• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lửa biên thùy
  3. Trang 29

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 28
  • 29
  • 30
  • More pages
  • 40
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 28
  • 29
  • 30
  • More pages
  • 40
  • Sau

Chương 25

C

húng tôi hoãn hành trình tới Basajuan để có thời gian tìm hiểu thêm từ Belén. Hôm đầu tiên, anh ta tuôn ra một tràng những suy nghĩ trong cơn hoảng hốt, và chúng tôi không thể móc nối chúng với nhau thành có nghĩa, trừ hiểu rằng anh ta sợ tôi sẽ mất mạng và lo cho số phận của cả Joya d’Arena. Tôi bàng quan trước cơn khùng điên của anh đến lạ. Sợ hãi giờ đã đồng hành với tôi quá lâu rồi. Thêm một tin dữ khác ư? Đó chỉ là lời của một gã điên, vô hại và mạng sống mong manh như ngọn nến trước gió.

Nhưng Humberto không được bình thản như tôi. Anh chưa bao giờ rời xa tôi, và mỗi khi nhìn anh, tôi thấy đôi mắt nâu đau đáu nhìn mình, sáng rỡ đong đầy cảm xúc. Anh luôn để ý tôi, khác hẳn với Alejandro, và tôi run lên mỗi khi nhận ra anh quan tâm tới mình. Tôi tự hỏi anh có thường nhớ về nụ hôn hôm nào như tôi chăng.

Tôi không can ngăn anh trông chừng mình. Anh là con người có tài và kiên định nhất mà tôi từng quen biết, thạo bẫy thỏ chẳng kém gì tìm nguồn nước hay chọc cười người khác. Tôi biết anh sẽ làm tất cả để bảo vệ tôi được bình an.

Chiều hôm sau, tôi ngồi trên một ụ đá, lưng dựa vào mặt đá được mặt trời sưởi ấm. Tôi mở cuốn Afflatus trên đùi và đọc lại một lượt, hi vọng tìm được gì đó hữu dụng, đã bị bỏ qua bởi hàng thế kỉ nghiên cứu sùng đạo. Ngôi làng chỉ cách vài bươc nhưng hoàn toàn khuất dạng. Trong đời, tôi chưa từng được nhiều người đến hỏi ý kiến, cần sự chấp thuận, sự hiện diện như mấy ngày qua. Tôi nắm quyền kiểm soát những con người này, và đó là do họ tự nguyện giao cho tôi. Điều này vừa đáng sợ, lạ thường và có một chút kì diệu. Nó cũng làm tôi kiệt sức, và tôi nhẹ nhõm vì được ở một mình.

Tôi nghe có tiếng chân và thở dài. Nhưng sự thất vọng đã chuyển thành mừng rỡ khi thấy đầu Humberto nhô lên. Tôi cười chào anh.

“Em không nên ở một mình,” anh bảo.

Nụ cười của tôi tươi hơn. “Em đâu còn một mình nữa, phải không?”

Vai chúng tôi chạm vào nhau khi anh ngồi xuống cạnh tôi. Anh tì cẳng tay lên đầu gối và đưa mắt nhìn về phía sa mạc. “Anh có chuyện cần nói với em.”

Nụ cười của tôi nhạt mất. Tôi nuốt khan. “Chuyện gì?”

Anh không nhìn tôi, chỉ dùng gót giày đào phiến đá sét. “Ngày hôm đó. Trong động. Trước khi em bị bắt.”

Cổ tôi nóng lên khi nhớ lại nụ hôn đó. Tôi đã tưởng tượng trong đầu sẽ có cuộc nói chuyện này hơn chục lần có lẻ, nhưng chưa từng nghĩ kĩ, như thể nói về nó – thậm chí nghĩ về nó – sẽ khiến nó trở nên bình thường và thế là chấm hết. Đó là nụ hôn không thể có một cái kết có hậu, và tôi muốn nó chỉ là một kí ức như mơ, đầy những khả năng hơn.

“Elisa, anh xin lỗi.”

Tôi quay phắt sang nhìn anh thật kĩ. “Vì sao?”

“Anh nghĩ…” Anh ngước nhìn bầu trời và hít thật sâu. “Anh nghĩ sẽ không còn gặp lại em nữa. Anh sợ và buồn, và… và anh rất muốn hôn em. Anh thật khờ. Anh hứa sẽ không bao giờ… xúc phạm em nữa.”

Tôi không nghĩ cuộc nói chuyện sẽ rẽ theo hướng này. Tôi mím chặt môi, quyết không khóc. “Vậy là anh hối hận?” Tôi nói nhỏ.

Một nụ cười nửa miệng vụt qua môi anh. “Không. Ý anh là có. Ý anh là…”

“Em không chắc mình muốn kết hôn cùng Alejandro.”

Anh quay phắt sang, và tôi giật mình vì lời của mình nhiều hơn là vì cử động nhanh của anh. Tôi nhận ra mình nói thật, và tim đập hoảng hốt. Alejandro là chàng trai tuấn tú nhất tôi từng biết. Nhưng vậy chưa đủ.

“Ý em là sao?” Anh hỏi nhỏ, và niềm hi vọng trong mắt anh khiến cổ tôi nghẹn lại.

“Em phải kết hôn với nhà vua. Em đã hứa với Malficio và em phải là vợ của Alejandro mới mong có thể giữ lời, nhưng…”

“Nhưng sao?”

Sự thật quá to tát và nặng nề. “Chàng ấy không yêu em. Em từng ước rồi sẽ đến lúc trong trái tim chàng có em. Nhưng giờ em ở xa… hình như em không coi trọng chàng ấy nhiều lắm.” Không như em coi trọng anh. “Chàng tuấn tú. Rất quyến rũ. Nhưng lại thiếu kiên quyết.” Tôi nghĩ tới chuyện chàng không chịu thông báo cho toàn dân biết tôi là vợ chàng, chàng lơ là Rosario, rồi còn cả chuyện chàng coi thường cô nhân tình của mình. “Và đôi lúc chàng tàn nhẫn, vô tâm nữa.”

Humberto nhìn xoáy vào mắt tôi. Tôi yêu những đường nét trên gương mặt anh – đầy kiêu hãnh và mạnh mẽ. Tôi thèm muốn được vuốt ve đôi má lún phún râu của anh. Môi tôi hé mở.

“Elisa,” anh gọi khẽ.

Tôi ghé sát hơn. Môi tôi run run; tim tôi đập rộn.

“Anh sẽ không hôn em,” anh bảo.

Tôi ngậm miệng.

“Hãy hiểu cho anh, không phải là anh không muốn,” anh nói với một nụ cười trề môi. Một lần nữa anh lại phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh sa mạc. Anh im lặng một hồi lâu. Rồi: “Anh chưa từng gặp ai kiên cường như em. Và thông minh. Và…” Anh nhúc nhích chân. “Và xinh đẹp. Nhà vua thật ngu ngốc khi không yêu em.”

Hơi thở tiếp theo của tôi nghe giống tiếng nức nở hơn. Tôi nên cười trước những lời anh nói, hoặc cảm ơn anh đã nói vậy, nhưng cổ họng tôi nghẹn đắng.

Thay vào đó, tôi cùng anh ngắm nhìn những bụi cây khô cằn và mấy con thằn lằn thi thoảng bò qua. Chúng tôi ngồi bên nhau rất lâu, vai khẽ chạm vai, và quan sát mặt trời tô sắc hồng và đỏ san hô lên mảnh đất này khi nó dần lặn xuống dưới đường chân trời nhấp nhô trùng điệp.

Trời tối và chuyển lạnh khi Cosmé tìm thấy chúng tôi.

“Belén sẵn sàng nói chuyện rồi,” cô bảo.

Chúng tôi đứng dậy và vội vàng đi theo. Humberto không nói gì, thậm chí còn chẳng nhìn tôi. Nhưng khi chúng tôi bước đi, tôi cảm nhận được cánh tay anh sượt qua tay tôi, rồi ngón tay anh. Anh nắm tay tôi và bóp nhẹ, chỉ một thoáng ngắn ngủi, trước khi buông ra. Bàn tay tôi lạnh cóng khi chúng tôi vào làng.

Belén nhắc lại lời cảnh báo trước. “Elisa, làm ơn đi đi. Hãy trở về Brisadulce. Hoặc tốt hơn, hãy cao chạy xa bay. Đến một nơi không ai nghĩ sẽ tìm thấy cô.”

Humberto và cha Alentín lo lắng nhìn nhau, nhưng tôi mặc kệ họ. “Kể từ đầu đi, Belén.” Tôi cố nói sao cho nhẹ nhàng. “Kể xem vì sao chúng lại biết về cái hang đó.” Giờ anh ta đeo miếng bịt mắt, nên tôi không phải nhìn vào con mắt chột của anh ta.

Anh ta ngẩng đầu. “Là do tôi đưa tin.”

Cosmé nhìn đi nơi khác. Jacián hằm hằm lườm.

“Vì sao?” Tôi hỏi.

Anh ta lúc lắc người. “Chúng nói sẽ tha cho làng tôi.” Nhưng ánh mắt anh ta không kiên định. Có lẽ lại tiếp tục dối trá. Chắc do vẫn còn mệt mỏi. Hoặc có thể anh ta đang giấu diếm điều gì.

Tôi lắc đầu. “Nghe không giống anh, Belén. Anh sẽ không phản bội Cosmé vì điều đó.” Tôi cảm nhận thấy người thiếu nữ kia đang nhìn xoáy vào lưng mình khi tôi cúi xuống và ghé sát vào gương mặt tiều tụy của Belén. “Vì sao anh làm vậy?”

Anh ta tiếp tục lắc lư.

“Belén?”

“Tôi đã mang cô tới cánh cổng của kẻ thù!” Anh ta gắt. “Tôi nghĩ mình đã làm đúng.”

Tôi đổ người ra sau trên gót chân, choáng váng. “Anh nghĩ anh đã hoàn thành lời sấm truyền của Homer!”

Anh ta gật đầu, vẫn không chịu nhìn tôi. “Tôi biết những người khác sẽ trốn được. Tôi nghĩ cô phải vào doanh trại địch. Tôi nghĩ đó là ý Chúa.”

Ý Chúa. Đã bao nhiêu lần tôi nghe có người tuyên bố họ hiểu cái điều tôi thấy quá mơ hồ ấy?

Humberto bước tới. “Có gì đó đã khiến anh đổi ý,” anh bảo. Gương mặt anh không buồn bã tuyệt vọng như chị mình. Thay vào đó, anh có vẻ tức tối.

Belén thôi lắc lư. “Cô ấy đã trốn thoát,” anh ta chỉ nói vậy. “Và cả đội quân Invierne ăn mừng thác loạn. Một người trong số chúng bị giết, một người thú, thế mà chúng lại ăn mừng.”

“Tôi không hiểu,” tôi nói.

“Chúng ăn mừng vì đã tìm thấy cô, Elisa. Người mang Thánh thạch. Chỉ người mang Thánh thạch mới thoát khỏi người thú mà thôi. Có thể dùng lửa giết chết hắn. Chúng đã tìm cô bao nhiêu năm ròng, và cô lại xông thẳng vào doanh trại của chúng.”

“Chúng muốn gì từ cô ấy?” Cha Alentín hỏi.

“Chúng muốn Thánh thạch. Chúng đã có chín viên rồi. Gần gấp đôi con số hoàn hảo. Chúng cần một viên nữa, một viên từ người sống.”

“Chúng cần hai viên nữa,” tôi bực bội nói. Tôi rút cái bùa từ dưới áo choàng lên và giơ ra cho tất cả cùng thấy. “Tôi đã lấy nó từ tay người thú kia.”

Nhưng cha Alentín hình như không nghe thấy. “Nhân danh Chúa, sao chúng kiếm được chín viên Thánh thạch chứ?”

Humberto nhún vai. “Có lẽ chúng trộm từ mộ của những người mang Thánh thạch.”

Cosmé nhìn em mình tỏ vẻ ghê tởm.

“Rất nhiều người mang Thánh thạch không hoàn thành việc phụng sự,” Jacián nhận xét. “Hoặc chẳng được ai hay biết đến. Có lẽ Invierne đã giết họ và cướp Thánh thạch.”

Alentín nhướng một bên mày. “Nếu đúng vậy thì chúng đã gom Thánh thạch suốt nhiều thế kỉ nay.”

“Hoặc có thể,” tôi chậm rãi nói, “một vài người mang Thánh thạch có gốc gác Invierne.”

Đáp lại tôi là những gương mặt đang mang vẻ hồ nghi buồn cười. Kể cả Belén cũng nhăn mũi khi nghe tới đó. Nhưng họ không hiểu. Tôi muốn tin Thánh thạch được dâng đến tận tay chúng hơn. Nếu không, chúng tôi đành kết luận rằng người Invierne đã trà trộn trong chúng tôi, tước đoạt từ chúng tôi, và giờ sắp hoàn thành một mưu đồ được nuôi hàng thế kỉ.

Nhưng mưu đồ gì nào? “Chúng sẽ làm được điều gì với mười viên Thánh thạch?” Tôi hỏi, giọng run run.

Cuối cùng anh ta cũng ngước nhìn tôi. Thẳng thắn. “Ma thuật. Ngay hiện giờ, chúng đang dùng bùa để chuyển hóa một chút phép thuật chảy ngầm dưới mặt đất. Với mười viên, chúng có thể giải phóng tất cả.”

“Vì sao?” Scriptura Sancta cấm dùng ma thuật. Chắc phải có lí do gì đó.

Nhưng Belén chỉ nhún vai. “Tôi không rõ. Tôi không giỏi Thánh ngữ. Và chúng nói âm điệu nghe lạ lắm. Sau một thời gian, các vết bỏng quá nặng, và khi chúng móc mắt tôi, tôi không còn nghĩ được gì nữa…” Đầu anh lại nghiêng sang bên, má giật giật khi nhớ lại những kí ức kinh khủng kia.

“Belén?” Cosmé gọi khẽ.

Anh chớp mắt, cố tập trung. “Chúng muốn tìm hiểu về cô ấy. Về người mang Thánh thạch này.”

Humberto bước tới và giữ cằm Belén. “Anh đã nói những gì?”

Belén xoay đầu, nhăn nhó. “Tôi không biết. Tôi thực lòng không biết.”

“Anh có kể về nơi này không? Về Malficio nữa?”

Một dòng nước mắt ứa ra từ mắt Belén. “Tôi không biết, Humberto! Tôi nghĩ là không. Trong đầu tôi lúc đó chỉ có ý nghĩ rằng mình đã sai rồi. Sai to rồi.”

“Và rồi kì diệu thay, anh trốn thoát.” Đó là giọng nói kéo dài, u ám của Jacián. Anh ta gợi tôi nhớ lại nỗi sợ của mình, rằng Belén đã dẫn Invierne tới chỗ chúng tôi, thậm chí còn là cố ý.

“Ôi, không kì diệu gì đâu,” Belén bảo. “Chúng thả cho tôi thoát. Chúng cố bám theo tôi.”

Tôi hỏi, “Sao anh biết chúng không thành công?”

Belén nhắm mắt và dựa vào vách hang. “Tôi đi lòng vòng mấy ngày liền. Tôi không tới đây khi chưa chắc chúng đã mất dấu mình.”

“Anh bị thương nặng,” Jacián nói. “Tôi không nghĩ anh có thể lẩn trốn chúng.”

“Chuyến hành trình không dễ chịu gì,” Belén nói, mắt vẫn nhắm nghiền. “Nhưng tôi đã lừa được chúng.” Tôi muốn tin anh ta, vì Adán và đám bạn không thể tìm ra dấu vết của quân Invierne lén lút tới đây. Chính tôi, một kẻ thiếu kinh nghiệm và vụng về, đã thoát được sự truy đuổi của chúng, vậy hà cớ gì Belén lại không thể? Và chuyến đi của tôi cũng chẳng dễ chịu gì.

“Con nhắc tới mười viên Thánh thạch,” Alentín lên tiếng. “Con thực sự nghĩ rằng Invierne có thể dùng chúng để giải phóng ma thuật tại thế giới này?”

“Invierne tin vậy. Chúng tin tưởng vô cùng. Giờ tất cả đang lùng tìm Elisa.”

Chúng tôi hỏi thêm vài câu trong khi Cosmé canh chừng như một con mèo mẹ đa nghi, nhưng Belén cũng chẳng nắm được thêm nhiều nhặn gì. Chúng tôi thấy việc phản bội của anh ta chẳng liên quan tới lời mời của bá tước, và mọi người rời hang nghỉ ngơi một chút trước chuyến đi ngày mai.

Tôi nán lại một lát, không thể rời mắt khỏi đôi má hóp, vết sẹo bỏng trên cổ và vai, tứ chi run rẩy của Belén. Tôi không biết anh rõ như Humberto hay Cosmé. Nhưng, tôi vẫn tiếc cho nụ cười thoải mái và cách anh sải bước vững chãi trên sa mạc hồi nào. Tôi buộc mình không được phép thương hại. Chính Belén đã quyết định trở thành kẻ phản bội, dù theo một cách khiên cưỡng. Nếu Alodia ở đây, hẳn chị sẽ ra lệnh xử tử anh vì tội phản bội.

Nhưng tôi không phải chị mình.

Tôi cảm ơn Cosmé vì đã chăm sóc anh và bảo Belén nên nghỉ ngơi trước khi quay về nhà. Tôi nằm thao thức một hồi lâu, nghĩ về Humberto, Belén, tự hỏi không hiểu Invierne có âm mưu gì. Mãi đến khi sắp ngủ mất, tôi mới nhận ra mình chưa ăn tối.

Trời tối và buốt giá khi Humberto đánh thức tôi. Tôi cuộn túi ngủ và đeo túi trước khi theo anh ra ngoài trời tờ mờ sáng và rét căm căm. Ở phương đông, bầu trời màu xanh mực đang dần nhuốm sắc vàng bắt đầu bừng lên phía dãy Sierra Sangre xa xa. Tôi đắm đuối nhìn dãy núi, nghĩ tới đội quân hùng hậu đang ẩn náu ở nơi ấy.

Chúng tôi nhẹ bước đi giữa những căn nhà gạch sống. Kế hoạch phá hoại đồ cống nạp cho Invierne của chúng tôi thành hay bại phụ thuộc vào chuyến đi này có diễn ra trong âm thầm hay chăng. Sứ giả mang lời mời của bá tước không hề biết chúng tôi đã đi, nếu không hắn sẽ truyền tin về Basajuan. Adán và những người khác được lệnh khiến hắn bận rộn và xao lãng – dù cho có phải giam cầm hắn đi chăng nữa – để đoan chắc chúng tôi có vài ngày lợi thế.

Tiếng hí khe khẽ đón chúng tôi ở bên kia ụ đất. Jacián đã có mặt, đang giữ cương hai con ngựa; chúng to khỏe và cùng màu với màn đêm. Tôi giật mình khi một con lắc đầu, khiến miếng kim loại che má kêu rổn rảng.

“Ngựa sao?” Tôi nói nhỏ với Humberto dù nghe cứ the thé. “Em tưởng chúng ta dùng lạc đà chứ?”

Mặt tôi nóng bừng trước tiếng cười nhẹ của anh. “Ngựa di chuyển nhanh hơn. Vả lại, chúng ta sẽ không tiến sâu vào sa mạc mà cần đến lạc đà. Đừng lo. Em không phải cưỡi ngựa đâu.”

Tôi thở dài nhẹ nhõm và quyết tránh xa lũ động vật kia.

Những người khác đến theo từng nhóm yên lặng hai hoặc ba người, và chẳng mấy chốc đã đầy đủ. Với Jacián dẫn đường, chúng tôi sải những bước dài về hướng tây. Chúng tôi là nhóm mười người hoàn hảo, bao gồm cả Cosmé kiệm lời và Mara cao kều. Tôi áp ngón tay lên Thánh thạch và cầu nguyện cho chuyến đi lần này sẽ không gặp vận rủi như lần trước.

Chúng tôi rẽ sang hướng bắc và tận dụng địa hình bằng phẳng để bước những bước dài, vững vàng. Mừng sao, chân tôi không còn nhũn ra nữa. Mắt cá chân tôi không đau, phổi không khó chịu, da chân vẫn nhẵn mịn. Nhờ có lũ ngựa mà chúng tôi mang theo được nhiều lương thực hơn lần trước, và hàng đêm, Mara nấu cho tất cả, đổi món từ bánh mì ổ ăn kèm thịt khô hầm sang thịt thỏ hoặc gà tây hoang mới bắt. Cô còn mang túi gia vị riêng theo để cho đồ ăn được đậm đà.

Trong chuyến đi, Cosmé trở nên xa cách và im lặng, gương mặt đẹp mang vẻ kiên nghị. Humberto bảo cô không muốn bỏ Belén lại, nhưng vì anh, Jacián và cha Alentín nói mãi nên cô mới đồng ý đi cùng. Anh bảo rằng cô cư xử thế này là bình thường, rằng cô sẽ im như thóc đến mấy ngày liền nếu chuyện không như ý mình. Humberto hiểu Cosmé hơn tôi, nhưng tôi lại không muốn kệ cô như vậy. Tôi sợ sự thu mình của cô còn vì nguyên nhân sâu sa hơn anh tưởng.

Sau một tuần di chuyển không ngừng nghỉ, Jacián dẫn chúng tôi về hướng đông, trở lại vùng trung du. Mặt trời treo cao tỏa nắng nóng, và mồ hôi chảy ròng ròng xuống, thấm ướt cổ áo choàng khi tôi ngửi thấy mùi khói. Lúc đầu, tôi tưởng đó là mùi bếp lửa của một người khách lữ hành nào đó. Nhưng càng đi, mùi đó càng nồng, rồi sặc sụa khó chịu. Chúng tôi lo lắng nhìn nhau. Tôi đặt ngón tay lên Thánh thạch, xem xem nó có lạnh đi chút nào không, hay có một chút hơi ấm, bất cứ hoạt động gì cho tôi bằng chứng về chuyện phía trước. Nhưng nó chẳng khác gì một viên đá bình thường.

Chúng tôi leo lên một lằn đá và cuối cùng cũng thấy được, phía trước về phương nam là khói bốc lên mù mịt ở đường chân trời. Đó không phải lửa trại liu riu, mà là cả một đám nâu, màu của sự tàn phá, đang bốc tỏa ngùn ngụt.

Jacián quay sang nhìn chúng tôi. “Làng Cerrolindo bị đốt,” anh nói. “Tôi sẽ dẫn đường đi vòng qua đó, nhưng…”

“Có thể có người sống sót,” Cosmé xen vào.

Chúng tôi nhìn nhau, và nhìn vẻ mặt kiên định của những người đồng hành, tôi đã biết quyết định của họ.

“Elisa,” Humberto nói. “Thánh thạch của em. Nó có báo động gì không?”

Tôi lắc đầu. “Không.”

“Vậy là kẻ địch đã bỏ đi rồi,” Jacián tuyên bố, và chúng tôi vội vàng rảo bước xuống đồi theo anh.

Khi tới ngôi làng nọ, tôi suýt khóc nức vì khói bốc lên không thương xót và vì sự khiếp đảm của chính mình. Khói cay xè khiến tôi khó lòng mở mắt, và qua đôi mắt ầng ậng nước và khói nóng, tôi có thể thấy những xác nhà đen đúa. Những cột gỗ đã biến thành than, bồ hóng bám đầy tường đá, còn bàn ghế đã sập cả và cháy đỏ rực.

“Hãy tìm xem còn ai sống sót không!” Humberto hét. Anh kéo mũ trùm lên đầu và quấn khăn che mũi và miệng. Tôi vội làm theo. “Và cẩn thận đấy,” anh nói lớn. “Mấy căn nhà đó có thể đổ sập bất cứ lúc nào.”

Tôi vội đi theo những con đường và hẻm ngõ quanh co, chớp mắt cố tìm người sống. Tôi suýt vấp phải một cái xác động vật đã hóa thành tro – tôi không rõ đó là xác cừu hay chó nữa – và thiếu chút nữa đã nôn thốc nôn tháo vì mùi thịt cháy, chất lỏng đỏ au ồ ồ chảy ra từ những kẽ nứt trên lớp da cháy đen.

“Ở đằng này!”

Tôi không biết ai vừa hô lên hay giọng nói phát ra từ đâu, nhưng nó cho tôi hi vọng. “Ở đâu đấy?” Tôi hét lên hỏi lại.

“Phía bắc cuối làng!” Là giọng Humberto.

Tôi lao trở vào màn khói, cẳng tay giơ lên để che chắn mắt khỏi khói mù mịt, và đi theo hướng tôi nghĩ là hướng bắc. Tôi thấy một người cao cao bên trái. Đó là Mara. Cô vội đến bên, và chúng tôi sóng bước chạy.

Phổi tôi đau rát khi chúng tôi tới được địa điểm đó, thấy bốn người đang túm tụm bên nhau, đen đúa bụi than và đang ho sặc sụa. Humberto ngồi xổm bên đứa nhỏ nhất và thì thầm an ủi. Anh ngước lên nhìn tôi khi Mara và tôi tới. Trong mắt anh có lệ.

“Họ bị nhốt trong căn nhà đó,” anh run run nói. “Họ bị bỏ cho chết cháy.”

“Ôi Chúa ơi.” Sự độc ác thật không thể nào tả siết. “Ai đã làm vậy?” Tôi hỏi, như thể không biết. Thánh thạch đưa cái nóng rát lên ngực để đáp lại cơn thịnh nộ của tôi.

Một gương mặt ngó nhìn tôi. Một người phụ nữ mắt đang mở lớn, bị bỏng nặng. “Lũ người thú,” cô ta thều thào. “Chúng nói chúng đang báo thù. Chúng nói mỗi khi Malficio tấn công chúng, chúng sẽ tiêu diệt một ngôi làng.”

Cô ta gập người ho hắng, nhưng tôi chẳng để ý nữa. Mặt đất dưới chân tôi đang rung chuyển ghê gớm.