C
húng tôi chỉ còn biết hi vọng phần lớn dân làng đã chạy thoát, vì không tìm được thêm người sống sót và chỉ có vài thi thể đã hóa thành tro. Tôi ngồi thu lu cách một khoảng an toàn, trên một sườn đồi trơ trụi, ôm đầu gối sát ngực. Những người đồng hành cùng tôi đang lục tìm trong đám phế tích còn bốc khói xem có cứu được gì chăng. Tôi nên giúp họ, nhưng bụng tôi quặn lại, nước mắt chảy tràn xuống má, và tôi đã quá, quá mệt mỏi.
Mấy tuần qua, tôi những tưởng mình hữu dụng. Tôi trân trọng những chiến tích của Malficio, lấy làm kiêu hãnh vì nhóm nổi loạn ít ỏi của mình luôn xin tôi chỉ đường dẫn lối và truyền cảm hứng. Tôi đã cho phép mình thấy bản thân hoàn hảo, trưởng thành. Nhưng tôi là đứa ngốc.
Jacián sẽ nói rằng cuộc chiến nào cũng có tổn thất. Humberto sẽ an ủi rằng đây chẳng phải lỗi do tôi. Cả hai đều đúng. Nhưng trong thời khắc này, tôi nhắm mắt và cảm nhận được sức nặng của bao nhiêu con người đã bỏ mạng đè lên vai.
“Elisa!”
Tôi mở choàng mắt. Humberto đang chạy vội tới.
“Em dễ thở hơn chưa?” Anh hỏi, mắt nhìn quanh.
Tôi gật đầu. “Gia đình đó sao rồi?”
Anh ngồi xuống cạnh tôi. “Họ có họ hàng sống gần đây. Cosmé đề nghị họ cùng chúng ta tới Basajuan, nhưng họ muốn ở lại để tìm người còn sống. Chúng ta đã cho họ lương thực và nước uống.”
Tôi không nói không rằng. Anh nhẹ nhàng khoác tay lên vai tôi và kéo tôi dựa vào anh. “Đây không phải lỗi của em,” anh thì thầm bên tóc tôi.
“Em biết.” Nhưng nước mắt lại tràn ra, làm cay xè mắt tôi.
“Giờ anh chỉ bận tâm rằng chúng ta đã đi được bao xa về hướng tây rồi. Anh không nghĩ Invierne hiện diện gần sa mạc thế này. Chưa thì đúng hơn.”
“Có lẽ chúng sẽ hành quân tới kinh thành sớm hơn ta dự kiến.” Tôi dụi mũi vào vải áo anh, chỉ mơ màng nghĩ tới hành động của chúng tôi không phù hợp. Tôi nên tránh xa Humberto. Tôi nên chuẩn bị tinh thần làm vợ của một vị vua.
“Jacián cũng nói thế. Chúng ta không thể nán lại lâu. Chúng ta phải khởi hành đi Basajuan ngay.”
“Nếu chúng muốn đốt làng vì một cuộc cướp phá ngu ngốc của ta, vậy thì chúng sẽ làm gì nếu ta đầu độc thức ăn của chúng?”
Tôi cảm nhận ngực anh phập phồng vì một tiếng thở dài. “Đây là lí do chúng ta làm việc này, Elisa,” anh dịu dàng bảo. “Nhớ chứ? Chúng ta muốn Invierne trả đũa bá tước.”
“Chúng ta sẽ khiến nhiều người phải chết.”
“Ừ.”
Có gì đó về cách anh thật lòng đánh giá tình hình khiến tôi tỉnh táo. Anh chấp nhận lựa chọn của chúng tôi. Tin vào nó. Nhưng anh không thể che giấu nỗi buồn trong giọng mình.
Tôi đứng lên duỗi người, giãn khoảng cách giữa hai chúng tôi. “Vậy chúng ta đi thôi,” tôi nói.
Những tiếng cười đùa vô tư lự trong chặng đầu chuyến đi giờ bị thay thế bằng sự im lặng ẩn tàng nguy hiểm. Tôi cũng không muốn nói. Thay vào đó, tôi dành thời gian thử nghiệm với hai viên Thánh thạch.
Viên của tôi dường như chưa từng làm được điều kì diệu nào. Nó có sự sống, chắc rồi. Có lẽ nó là đường dây liên lạc – một mối liên kết giữa tôi và Chúa. Nhưng người thú sử dụng những viên Thánh thạch không còn đập trong cơ thể người sở hữu chúng để triệu hồi ma thuật chảy trong lòng đất. Tôi nhớ cách người thú nắm chặt bùa để làm chúng tôi đứng đờ tại chỗ, và nó tỏa ánh sáng xanh rực rỡ khi hắn định thiêu tôi.
Nghĩ tới rất nhiều lời cảnh cáo về ma thuật trongScriptura Sancta, tôi thò tay vào cổ áo và nắm lấy cái lồng. Cầu Chúa hãy bảo vệ con bình an, tôi cầu nguyện. Viên đá của tôi nóng lên đáp lại.
Nắm lấy viên đá nằm trong lồng, tôi nghĩ rất lung về ma thuật dưới mặt đất. Trí óc tôi tập trung nghĩ về đất đai khô cằn. Tôi tưởng tượng viên đá ấm lên trong tay tôi; tôi tưởng tượng lửa bắn ra đốt cháy cây bách xù khẳng khiu bên trái. Tôi tưởng tượng ra rất nhiều đến độ vấp phải một tảng đá nhô lên và ngã khuỵu gối.
“Elisa!” Humberto kéo tôi đứng dậy và giữ vững. “Em có đau không?”
Anh giữ nách tôi quá chặt, nhưng tôi mặc kệ. Tôi dựa vào anh. “Cảm ơn anh,” tôi thì thầm bên tai anh. Tôi thấy cách anh phản ứng với việc tôi quá thân cận – mắt anh nhắm chặt, anh hít một hơi sâu – và cả người tôi nóng lên đến đau đớn. Tôi muốn vòng tay qua cổ anh, vuốt ve mái tóc mềm mại của anh.
Nhưng tôi không thể để mình mải nghĩ về chuyện đó. “Em ổn,” tôi nói nhỏ, phẩy bụi đất khỏi vạt áo trước để cho tay mình có việc khác mà làm. Tim tôi quặn lại khi thấy vẻ tổn thương của anh, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục đi.
Từ đây cách Basajuan hai ngày đường, nhưng trong hai ngày ấy, tôi chẳng thể khám phá ra phản ứng của viên Thánh thạch kì lạ.
Thành phố của bá tước Treviño nằm gọn trong vùng trũng nơi hai dãy núi gặp nhau, dãy Sierra Sangre ở phía đông và dãy Hinder rậm rì rừng cây ở phía bắc. Nơi này mát mẻ hơn, không khí ẩm như tấm chăn phủ lên người tôi. Nghe tôi nói vậy, Humberto cười và trấn an rằng với tôi giờ thì bầu không khí quê nhà cũng như vậy, vì tôi đã quen với sống sâu trong sa mạc.
Chúng tôi lang thang giữa những căn nhà hai tầng duyên dáng có cửa sổ rộng và gờ đặt các chậu hoa. Tôi bị hút hồn bởi những bức tường tươi tắn, với màu vàng và đỏ san hô chiếm đa số, điểm xuyết sắc xanh lam và tím nhạt mát mắt. Những khung sắt uốn cong cong quanh các ô cửa sổ và cửa chính, những viên gạch lát sáng màu – cùng họa tiết hoa màu vàng xanh lạ lùng như trong căn buồng của tôi tại cung điện của Alejandro – cùng những mái tò vò và bậc thang. Nơi này ấm cúng, sáng sủa, và ngực tôi đau nhói vì nhận ra nó làm mình nhớ đến Amalur quê nhà.
Jacián thuê một tàu ngựa cho lũ ngựa, rồi dẫn chúng tôi đến một căn nhà ba tầng rộng rãi nằm sau một quán ăn thoáng gió. Những chiếc bàn dài được đặt dưới một mái hiên lát gạch đỏ, và một quầy đằng sau được sơn sặc sỡ hứa hẹn sẽ phục vụ món nem và thịt hầm đậm đà. Đằng sau đó, các đầu bếp đang luôn tay luôn chân nấu nướng phục vụ thực khách. Nhóm chúng tôi ngồi vào hai bàn trong lúc Jacián gọi đồ ăn.
Nếu được hỏi, chúng tôi sẽ nhận mình là dân tị nạn từ Cerrolindo, tới để đổi số tài sản ít ỏi còn lại lấy tiền rồi sẽ chạy khỏi chốn này trước khi chiến tranh bùng nổ. Đó là ý tưởng của Mara, và tất cả đều nhất trí. Một câu chuyện như thế không chỉ đáng được tán dương, mà còn cho thấy rõ sự bất tài – hoặc không muốn – bảo vệ người dân của bá tước.
Jacián quay lại và ngồi xuống cùng chúng tôi chờ đợi. “Họ cho khách trọ ở tầng trên,” anh bảo. “Tôi đã đặt hai phòng.” Anh hạ giọng. “Chúng ta sẽ ở đây cho tới khi thu thập đủ thông tin cần thiết. Nó cách cung điện của bá tước đủ xa nên sẽ tránh bị nhòm ngó.”
Anh quay sang tôi. “Elisa, tôi đã hỏi trạm thư bồ câu giùm cô. Vẫn chưa có thư của bà vú đâu.”
“Ờ.” Tôi tự nhủ, thời gian trôi qua cũng chưa lâu mà. Ít nhất đến giờ bà cũng đã biết tôi bình an. “Cảm ơn anh.”
Tiếng chuông nhà nguyện xa xa điểm ba tiếng báo giữa trưa thì một cậu nhóc nhỏ bé, đi chân đất mang hai đĩa thịt bò xé cay ăn kèm bánh mì ổ vào. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn Jacián.
Anh cười, và tôi khá choáng váng trước sự vui vẻ trong đôi mắt thường u ám của anh. “Tôi vung tay quá trán một chút,” anh thừa nhận. “Tôi biết chúng ta không có nhiều tiền, nhưng chúng ta đã sống ngoài sa mạc lâu quá rồi. Có lẽ phải cả năm có lẻ tôi chưa được ăn thịt bò.”
Chúng tôi chẳng cần ai mời mọc. Chúng tôi ăn nhồm nhoàm nô nê, cười với cái miệng đầy thịt, với đống hổ lốn chúng tôi gây ra khi cố chấm nước thịt bằng bánh mì. Nhưng đôi mắt Cosmé và Humberto buồn buồn, và tôi tự hỏi họ có cùng chung ý nghĩ nghiêm túc với tôi về lí do thật sự Jacián gọi một bữa ăn thịnh soạn cuối cùng chăng.
Phòng của chúng tôi trống trải nhưng được cái sạch sẽ, và chủ nhà trọ giúp chúng tôi lôi vài nệm rơm từ nhà kho để bổ sung them vào mấy tấm chiếu rách. Cosmé, Mara và tôi là ba cô gái duy nhất trong nhóm mười người, vậy nên Jacián và Humberto ở cùng phòng với chúng tôi. Tôi ngủ cạnh Humberto đã không biết bao nhiêu đêm, lại còn có anh chắn cửa nhà mình ở ngôi làng của Alentín. Nhưng không hiểu vì sao, trong không gian nhỏ bé này, tôi cảm giác thân mật hơn, và cực kì để ý tới anh khi chúng tôi tháo đồ và trải nệm rơm.
Sửa soạn xong, Cosmé và Jacián ra ngoài đi loanh quanh tìm người quen. Tôi đề nghị đi cùng, nhưng Cosmé chỉ cười. “Cô sẽ làm tôi chậm bước mất,” cô bảo. “Tôi được dạy cách thu thập thông tin. Hãy nghỉ ngơi ở đây đi; tôi sẽ về sớm thôi.”
Khi họ đóng cửa lại, tôi nói đổng: “Sao một người trẻ như vậy lại biết nhiều thế nhỉ?”
“Ý cô là sao?” Mara hỏi.
“Cosmé là hầu gái của tôi một thời gian ngắn tại Brisadulce. Rồi tôi biết cô ấy vẫn dẫn người băng sa mạc. Và là thầy thuốc nữa. Và tất nhiên, một gián điệp.” Tôi quay sang Humberto. “Ai ở phía bên này sa mạc cũng đa tài vậy sao?”
Anh cười. “Chỉ những cô con gái phiền phức của những lão bá tước ương ngạnh mà thôi.”
Tôi trợn tròn mắt. Thì ra là vậy. Mắt xích còn thiếu giữa Cosmé và Treviño. “Nhưng em tưởng Cosmé là chị gái anh?”
“Ừ. Cùng cha khác mẹ.”
Mara thối lui một bước. “Tôi không chắc mình nên nghe…”
“Cosmé không ngại nếu cô biết chuyện đâu,” anh an ủi. “Không phải bây giờ. Nhưng chúng tôi chẳng mấy đề cập tới nó. Chị ấy coi bố tôi như cha đẻ, và chị thấy cứ ba hoa về mối quan hệ giữa chị và bá tước là làm xấu mặt ông.”
“Cosmé nói Invierne đã giết bố mẹ cô ấy,” tôi kể lại.
Anh gật đầu. “Khoảng năm năm về trước. Đó là khoảng thời gian tồi tệ với chúng tôi.” Anh ngồi xuống chiếu và vuốt râu cằm lún phún. “Cosmé tới xin bá tước giúp. Chị muốn báo thù, nhưng…”
“Treviño chưa từng có ý định chống trả Invierne.”
“Chưa từng, kể từ ngày quân địch tràn vào mảnh đất này. Chị ấy rất kiên quyết. Tất nhiên, bá tước chẳng làm gì, nhưng quyết định giữ chị trong lâu đài. Lúc đầu, ông ta chỉ muốn giám sát chị thật chặt. Nhưng dần dà ông ta có hứng thú với chị. Rất hứng thú là đằng khác. Và vì thế mà chị thấy khó chịu.”
“Ông ta dạy chị đủ mọi kĩ năng và giao chị vị trí tì nữ cho cô chị cùng cha khác mẹ Ariña. Hình như họ sống với nhau cũng hòa thuận. Họ còn đạt được một thỏa thuận nữa là đằng khác. Ariña hứa với Cosmé rằng nếu vua Alejandro kết hôn với mình, cô ta sẽ để Cosmé thừa kế lãnh địa của Treviño.”
Tôi trố mắt nhìn. “Vậy Cosmé nên ở lại Brisadulce chứ? Cô ấy nên giúp Ariña trở thành hoàng hậu, để mình giữ vị trí nữ bá tước.”
Humberto gật đầu. “Nên vậy. Nhưng chị ấy tin rằng cha và chị mình sẽ bán linh hồn cho Invierne để đạt được mục đích. Có lẽ họ đã bán rồi cũng chưa biết chừng.” Mắt anh thất thần và đôi lông mày nhíu lại. “Hai chị em anh chứng kiến cảnh ngọn lửa của người thú liếm trọn cha mẹ. Chị ấy sẽ không bao giờ quên. Vậy nên khi bác Alentín trốn khỏi tu viện và bắt đầu khởi nghĩa, bọn anh âm thầm giúp đỡ, và thề sẽ tìm ra người mang Thánh thạch.”
Tôi ngồi xuống bên cạnh Humberto để ngẫm nghĩ về lời anh nói. “Nếu việc này thành công, Humberto, nếu em có thể giữ lời hứa và trao quyền tự trị cho người dân mảnh đất này, vậy cuối cùng thì Cosmé cũng trở thành nữ bá tước. Thậm chí là nữ hoàng.”
Anh hích vai tôi và cười. “Thế nên anh mới kể chuyện cho em đấy.”
Mara ngại ngùng đứng đờ ra bên bức tường đối diện, mắt trợn tròn như con thú vướng bẫy. “Tôi đi tìm nước đây,” cô bảo. “Tôi muốn gội đầu.”
Sau khi cô bỏ chạy mất, Humberto và tôi ngượng ngùng nhìn nhau.
“Hai ngày nay em toàn tránh mặt anh,” anh nói giọng đều đều, cẩn trọng.
Tôi nhìn tay mình. “Vâng.”
Anh cúi người, khuỷu tay chống đầu gối. “Không sao đâu. Anh hiểu mà.”
Đùi chúng tôi rất sát nhau. Nếu chỉ cần một người hơi nhúc nhích, chúng tôi sẽ vô tình chạm vào nhau mất. “Em rất xin lỗi, Humberto. Nhưng em phải là vợ Alejandro mới mong thực hiện được lời hứa.”
“Em chưa từng chung giường với ngài ấy.” Đó là câu trần thuật chứ không phải câu hỏi.
Tôi nuốt nước bọt, không chắc nên thảo luận chuyện này với anh. “Vâng.”
Anh quay sang tôi, nheo mắt. “Elisa, nếu có cách, bất cứ cách gì, để em thoát khỏi cuộc hôn nhân với đức vua, em có làm không?”
“Bất cứ cách gì?”
“Ý anh là cách nào đó không làm em tủi hổ.”
Tôi cố mường tượng gương mặt chồng mình. Tôi thường hình dung ra gương mặt chàng rất rõ ràng. Nhưng bây giờ, thời gian và khoảng cách đã làm nhạt nhòa tất cả.
Tôi ngước nhìn Humberto, nhìn đôi gò má cao đậm chất dân sa mạc, quai hàm kiên định, đôi môi luôn như sắp cười. Và tôi nhận ra kí ức về Alejandro nhạt nhòa không phải vì thời gian, mà vì một gương mặt khác, tốt đẹp hơn, thân thương hơn giờ đã tràn ngập tâm trí tôi.
Đôi mắt Humberto sáng lên niềm hi vọng mong manh, và tôi chỉ muốn vuốt mái tóc rối của anh và nói với anh rằng chuyện giữa chúng tôi sẽ thành. Tôi sẽ cho anh điều mình có thể. “Nếu có cách, vậy vâng, em sẽ chọn rời xa Alejandro.”
Anh mỉm cười. “Anh vui lắm.”
Chúng tôi im lặng ngồi bên nhau, cả hai đều cẩn thận không đụng chạm vào nhau. Tôi nhìn xuống váy để tránh ánh mắt anh và nhận thấy chân mình nhỏ đi nhiều. Tôi lén nhìn Humberto, vui vẻ vì biết chắc chắn anh vẫn quan tâm đến tôi – kể cả nếu tôi tiếp tục ngày lại ngày ăn bánh ngọt.
“Em cười gì vậy?” Anh hỏi.
Tôi không phải trả lời vì Mara đã trở lại cùng tin tức rằng cô đã đổi một miếng da cừu lấy xà phòng và nước nóng.
Mara đang bện mái tóc ướt cho tôi thì Cosmé và Jacián trở về. Nhìn vẻ mặt Cosmé, sự u ám trong đôi mắt đen của Jacián là tôi biết có chuyện không hay.
“Sao vậy? Không ai nói chuyện với hai người à?” Tôi hỏi.
“Chúng tôi đã tìm hiểu được rồi,” Cosmé gắt. Cô bắt đầu đi đi lại lại.
Tôi hoảng hốt nhìn Humberto. Anh chỉ nhún vai như muốn nói, Cứ để cho chị ấy một thời gian.
Cosmé trề môi, rồi buột miệng, “Xe hàng tiếp tế sẽ rời đi ngay sáng mai. Chúng ta phải hành động trong tối nay.”
Tối nay! Tôi cứ hi vọng chúng tôi sẽ có một khoảng thời gian trước khi triển khai ý tưởng, có thể dành chút thời gian cầu nguyện, lấy thêm can đảm.
“Đồ cống nạp do các tu sĩ thu thập,” cô nói tiếp. “Và được cất giữ nghiêm cẩn trong tu viện.”
Bụng dạ tôi nhũn ra trước những lời ấy. Các tu sĩ chịu làm một việc như vậy phải là những kẻ kín kẽ như bưng. Thể nào Cosmé và Jacián lại cáu giận.
“Chúng ta có tìm được đường vào không?” Tôi hỏi.
Jacián gật đầu. “Tối nay trong tu viện tổ chức bí tích đau thương. Cả mười người chúng ta sẽ đi, rồi lẻn vào bếp sau buổi lễ trong khi đám đông rời tu viện. Chúng ta sẽ mang theo toàn bộ bột mộng diệp mình có. Hi vọng ít nhất hai hoặc ba người sẽ tìm được nơi cất hàng.”
“Và nếu chúng ta bị bắt?” Mara lí nhí hỏi.
“Nếu có ai bị bắt, Elisa sẽ cứu chúng ta,” Cosmé nói thẳng.
“Tôi ư?”
“Lúc đó cô sẽ tiết lộ thân phận thủ lĩnh Malficio. Cô sẽ chỉ đồng ý thỏa thuận nếu họ chịu thả chúng tôi.”
Tôi nheo mắt. “Vậy các cô sẽ có khả năng mất mạng,” tôi bảo. “Chúng ta không thể nắm chắc ý định của bá tước.”
Cosmé hất hàm thách thức. “Không ai nói nhiệm vụ của chúng ta không hề có rủi ro.”
Tôi thở dài, vô cùng ghét khoảnh khắc này. “Nói cách khác, chúng ta không có kế hoạch tẩu thoát thật sự.”
Bỗng nhiên, Mara bình thản nói, “Nếu chúng ta có thể buộc bá tước tự vệ, vậy cũng đáng. Các nguồn cung của ông ta nhiều hơn nhiều so với nhóm Malficio nhỏ bé của chúng ta.”
“Đây có thể là ưu thế chồng em cần để thắng cuộc chiến này,” Humberto bổ sung.
Tôi nhăn mày. “Cosmé, cô dùng mối liên hệ với bá tước để chúng ta thoát nạn được không?”
Cô gái nhíu mày.
“Em đã kể hết rồi,” Humberto giải thích.
“Tôi sẽ thử,” cô sượng sùng nói. “Dù tôi không thích dùng mối quan hệ của mình với ông ta vào mục đích gì. Rất không thích. Xin xỏ ông ta làm tôi… không thoải mái. Sẽ có một cái giá phải trả.”
Tôi trầm ngâm nhìn cô. “Vậy chúng ta sẽ cố không dùng tới. Giờ hãy thông báo kế hoạch với mọi người và lên đường thôi.”
Tu viện này là một phiên bản nhỏ hơn của tu viện do cha Nicandro cai quản tại Brisadulce. Cũng những bức tường gạch sống, cũng những cây nến nguyện và hàng ghế gỗ dài. Và cũng như tại Brisadulce, số người lui tới cầu nguyện rất thưa thớt, các hàng ghế chẳng có mấy người ngồi. Tôi đã hi vọng ở đây đông hơn để chúng tôi dễ dàng trà trộn hơn.
Áo choàng sa mạc của chúng tôi không có gì nổi bật, phù hợp với những con người đang muốn ăn năn sám hối trong bí tích đau thương. Cosmé và Humberto trùm mũ để tránh bị nhận ra trong lúc chúng tôi nối đuôi nhau đi vào như những con chiên ngoan đạo. Chúng tôi tản ra để tránh bị nghi ngờ, và tiếng thì thầm cầu nguyện bắt đầu vang trong sảnh, lên bổng xuống trầm theo nhịp dìu dặt. Thánh thạch của tôi tỏa hơi ấm dễ chịu.
Gần khám thờ, một tu sĩ đang cúi đầu bỗng ngẩng phắt lên. Ông ta nhìn khắp sảnh đường đang đông dần.
Tôi cúi đầu và núp sau Cosmé khi cô tiến lên, lầm bầm chửi thề vì đã quên mất một điều cực kì quan trọng. Trốn sau lưng cô thật chẳng có tác dụng gì, vì cô thanh mảnh còn tôi thì không, nhưng tu sĩ vẫn nhìn khắp nơi, không chú ý đến tôi. Hành động nhanh nhất có thể, tôi kéo khuỷu tay và lôi cô vào hàng ghế gần nhất. Chúng tôi đồng thời ngồi xuống, đùi sượt vào nhau.
Cô nói thầm, đầu cúi, “Chúng ta phải tách ra và…”
“Tu sĩ có thể cảm nhận được Thánh thạch. Như cha Alentín và cha Nicandro vậy. Tôi không dám lại gần hơn.”
Một tiếng hít vào khe khẽ. Rồi: “Cô nên đi. Đi ngay khi mọi người đứng lên chấp nhận lời mời.”
Tôi định gật đầu, rồi nảy ra ý tưởng hay hơn. “Chúng ta có thể dùng Thánh thạch để đánh lạc hướng.”
“Cô nghĩ cô có thể à?” Cosmé thì thầm.
“Có thể. Cuối buổi lễ, cô và những người khác sẽ đi về bếp, còn tôi sẽ ra cửa hậu dẫn vào kí túc xá và cầu nguyện để lôi kéo sự chú ý của họ.”
Cái đầu đang trùm mũ của cô cúi sát hơn và trán cô áp vào trán tôi khi cô nói nhỏ, “Cô chắc chắn muốn làm thế chứ?”
“Ừ. Tôi sẽ gặp lại mọi người tại nhà trọ.” Tôi khá chắc mình có thể tự tìm đường về.
“Họ sẽ biết có người mang Thánh thạch ở đây.”
“Giờ che giấu sự thật cũng muộn mất rồi.”
Một suy nghĩ nghiêm túc, và chúng tôi im lặng phấp phỏng chờ đợi qua các nghi lễ trước khi vào phần chính. Tu sĩ dẫn chúng tôi qua “Glorifica,” và tôi phải cố lắm mới dằn lòng không cầu nguyện trước những ca từ đẹp đẽ ấy. Bất cứ ý nghĩ cầu nguyện nào cũng khiến viên đá trong tôi đáp lại sung sướng, và thay vào đó tôi tập trung nghĩ tới món bánh dừa phết đầy kem, cố nhớ chính xác hương vị và độ mịn của nó trên đầu lưỡi.
Tôi vỗ nhẹ lên ghế khi tu sĩ giơ bông hồng thánh, có những chiếc gai lớn, cao quá đầu và bắt đầu khúc thánh ca ca ngợi sự cứu rỗi. Cuối cùng, ông mời tất cả những ai muốn tham dự bí tích đau thương bước lên. Mara đứng lên phía trước chúng tôi vài băng ghế. Tôi nhận ra vài người khác trong nhóm. Cosmé và Humberto vẫn ngồi, vì sợ bị nhận diện. Trong giây phút không một tiếng cầu nguyện nào ấy, tôi thấy mất mát và có linh cảm xấu.
Cuối cùng, buổi lễ cũng kết thúc. Những con chiên còn lại đang được chăm sóc ngón tay chảy máu trong khi vị tu sĩ trưởng – vẫn đang lo âu nhìn khắp đám đông – tiếp tục cầu nguyện và khuyên giải những ai cần. Một vài người trong nhóm chúng tôi vờ khẩn khoản cầu xin để dồn ông vào một góc, trong khi những người khác dần lỉnh ra cửa ngách dẫn tới nhà bếp và chuồng ngựa.
Tôi đứng dậy, đầu óc chỉ tập trung đến bánh ngọt, và len lén đi về phía kí túc. Từ khóe mắt, tôi thấy thân hình cao ráo của Mara đang che chắn vị tu sĩ gần nhất bằng sự thông minh hết mực. Tôi không thể không cười khi chui qua vòm cửa mát mẻ, tối tăm.
Nhưng nụ cười của tôi tắt lịm khi thấy một hành lang phụ. Hai hướng để chọn, cả hai đều tối om. Tim đập rộn, tôi chọn đường rẽ ngược ra cửa. Dù tôi không nói gì với Cosmé, nhưng bị bắt ở đây đồng nghĩa với chuyện tôi mất mạng. Cha Alentín đã nói những tu sĩ của tu viện này thèm muốn Thánh thạch chứ không định bảo vệ người mang nó, và rất có thể chỉ cần có cơ hội, họ sẽ nạy viên đá ra khỏi rốn tôi.
Tôi chạy xuôi hành lang, căng mắt nhìn qua bóng tối mịt mùng. Có tiếng bước chân vang xa xa; tôi hi vọng đó chỉ là tiếng những con chiên rời phòng lễ, nhưng chẳng biết thế nào được. Cuối cùng tôi tới một cánh cửa gỗ được cài then, bản lề sắt và vòm tò vò. Tay nắm cửa lành lạnh trong bàn tay tôi khi tôi bắt đầu cầu nguyện.
Chúa ơi, xin ngài hãy giúp con đánh lạc hướng đám tu sĩ.
Thánh thạch nảy lên chào đón, tỏa hơi ấm. Tôi mở cửa.
Cầu Chúa phù hộ cho bạn bè con được bình an. Hãy giúp họ thành công.
Một luồng không khí trong lành, ấm áp phả vào mặt tôi. Tôi vừa bước ra một con phố lát gạch. Những ngọn đuốc cách nhau từng quãng đều đặn tỏa ánh sáng nâu vàng xuống đường. Phía trước là một nhóm con chiên mặc áo choàng, đang cười đùa với nhau với sự nhẹ nhõm quen thuộc thường theo sau mỗi buổi bí tích đau thương. Tôi ở gần lối ra chính hơn mình tưởng.
Con cảm ơn Chúa, vì thành phố xinh đẹp này. Nếu đây là ý của Ngài, xin Ngài hãy bảo vệ nó, đừng để nó bị phá hủy.
“Tôi lại cảm thấy rồi!” Một giọng nam, từ xa vọng lại nhưng thúc giục. “Lối này!”
Tôi ngồi sụp xuống sau một bụi cây thấp bên tường – mùi hương cho tôi biết đó là bụi dâm bụt đang thời trổ hoa – và lại cố nghĩ về bánh nướng. Nhưng Thánh thạch vẫn tỏa nhiệt như thể tôi đang cầu nguyện.
Tôi nghĩ về gã người thú, với mái tóc bạch kim và đôi mắt xanh, cách hắn uyển chuyển bước đi như mèo quanh khám thờ bập bùng ánh nến.
Thánh thạch lạnh ngắt.
Bản lề kêu kẽo kẹt khi cánh cửa tôi vừa mở để bỏ chạy tháo thân mở ra. Ít nhất có hai tiếng chân chạy qua, dù tôi không dám ngẩng đầu lên nhìn.
“Tôi cảm thấy mà,” một người nói. “Tôi thề đó.”
Mắt như băng đá, cái bùa trong đôi bàn tay dài, đẹp đẽ của hắn bùng lên ánh lửa độc ác…
“Tôi tin anh. Tôi cũng cảm thấy.” Lại có thêm tiếng chân. “Nhưng bây giờ thì chẳng thấy gì nữa rồi.”
“Hay chúng ta đi sai hướng?”
Áo choàng màu thạch anh trắng, gương mặt mịn màng hơn con trẻ…
“Có thể.” Nhưng giọng nói ngập tràn sự ngờ vực. “Chúng ta thử tìm trong kí túc xem sao.”
Họ rời đi, cửa đóng lại, nhưng tôi vẫn co ro sau bụi dâm bụt, mũi ngứa ngáy, và tôi mong không phải vì vướng phải mạng nhện. Tôi suýt nhẹ lòng mà cất tiếng cầu nguyện.
Tôi ngồi chồm hỗm ở đó tới khi khoeo chân tê dại và cổ đau cứng. Sau đó, tôi đứng lên, từ từ và thận trọng, đi xuôi đường với sự dè chừng cẩn trọng, về nhà trọ. Đó là chuyến đi bộ dài nhất đời tôi.
Tôi là người đầu tiên trở về. Tôi dành suốt cả giờ sau đó thành tâm khấn nguyện cho bạn bè mình được bình an. Rồi từng người lần lượt quay về - đầu tiên là Mara, rồi đến hai cung thủ trẻ. Jacián trở về, mệt mỏi nhưng vui vẻ. Carlo, thợ bẫy thú, cùng cậu em Benito vào sau. Chúng tôi đợi một hồi lâu, căng thẳng trước khi gương mặt tươi cười của Bertín xuất hiện tại cửa. Và cuối cùng, ngay khi hi vọng của chúng tôi sắp tắt, thì Cosmé và Humberto lảo đảo bước vào, kiệt sức nhưng cười rất tươi.
Cả mười người chúng tôi đều bình an. Và nhìn những gương mặt ngạo nghễ kia, tôi biết họ đã thành công. Điều này thật vượt quá hi vọng của tôi. Chúng tôi nằm ngả ra đất vừa khóc vừa cười, lòng nhẹ nhõm vô cùng.
Nhưng còn lâu mới xong. Xe lương phải an toàn đến được Invierne. Nó phải khiến nhiều binh sĩ trúng độc tới độ Invierne sẽ liên kết việc đó với đồ cống nạp của bá tước và báo thù. Chúng tôi phải đánh cuộc với Treviño.
Và các tu sĩ Basajuan đã cảm nhận được sự hiện diện của người mang Thánh thạch.
Nhưng tối nay, chúng tôi ăn mừng chiến thắng nho nhỏ của mình.