươi, vì chẳng có gì ngăn giữa lưỡi dao và da tôi, ngoài cái áo choàng sờn rách. Nhưng tôi không biết nên giấu ở đâu khác dễ với.
Tôi nhìn quanh lều, tìm bất cứ thứ gì có thể giúp mình. Một cái túi ngủ bằng lông cừu được dựng bên vách, trông dày dặn và đã ngả vàng. Trên mặt đất nện bằng phẳng, trống trải chỉ có duy cái khám thờ đá lung linh ánh nến, một cái bàn gỗ để túi rượu, cùng dăm ba cái cây màu nâu xám còi cọc vì bị cớm nắng. Tôi nheo mắt ngắm nghía đám cây cối. Bề mặt lá mượt như nhung, những quả ngả nâu đã héo kia khiến tôi thấy quen mắt. Tôi lại gần đám cây héo rũ đặt ở chân khám thờ hơn, và nhận ra nó được xây quanh một tảng đá tự nhiên. Và đám cây kia hóa ra quen thật. Màu sắc có sai khác, vì cây thiếu nắng và không khí trong lành, nhưng đây chính xác là mộng diệp.
Chắc tôi chẳng còn nhiều thời gian. Tôi vặt vài quả, bực bội vì chúng quá khô, quá dễ bứt khỏi cành. Tôi nhăn mặt khi nút chặn túi rượu bật ra kèm theo một âm thanh khe khẽ. Tôi bỏ một quả vào trong, rồi lưỡng lự, nghĩ lại. Với những quả còn lại, tôi dùng móng tay tách lộ ruột trước khi thả vào trong.
Tôi nghe có tiếng chân, và ngờ nghệch nhìn về cửa lều. Hắn phải thấy tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Vừa rồi tôi đứng đâu nhỉ? Tôi để tay xuôi người hay hơi chắp về trước? Tôi chạy vội về chỗ cũ và quay mặt nhìn khám thờ. Hình như không đúng lắm; nến làm mặt tôi rát hơn. Cửa lều mở khi tôi hơi dịch sang bên trái. Lưỡi dao chọc vào lưng tôi lúc không khí mát mẻ hơn thổi qua mặt và làm nến trong lều hơi hấp háy như thể có một bàn tay vô hình quét qua.
Gã người thú bước vào, tặc lưỡi. “Chà, ngươi ngoan thật. Ngươi không hề nhúc nhích. Đến tè dầm cũng không.” Hắn bưng hai cái bát gỗ, và dù đang trong cảnh nguy nan, tôi vẫn tứa nước bọt trước mùi thịt hươu ướp húng quế và tỏi. “Ngươi sẽ thấy ta rất tử tế. Thấy không? Ta mang cho ngươi đồ ăn ngon đây.” Hắn đặt hai cái bát trước mặt tôi, và khoanh chân ngồi xuống. “Ngồi đi.”
Tôi trân trối nhìn hắn.
“Ngồi, ngồi, ngồi,” hắn nói, và búng tay, rồi vỗ xuống nền đất trước mặt hắn.
Tôi từ từ làm theo, quan sát xem hắn có đột ngột cử động không.
Hắn xúc thịt lên miệng. Hắn cắn phập khiến vụn thịt xám và dai treo tòng teng trên đôi môi dày. Hắn lắc đầu, làm thịt bắn lên má, trước khi ngửa đầu nuốt xuống. Hắn không buồn nhai.
Tôi nhìn bát mình, tự nhiên thấy hết cả thèm ăn.
“Ăn đi!” Hắn ra lệnh và chỉ cái bát.
Tôi chần chừ. Nếu hắn đầu độc tôi thì sao?
“Ăn, ăn, ăn đi!”
Tôi nhúng một ngón tay vào nước xốt và đưa lên môi. Sau một hồi hít ngửi, tôi vui vẻ mút.
“Giờ thì, khi chúng ta ăn…” Hắn nhét miếng nữa vào miệng và nuốt trọn. “Ngươi sẽ kể cho ta nghe về đồng bọn của ngươi, những kẻ đã trốn khỏi hang trước khi chúng ta tìm thấy ngươi.”
Tôi cứ trợn tròn mắt nhìn hắn, cố vờ đần độn.
“Ta nhắc lại này.” Và hắn nói, bằng tiếng Plebeya. “Hãy kể cho ta nghe về đồng bọn của ngươi.”
Tôi há hốc miệng.
Hắn mỉm cười. “Ta không thích dùng ngôn ngữ của ngươi. Cảm giác như ăn đất ấy. Vì thế, ngươi sẽ cho ta biết điều ta muốn. Nhanh lên, vì ta không định bôi nhọ mình bằng một đống từ ngữ mọi rợ đâu.”
Tim tôi đập dồn. Giả bộ ngớ ngẩn dễ hơn nhiều. Giờ tôi phải cực kì cẩn trọng chọn từng từ từng chữ một.
“Ông sẽ làm gì tôi?” Tôi hỏi, không buồn giấu sự run rẩy trong giọng mình. Tôi cần khiến hắn nói đến khô hầu và chắc chắn sẽ phải uống rượu. Hoặc tôi tiếp cận được để đâm hắn.
“Ta sẽ ăn với ngươi trong lúc ngươi kể về đồng bọn. Nếu ngươi không nói, ta sẽ cho đất nếm chút máu của ngươi và phù phép mở miệng ngươi. Rồi ngươi sẽ quyết định.”
“Tôi?” Tôi nói khẽ. “Tôi sẽ quyết định?”
“Rằng ngươi muốn sống hay chết.”
Sẽ có một cái giá, một lựa chọn. Tôi không biết đó là gì, và cũng chẳng quan tâm. Nếu tôi giết được hắn, tôi chẳng cần quan tâm đến chuyện đó.
“Tôi muốn sống,” tôi nói, giả bộ sợ sệt. Đột nhiên, tôi nhận ra mình không thấy lạnh nữa. Không còn phải cầu nguyện liên hồi để chân tay không đông cứng. Có lẽ vì chuyện tiếp đây sẽ là sứ mạng của tôi chăng? Hoặc có lẽ vì sự hiện diện của một viên Thánh thạch xa lạ.
À, Thánh thạch. Đấy là cơ hội duy nhất cho tôi tìm hiểu sự thật.
“Thứ… thứ trên cổ ông,” tôi chỉ và nói. “Người chúng tôi sợ nó lắm.”
“Ăn, ăn đi!”
Tôi lại nhúng ngón tay vào bát trong khi hắn ngồi đó, đôi mắt xanh đẹp đẽ ánh lên vẻ ngạo mạn. “Bọn ngươi sợ là đúng. Nó, và những viên đá của anh em ta, sẽ đưa đất đai của các ngươi vào tay chúng ta. Đó là ý Chúa.”
Đúng lúc đó, tôi suýt đâm hắn. Gã đàn ông này biết gì về ý Chúa chứ? Hắn điên rồ, phi nhân với đôi mắt man dại và vẻ đói khát như thú săn. Tay tôi run run giận dữ, dù tôi không biết nên giận ai. Ngươi Tân giáo giấu tôi vì ý Chúa. Cha Nicandro kể cho tôi nghe lịch sử Thánh thạch cũng do cùng một nguyên nhân. Cosmé và Humberto bắt cóc tôi để ép tôi thực hiện ý Ngài. Và giờ, kể cả kẻ thù của tôi cũng cho rằng hắn hiểu ý Chúa.
Alentín trấn an tôi rằng ai cũng đều có những ngờ vực. Nhưng có vẻ tôi là người duy nhất chẳng hay biết chút gì về điều Chúa muốn ở mình. Tôi mang Thánh thạch của Ngài, và tôi chẳng hiểu gì.
“Vì sao?” Tôi thì thầm. “Vì sao ông làm chuyện này?”
“Ta nghĩ uống chút rượu kèm bữa ăn sẽ là hoàn hảo, nhỉ?” Hắn cười hung tợn, rồi đứng lên. Tôi không dám thở trong lúc quan sát hắn tiến tới cái bàn để túi rượu.
Chúa ơi, cầu xin Ngài khiến hắn uống đi.
Hắn đi lại uyển chuyển như sư tử, và như thể có gì đó đang quằn quại dưới lớp da căng hoàn hảo của hắn. Một sinh vật ẩn trong một sinh vật. Nếu so sánh với hắn, Alodia có khi chỉ là đứa ngốc.
Hắn rót hai cốc.
Tôi không hiểu nhiều lắm về mộng diệp. Tôi không biết độc tố mất bao lâu mới giết chết một người, hoặc quả tươi có tác dụng đó không. Tôi ngửa ra sau khi hắn quay lại, tìm niềm an ủi từ cảm nhận mũi dao chọc vào mông.
Hắn lại ngồi xuống. “Hãy kể ta nghe về đồng bọn của ngươi,” hắn nói, “và ta sẽ cho ngươi chút rượu.”
Làm như rượu báu lắm không bằng. Ở hắn có gì đó đơn giản và chân thật. Hoặc có thể là điên rồ. Tôi giả bộ ngẫm nghĩ.
“Ông muốn biết gì?” Tôi hỏi. Hơi thở tôi nghẹn trong cổ khi hắn nhấp một ngụm.
“Vì sao ngươi đến đây?”
Belleza Guerra viết rằng lời nói dối đáng tin nhất xuất phát từ sự thật. “Chúng tôi muốn được tận mắt thấy đội quân này,” tôi bảo.
“Ta không tin các ngươi ngu đến vậy.” Hắn nhấp thêm ngụm nữa.
Tôi nhìn cái cốc kia, như thể thèm khát lắm. “Chúng tôi được cử đi.”
Mắt hắn mở to. “Ai cử?”
“Tôi không nói được.”
Hắn nhoài tới, gần đến độ tôi thấy rõ đồng tử của mắt hắn. Chúng dẹt như mắt mèo. “Một là ngươi nói, hai là đổ máu.”
Tôi chăm chú nhìn thức ăn trong bát, giả bộ đang đấu tranh tư tưởng. “Là bá tước,” cuối cùng tôi nói. “Bá tước Treviño.” Người đàn ông đã cấp lương cho kẻ địch. Kẻ phản quốc. “Nhiều người dưới trướng bá tước không tin quân đội của ông đông đảo. Ông ấy cần xác nhận và phái chúng tôi đi dò la.”
Hắn ngồi thẳng lại, ngẫm nghĩ, và lại đưa cốc lên môi. “Ta không tin.”
Chúa ơi, độc tố phát tác đi. “Vì sao không?” Tôi tỏ vẻ bối rối.
“Vì ngươi không phải chiến binh. Bá tước ngu thật, nhưng hắn sẽ không sai một đứa nhóc còn tè dầm đi do thám quân đội.”
Tất nhiên hắn nói đúng, và tim tôi chỉ muốn xổ ra sự thật. Tôi mang Thánh thạch đấy! Nó hét vậy. Nhưng tôi biết, như biết bất cứ điều gì, rằng gã người thú này sẽ không bao giờ được biết việc ấy.
“Tôi không rõ vì sao ông ấy cử tôi đi,” tôi nói, đầu cúi xuống vì lời chế giễu sâu cay. Hãy ép hắn nói chuyện, tôi tự nhủ.
“Ngươi nói dối tệ lắm.”
Hắn di chuyển rất nhanh, tôi còn chẳng nhìn kịp. Tôi chỉ thấy đau nhói dọc cẳng tay. Tôi nhìn xuống và thấy máu ứa ra thành hai đường song song.
Hắn búng hai ngón tay với tôi, và tôi thấy những vật sắc nhọn tại đó, trồi ra từ dưới móng tay hắn, đang nhỏ máu tôi.
Tôi cảm nhận rõ mạch đập rộn rã nơi tay, đẩy máu đỏ ứa ra, nhỏ giọt xuống đất. Tất cả chao đảo trước mắt tôi, và tôi thấy chóng mặt.
Hắn lại uống. “Giờ, một khi mặt đất đã được nếm máu ngươi, có lẽ chúng ta sẽ biết sự thật.”
Từng giọt đỏ tươi rơi xuống nền đất nện. Chúng rơi xuống, loang ra, ngấm vào đất, ngả nâu. Thánh thạch nóng bỏng, và tôi suýt ho sặc sụa vì cảm giác ấy lan lên sống lưng.
“Đất rất thích máu ngươi,” hắn ngâm nga. “Ôi, đúng, chính là máu ngươi, nó thích, thích, yêu lắm. Viên đá của ta đang nóng lên rồi.” Hắn nâng cái cốc lên đôi môi đang cười.
Cái bùa đong đưa trước ngực hắn bắt đầu phát ánh sáng màu xanh trắng như những ngôi sao trước bình minh. Hắn sắp thiêu tôi. Hắn sẽ thiêu từng mảnh da thịt tôi từ từ từng chút để ép tôi nói ra sự thật. Tôi không mạnh mẽ. Tôi biết mình sẽ khai tuốt luốt để không phải chịu đau đớn.
Hắn nhanh hơn tôi, nên tôi biết mình phải làm chuyện này thật chuẩn xác. Cánh tay trái vẫn nhỏ máu xuống đất, tôi dùng tay phải, từ từ, với lấy con dao cắm sau lưng. Tôi cầm nó lưỡng lự một chút. Đây có thể là khoảnh khắc tôi sẽ chết. Hắn sẽ dùng mấy cái vuốt kia xả thịt tôi và cắt cổ tôi, nếu muốn.
“Tôi không muốn chết,” tôi thành thật bảo hắn.
Hắn cười như người cha đang dỗ dành cô con gái cưng, như cách phụ vương luôn bao dung nhìn chị tôi. “Ngươi chỉ cần cho ta biết…”
Hắn không nói hết câu. Hắn nhìn tôi một cách kì quặc, nheo đôi mắt không bình thường lại. “Ngươi không thể trốn khỏi ta đâu, cô gái,” hắn nói, chuyển sang Thánh ngữ. “Quá muộn rồi. Đất đã nếm máu ngươi.”
Ánh mắt tôi không rời khỏi gương mặt quá đẹp của hắn, nhưng tôi rút dao khỏi thắt lưng.
“Ta mệt. Quá, quá mệt rồi.” Hắn chuếnh choáng nhìn quanh lều. Rồi mắt hắn mở to, tỏ rõ đã hiểu. “Ngươi đã làm gì ta?”
Tôi muốn bảo hắn là đồ ngu. Tôi muốn cho hắn thấy Thánh thạch, sống động và chân thật. Nhưng tôi không nói gì.
Hắn tóm viên Thánh thạch đeo cổ và ném về phía tôi, nhưng quầng sáng đã yếu đi. “Sao nó không thiêu ngươi?” Hắn hỏi, giọng nghẹn lại. “Vì sao?”
Tôi đáp bằng Thánh ngữ. “Vì đó không phải ý Chúa.”
Đôi mắt xanh của hắn trợn trừng. Hắn mở miệng, nhưng không phát ra được âm thanh nào. Hắn ngã ngửa và nằm đó, đầu tại chân khám thờ, tai áp vào đám lá mộng diệp đang tàn úa.
“Cảm ơn Chúa,” tôi thở một hơi dài. “Con cảm ơn Ngài.”
Tôi áp tay lên ngực hắn. Dưới lồng ngực có nhịp tim, nhưng rất yếu ớt. Hắn chưa chết. Có lẽ quả mộng diệp đã giảm độc tính khi khô đi. Nhưng nếu kinh nghiệm của tôi với mộng diệp có chỉ ra điều gì, thì đó là hắn sẽ ngủ một giấc dài.
Dùng dao, tôi cắt một dải gấu áo choàng để băng bó cẳng tay đang bị thương.
Ngạc nhiên làm sao, tôi còn sống. Phải có cách trốn thoát, báo tin cho những người khác, vì tôi đã nắm được nhiều điều. Người thú có thể búng tay làm người ta bất động. Vũ khí của chúng là Thánh thạch. Chúng điểm hỏa bằng cách “cho đất uống máu”. Đội quân con nít ít ỏi của tôi, Malficio của tôi, phải được biết những điều ấy.
Thế là tôi ngồi bó gối và suy nghĩ. Tôi không thể nào vượt nổi vòng ngoài doanh trại nếu ăn vận kiểu này. Tôi phải cải trang. Cái áo choáng trắng tinh của tay người thú đang mời gọi tôi, và tôi suýt bật cười thành tiếng trước ý nghĩ đó. Tôi có thể lấy áo hắn. Và cái bùa của hắn nữa.
Tôi chán ghét đưa tay về phía đầu hắn. Mái tóc màu bạch kim trượt trong lòng bàn tay tôi khi tôi kéo cái bùa qua đầu hắn. Khi tôi đeo lên cổ mình, Thánh thạch trong rốn tôi đập rộn như tỏ ý vui vẻ chào mừng. “Ngừng ngay,” tôi lẩm bẩm.
Cởi áo choàng lại khó hơn. Dù trông có vẻ gầy, nhưng hắn rất nặng. Tôi lật nghiêng ngửa, cởi một bên tay áo của hắn trước, rồi đến tay còn lại, sau đó kéo áo qua bụng. Không có cái áo choàng, trông hắn yếu ớt, màu xanh của mạch máu chằng chịt trên làn da trắng tái của đôi chân không lông. Bím tóc dài của hắn sáng lên dưới ánh nến như vàng nóng chảy. Trong phút bốc đồng, tôi tóm lấy và cắt nó ngắn tới gáy.
Mùi trầm hương suýt làm tôi nôn mửa khi tôi kéo áo choàng qua vai. Nó được làm từ loại da tôi chưa thấy bao giờ, tuy dày và nặng nhưng lại mềm mại như lụa. Tôi buộc chặt sợi dây và kéo cái bùa ra ngoài để cái lồng đen nổi bật trên màu áo trắng. Cái mũ trùm vừa khít đầu tôi. Tôi thắt cái bím tóc của hắn vào dây áo choàng và để nó đong đưa thả trước ngực. Bên trong cái áo, tôi cầm chắc con dao.
Tôi cúi nhìn gã người thú. Quá tinh tế. Quá đẹp. Rồi hắn sẽ tỉnh. Có lẽ tôi nên găm dao vào tim hắn trong khi hắn ngủ, để hắn không thể làm hại ai nữa. Nhưng ý nghĩ một lần nữa dùng dao làm tôi run rẩy.
Tôi có ý hay hơn.
Cái túi ngủ của hắn được xếp ở một bên lều. Tôi kéo một đầu, lê ra giữa. Vải lông cừu mềm và rất khô. Tôi cầm một cây nến trên khám thờ, cẩn thận để sáp nến nóng không nhểu vào tay mình. Tôi cầm góc mảnh lông cừu và giơ ra cho bắt lửa. Khi lông cừu xoăn lại và đen đi, tôi nghiêng đầu để tránh cái mùi khen khét. Nó cháy chậm. Chắc phải vài phút lửa mới bén tới vải lều. Thời gian đó đủ cho tôi ra đến bìa doanh trại. Tôi cố không nghĩ tới gã đàn ông đang nằm dưới chân mình.
Tôi đã sẵn sàng, nhưng không thể ép chân mình bước ra cửa lều. Con cầu xin Chúa. Cầu cho chuyện này thành công. Tôi phải kiêu hãnh bước đi. Uyển chuyển. Đầu cúi để không ai thấy nước da nâu của mình. Tôi hít thật sâu và đợi tim đập chậm lại. Đằng sau, cái túi ngủ nổ lốp bốp; một tia lửa bắn vào chân tôi, rồi đen lại và hóa ra tro.
Tôi buộc đầu óc mình phải bình tĩnh. Đừng nghĩ nữa, Elisa. Cứ làm thôi. Tôi hé mở cửa lều và sải bước ra màn đêm sáng ánh lửa. Cửa lều đóng lại, che đi ngọn lửa đang lớn dần bên trong. Tôi bước nhanh, đặt chân đúng như Humberto dạy. Vậy là giống với uyển chuyển nhất tôi có thể làm được, và tôi hi vọng thế là đủ. Đám Invierne ngước nhìn tôi khi tôi đi qua, nhưng tôi mặc kệ, vẫn hiên ngang bước. Tôi cảm nhận được những ánh mắt hoang dại của chúng sau lưng mình. Thánh thạch lạnh đi.
“Xin chào chúa tể,” có người chào hỏi. Tôi gật đầu cụt lủn, giữ mũ đội sùm sụp và bước tiếp. Chắc chắn hắn thấy tôi không gầy. Không uyển chuyển.
Tôi đi dích dắc qua các bếp lửa, túi ngủ, về vùng tối an toàn của khu đồi núi, dỏng tai chờ đợi tiếng tri hô. Tôi sắp đến đích rồi.
Tôi thoáng thấy điều gì đó là lạ, ở bên trái. Gì đó không thích hợp. Tôi hơi ngoái đầu. Đó là một người đàn ông. Không mặc đồ lông thú, mà mặc áo choàng của dân sa mạc. Tóc anh ta đen và không buộc, da cũng sậm màu. Anh ta đang mải ăn uống, và tôi không trông thấy mặt, nhưng ngực tôi nóng lên vì ngờ ngợ. Một người dân Joya của tôi, đang ăn uống cùng kẻ thù. Tôi không hề thấy dây thừng hay xích. Không một người thú nào kề bên làm anh ta tê liệt. Một kẻ khác, một tên Invierne tóc bết bẩn, da trắng xanh, đang vỗ lưng anh ta. Anh ta ngẩng đầu mỉm cười. Chân tôi nhũn ra; tôi khẽ nấc một tiếng.
Đó là Belén.