• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lửa biên thùy
  3. Trang 36

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 35
  • 36
  • 37
  • More pages
  • 40
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 35
  • 36
  • 37
  • More pages
  • 40
  • Sau

Chương 31

K

hi buổi lễ kết thúc, tôi tưởng mình sẽ được tiếp tục tập trung vào vấn đề nghiêm túc là chuẩn bị cho cuộc chiến. Nhưng thay vào đó, dường như một nửa dân chúng Joya d’Arena cần một cuộc hội kiến hoàng gia, hoặc được hưởng ơn rơi mưa móc của hoàng hậu. Nửa còn lại chỉ muốn khiến tôi mắc nợ họ, và họ thủ thỉ với tôi đủ loại vấn đề thích đáng nhất định, tặng tôi không biết bao nhiêu là quà, giới thiệu tôi với những nhân vật tai to mặt lớn trong kinh thành. Tôi dành hai ngày đầu tiên làm hoàng hậu chỉ gật đầu như giã tỏi và nói “Cảm ơn.”

Vào chiều ngày thứ hai, khi phu nhân Jada xinh xắn nhưng chẳng lấy gì làm đáng yêu đang nói chuyện phiếm với tôi trong phòng, thì nỗi thất vọng dâng lên như thác lũ trong lòng tôi. Tôi có thể làm rất nhiều việc. Tôi cần đi tìm Thánh thạch, xem xét chiến lược với tướng quân Luz-Manuel, lo đón dân tị nạn, nói chuyện với nữ bá tước Ariña, hoặc dành thời gian cùng Rosario chẳng hạn.

Rosario. Không ai để ý tới cậu. Không ai quan tâm xem cậu đang làm gì.

Tôi ngắt ngang mấy lời chê bai chuyện giặt giũ đồ lót bằng cách giơ tay. “Ta vừa nhận ra là mình đã quên không tham dự một chuyện vô cùng quan trọng.” Tôi cười giả lả. “Phu nhân lượng thứ cho ta nhé.”

Cô ta chun cái mũi nhỏ vì bối rối nhưng bình tĩnh lại rất nhanh. “Vậy chúng ta sẽ nói chuyện sau vậy.” Nói rồi cô ta nhún gối tạm biệt.

“Ta rất mong chờ.”

Cô ta vừa đi, tôi liền quay sang Ximena. “Rosario sẽ ở trong phòng chúng ta một vài ngày tới. Con muốn kê thêm giường, có thêm quần áo và có lẽ cả đồ chơi nữa. Hãy bảo vú nuôi của hoàng tử rằng bà ấy được nghỉ một tuần. Thôi, vú cứ bảo bà ta không cần quay lại tới khi chiến tranh qua đi.”

Nụ cười của bà rất tươi. “Vú đi ngay đây.”

Tôi sai Mara đi đón cậu bé, rồi dành vài phút đi đi lại lại trong phòng và ngẫm nghĩ. Mỗi lần tôi nhìn gạch lát buồng trong, Thánh thạch lại rung lên phản ứng.

Mara trở lại cùng Rosario. Mắt cậu trợn tròn, tỏ vẻ ngờ vực.

Tôi cười. “Chị nghĩ có lẽ em sẽ muốn ở cùng một thời gian.”

Cậu bé nheo mắt. “Vì sao?”

Tôi mở miệng định nói mấy lời dỗ dành vô thưởng vô phạt. Để chúng ta hiểu nhau hơn, hoặc Chị cần người bầu bạn. Nhưng tôi bỗng nhớ lại thời ấu thơ tại cung điện của phụ vương, nghe người lớn phỉnh phờ mình, và tôi liền bảo, “Chị cần em giúp.”

Cậu bĩu môi nghiêm túc cân nhắc. “Em đã bảo phụ vương rằng em giúp được. Về chuyện chiến tranh. Nhưng phụ vương bảo đợi em lớn hơn đã.”

“Ừ, nhưng chị cần em giúp ngay. Về chuyện chiến tranh. Em có muốn làm gián điệp không?”

Đôi môi cậu cong lên thành một nụ cười lỏn lẻn.

Chiều muộn, làn sóng dân tản cư đầu tiên đã tới. Hầu hết đều còn trẻ và khỏe mạnh – những người có thể đi nhanh. Chúng tôi sắp xếp chỗ ở cho vài trăm người trong cung điện, một trăm người nữa ở các tòa nhà lân cận. Tôi dành thời gian đầu giờ chiều để trấn an họ, lắng nghe từ câu chuyện về hành trình gian khổ và trốn thoát của họ để xem có chút tin tức gì về bạn bè mình không. Tôi biết Malficio tiếp tục tỏ uy thế, rằng hàng ngàn người, chủ yếu là nạn dân, hiện đang góp công sức vào đó. Nhưng Thánh thạch cứ lạnh dần, và tôi lo cho những người không tới kịp.

Đêm đó trong yến sảnh, tôi ăn riêng với chồng và tướng quân Luz-Manuel. Chúng tôi vừa ăn xong món gà tây quết mật ong và vỏ cam thì một lính trinh sát thở không ra hơi xông vào, với huân tước Hector đi ngay sau. Anh ta nói đã trông thấy một đoàn kị binh đông đảo, chỉ còn cách kinh thành chưa đầy một ngày đường.

“Chỉ có kị binh thôi sao?” Alejandro hỏi.

Anh lính gật đầu và được cho lui.

“Thật khó hiểu,” chàng nói khi huân tước Hector ngồi xuống bên cạnh.

“Đó là quân tiên phong thôi,” Luz-Manuel nói. “Chúng tới để đánh phủ đầu. Cả đội quân sẽ tới vào khoảng tháng tới.”

Alejandro thở dài. “Vậy chúng ta phải lấp hố và đóng các cổng thành.”

Tôi áp tay lên cánh tay chàng. “Nạn dân sẽ đến dần trong đêm nay. Ít nhất chúng ta có thể mở cổng trong thời gian đó chứ?”

Chàng lưỡng lự cho tới khi huân tước Hector gật đầu. “Chúng ta cần người gác trên tường thành,” người cận vệ chỉ ra.

“Đúng. Vậy cổng sẽ mở.” Alejandro hôn trán tôi và cùng huân tước Hector rời đi.

Tướng quân và tôi nhìn nhau một lúc; tôi thấy được sự căng thẳng của mấy tháng vừa qua còn lưu lại nơi bọng mắt và đôi má hốc hác của ông ta. Ngoài Hector và Alejandro, tướng quân Luz-Manuel là thành viên Ngũ Trưởng lão duy nhất mà tôi được gặp kể từ ngày trở lại. Bá tước Eduardo rời kinh đô vài tháng trước để bảo vệ lãnh địa của mình trước cánh quân phía nam của Invierne, còn Ariña cứ ru rú trong phòng riêng.

“Tôi mừng vì có hoàng hậu ở đây,” ông nói, và hơi nhíu mày.

Mắt tôi mở lớn. Luz-Manuel chưa từng cho tôi thấy ông chào đón sự có mặt của tôi.

“Có lẽ tôi cần người giúp,” ông ta giải thích. “Đức vua… ờ, ngài không phải kiểu người nhanh chóng ra quyết định. Đó là một điểm hay khi liên quan tới vấn đề quốc gia. Nhưng trong thời chiến…”

Ấy là vì nhà vua sợ hãi. Tôi gật đầu. “Ta sẽ giúp nếu có thể.”

Ông xoa cái đầu hói. “Cảm ơn hoàng hậu. Đức vua có lẽ chỉ cần nghe thêm những lời động viên khích lệ bên tai thôi.”

“Tướng quân, ông phải biết rằng Invierne rất thèm muốn viên đá của ta. Có lẽ sẽ đến lúc tốt hơn hết là ta nên đi ẩn náu.”

Ông gật đầu. “Đúng, Hector đã nói rằng chúng tin mình có thể sử dụng sức mạnh của Thánh thạch.”

Tôi không nói không rằng.

Ông ta tiếp tục, “Chúng tôi sẽ cố hết sức bảo vệ hoàng hậu, nhưng nếu địch chiếm được Brisadulce, chúng sẽ giành phần thắng, dù có hay không có Thánh thạch của hoàng hậu.”

“Chúng đi đến đâu, lửa thiêu đến đó, chỉ miễn sao có thể vào thành.”

Gương mặt ông nghiêm nghĩ hơn. “Nạn dân có kể về thứ lửa kì lạ. Một số còn bị sẹo nữa. Chúng tôi đã tích nước trên tường thành, nhưng cổng thành rất vững. Rất dày.”

“Tướng quân, ta đã thấy sự tàn phá của ngọn lửa đó và xin đảm bảo với ông, người thú hoàn toàn có thể đốt trụi cổng thành.”

“Còn khung lưới sắt bên ngoài.”

“Một khi cổng đã cháy, thì còn cái gì không bắt lửa chứ? Tháp công thành đương nhiên sẽ cháy.” Chúng tôi đã dựng vài cái dọc tường thành cách từng quãng đều đặn. Hầu hết là để trữ vũ khí phòng khi cần là có ngay. “Và chắc chắn còn cả các công sự gỗ bên trong tường thành nữa nhỉ? Thế những công trình gần đó thì sao?”

“Chúng phải đến gần đến mức nào thì mới sử dụng được… ngọn lửa đó?”

“Ta không rõ. Ta xin lỗi, nhưng ta không rõ. Có lẽ một nạn dân…”

“Tôi sẽ đi hỏi,” ông bảo. “Và chúng ta sẽ bố trí những cung thủ mạnh nhất ở cổng thành. Giờ chỉ còn biết hi vọng vào điều tốt đẹp nhất thôi.”

“À, và hãy họ ẩn nấp kĩ vào nhé. Đừng ló đầu qua tường thành.”

“Vì sao?”

“Vì người thú có thể đóng băng một người tại chỗ, chỉ bằng cách nhìn họ.”

Mara suýt nhào vào lòng tôi khi tôi trở về phòng. “Tôi đã hỏi mọi người tôi gặp ngày hôm nay, nhưng chẳng ai biết hết. Ý tôi là họ biết tôi nói về loại gạch lát nào, nhưng chẳng ai biết gì về chúng.” Cô suýt nhảy múa vì phấn khích.

Rosario ngồi thu lu trên giường tôi, tay nắm ngón chân trong lúc quan sát sự hồ hởi của nữ tì với vẻ hiếu kì xen lẫn cảnh giác.

“Nhưng chắc cô đã phát hiện ra gì đó?” Tôi hỏi.

Cô cười. “Rosario biết đấy.”

“Ồ?” Tôi quay sang hoàng tử nhỏ.

“Cha Nicandro bảo với em.” Cậu chun mũi tỏ vẻ chán ghét. “Trong giờ lịch sử.”

Hơi thở của tôi nghẹn trong ngực. Đây sẽ là chuyện quan trọng. Cứ nghe Thánh thạch rung động là biết. “Cha Nicandro đã nói gì với em?”

“Ông bảo một người rất quan trọng đã làm ra những viên gạch đó. Một người chẳng còn được ai nhớ mặt nhớ tên nữa, nhưng cha Nicandro nghĩ rồi người ta sẽ phải sớm phải ghi nhớ thôi.”

Thật khó hiểu. “Chỉ có vậy sao? Cha chỉ nói có thế?”

Rosario cuộn tròn thành trái bóng nhỏ. “Em không nhớ,” cậu lí nhí.

Tôi đã dọa cậu sợ. Tôi thoải mái hít một hơi. “Rosario, em đã giúp chị nhiều lắm. Cảm ơn em.”

Cậu vui vẻ trở lại.

Tôi không hỏi xem cậu có thử đi tìm những viên Thánh thạch kia không. Thoáng nhìn bàn tay cậu, thấy những móng tay cáu ghét, tôi đã biết tất cả. Tôi xin phép đến tu viện.

Cha Nicandro rất mừng được gặp tôi. Tôi gượng cười khi ông ôm tôi, vì ông chỉ cao tới má tôi và nhỏ bé như một đứa trẻ. Ông vội dẫn tôi vào phòng ghi chép dưới ánh nến, và chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế đẩu quanh bàn.

“Hoàng hậu, cha rất mừng vì con đã tới. Chúng ta chưa có cơ hội nói chuyện nghiêm túc từ hồi con trở về. Giờ kể cho cha nghe…” Ông cúi sát lại, mũi giật giật. “Có đúng là con đã được đưa tới cánh cổng của kẻ thù chứ?”

Tôi nhún vai. “Con không biết nữa, cha à. Con ở trong doanh trại địch một lúc, chứ không phải tại Invierne.”

“Rất thú vị. Và có đúng là…”

“Cha, con xin lỗi nhưng con vội lắm, và con muốn biết về những viên đá lát trong buồng trung của con.”

“Đá lát nào?”

“Hoàng tử Rosario bảo cha biết về chúng. Những bông hoa nhí màu vàng có chấm xanh ấy. Thật ra, trông chúng khá xấu…”

“À, phải rồi! Ta phải nhận ra con muốn biết về chúng chứ.”

“Ý cha là sao?”

“Hầu hết mỗi viên gạch có họa tiết đó đều do tiểu thư Jacoma vẽ tay. Cha cô ấy là chủ một công xưởng làm gạch. Từ hồi biết đi, cô ấy đã giải khuây bằng cách vẽ gạch cho cha mình rồi.” Thấy vẻ bối rối của tôi, ông nói thêm, “Cô ấy cũng sở hữu Thánh thạch, hoàng hậu ạ.”

Tôi hít một hơi. Tôi biết ngay mà. Không hiểu vì sao, nhưng tôi biết.

“Cô ấy qua đời khi trạc tuổi con. Chưa đầy mười bảy tuổi. Vài tài liệu cho thấy cô ấy chưa hoàn thành việc phụng sự. Nhưng cô ấy đã vẽ hơn hai ngàn viên gạch có họa tiết hình hoa vàng xấu xí đó. Các họa sĩ thuộc nhiều thế hệ sau đó đã bắt chước vẽ theo. Con sẽ thấy nó ở mọi lâu đài và tu viện tại Joya d’Arena. Buồn thay, giờ chỉ còn một nhóm tu sĩ và họa sĩ là còn nhớ đến cô ấy.”

“Tiểu thư Jacoma,” tôi bâng khuâng nhắc lại. “Một người mang Thánh thạch.”

Vị tu sĩ nhoài tới và ngó tôi trân trân bằng đôi mắt đen tròn. “Nhớ hồi cha chỉ cho con đoạn văn đó trong Afflatus chứ?”

“Nhớ ạ.”

“Ta có một giả thiết. Con biết có chỗ nhắc về từng người mang Thánh thạch, và rồi dường như thay đổi chứ? Cách nó đột ngột nhắc tới tất cả những người mang Thánh thạch nói chung?”

Tôi gật đầu, nhớ lại những giờ tôi dành để nghiền ngẫm cuốn Afflatus của Alentín, tự hỏi liệu tôi có phải người sẽ đối mặt với cánh cổng của kẻ thù không.

“Ờ, cha nghĩ có lẽ chúng ta đã hiểu sai. Nếu như nó có nhắc tới từng người – và tất cả – những người mang Thánh thạch một lúc thì sao? Nếu việc phụng sự là điều tất cả những người mang Thánh thạch tiếp nối nhau thực hiện thì sao?

“Cha đang nói gì vậy?”

Ông lắc đầu. “Cha không biết nữa,” ông mệt mỏi nói. “Cha cũng chẳng biết mình đang nói gì. Đó chỉ là một ý tưởng đột nhiên lóe lên thôi. Cha có cảm giác đây phải là một bức tranh lớn hơn, và chúng ta chỉ nắm được một góc nhỏ mà thôi.”

“Để con suy nghĩ thêm. Con cảm ơn, cha Nicandro. Có lẽ con còn nhiều thắc mắc nữa.”

“Tất nhiên.” Ông cười. “Cha rất mừng vì con đã an toàn trở về, hoàng hậu của cha.”

Tôi kiềm chế không nói ra rằng tôi chẳng thấy an toàn tẹo nào.

Sáng hôm sau, Alejandro lệnh đóng cổng thành, khiến những nạn dân còn lại chẳng còn chỗ nương thân. Đó là việc làm đúng đắn. Đội trưởng của Hector báo cáo có vẩn bụi ở chân trời phía đông, cho thấy quân địch sắp tới. Nhưng tôi vẫn đau lòng thay cho hàng ngàn con người không thể vào trong thành.

Tôi dành phần lớn buổi chiều ngắm nghía những viên đá lát buồng trung. Ở đó phải chứa đựng một thông điệp gì đó. Tôi chắc chắn đấy. Tôi nghiên cứu màu sắc và hình dáng bông hoa, vuốt men theo rìa từng cánh hoa. Tôi cảm nhận được mối liên kết với người thợ vẽ gạch thời xưa kia. Một cô gái khác, cũng giống như tôi. Jacoma, cô muốn nói gì với tôi? Tất nhiên cô ấy không trả lời, nhưng Chúa đang truyền hơi ấm trong bụng tôi như thể tôi đang nói chuyện với Ngài. Tôi cần hơn cả hơi ấm từ Ngài nếu muốn chiến thắng trận chiến này.

Tôi vẫn đang ở buồng trung thì nghe có tiếng hét. Tiếng chân chạy huỳnh huỵch ngoài hành lang; những tiếng la hét hoảng loạn vọng vào qua ban công để ngỏ. Sau đó chuông nhà nguyện vọng từng tiếng chậm, trầm cảnh báo.

Tôi để Rosario lại cho Ximena chăm sóc và vội vàng rời phòng. Alejandro đã ở ngoài hành lang. Ngay khi thấy tôi, chàng giữ tay tôi và kéo tôi đi trong hành lang, qua nhà bếp và vào trại ngựa.

Tôi sững sờ khi thấy mấy cái đầu ngựa to tướng thò ra khỏi tàu ngựa.

“Alejandro,” tôi kêu the thé. “Em không biết cưỡi ngựa.”

Chàng nhăn mày. “Chỉ đến tường thành và trở về thôi mà.” Người giữ trại đã đóng yên cho một con chiến mã màu nâu xám to lớn. “Đi bộ thì mất nhiều thời gian quá,” chàng nhất quyết.

“Để tôi lo cho hoàng hậu,” tôi quay phắt lại khi nghe giọng huân tước Hector. “Quân đội cần ngài, thưa đức vua,” người cận vệ tiếp tục. “Tôi sẽ hộ tống hoàng hậu tới tường thành. Chúng tôi sẽ sớm gặp lại ngài.”

Alejandro gật đầu, rồi lên ngựa và phóng đi mất.

Đường phố đầy những con người đang vội vàng chạy đi xem quân địch. Huân tước Hector và tôi đi qua các tòa nhà, qua những người dân đang hoảng sợ, và tới một trong nhiều giàn giáo được dựng vội dựa vào một bức tường trong. Hector giúp tôi lên một cây cầu thang cọt kẹt. Gió ngay lập tức phả vào tóc tôi; cát làm tôi cay mắt. Tôi hít vào phổi luồng không khí khô rang sạch sẽ của sa mạc và đột nhiên thấy cô độc vì cách xa bạn bè mình.

Những chuyển động thu hút tôi nhìn xuống. Một dàn kị binh trải theo cả hai hướng ngút tầm mắt, ánh chiều muộn ánh lên từ miếng bảo vệ mõm và bộ da mướt mồ hôi của lũ ngựa, những mũi tên đá vỏ chai và những gương mặt sơn trắng.

Những gương mặt sơn trắng.

Tôi đã tự hỏi sao chúng có thể đưa nhiều ngựa thế này qua sa mạc. Kể cả nếu chúng đi đường vòng, trong cánh rừng xanh mướt của dãy Hinder, chúng cũng phải khổ công cung cấp lương thực cho lũ động vật này trên một chặng hành trình dài như vậy.

Một nhóm tách ra và phi nước kiệu lên trước. Chúng đi thành vòng tròn, khua giáo và la hét như lũ mèo núi. Kể cả ở khoảng cách này, những họa tiết xoắn ốc đen trắng trên chân ngựa cũng khiến tôi rùng mình.

“Hector,” tôi hoảng hốt gọi. Lũ ngựa không vất vả từ Invierne tới.

Anh cúi xuống để tôi nói nhỏ vào tai anh.

“Đây không phải quân Invierne,” tôi bảo, “mà là Perdito.”

Anh nghiêm nghị gật đầu. “Đúng. Chúng ta từ lâu đã nghi ngờ chúng bắt tay với nhau.”

“Chúng tới để bắt đầu vây thành khiến ta cạn kiệt lương thực trước khi Invierne thực sự đến nơi.”

“Tôi e là vậy.”

Chúng tôi đứng đó một hồi lâu. Đôi mắt Hector nghiêm lại thành ánh nhìn nguy hiểm, gương mặt như một bức tượng kiên định. Tôi có cảm giác anh đang nghiền ngẫm, thu giữ gì đó trong mình. Tôi chỉ cầu nguyện.

Perdito vây hãm chúng tôi trong chính thành phố của mình. Alejandro, Hector và tướng quân Luz-Manuel dành mấy ngày tiếp theo để trù hoạch khẩu phần lương thực và dựng kho trữ nước chống lửa của Invierne. Trong khi đó, Rosario và tôi đi lùng tìm Thánh thạch.

Có tin đồn tới tai tôi rằng hoàng tử dạo này thích nghịch đất kinh khủng. Ít nhất một lần trong ngày có người thấy cậu cạnh một chậu cây bị xới tung và một đống đất ẩm. Tôi nghiêm túc nghe từng lời phàn nàn, rồi khen ngợi hoàng tử nhỏ của mình ngay khi cửa đóng lại. Nhưng, lòng nhiệt tình với nhiệm vụ này của cậu cũng dần nhạt. Tôi suýt ra lệnh lục xoát khắp cung điện. Nhưng nhớ lại vụ Belén phản bội đã ngăn tôi lại. Tôi không biết có thể tin ai. Tôi không dám đặt lòng tin vào lầm người, để kẻ đó biết về những viên Thánh thạch mất tích.

Đội quân cha tôi hứa như điều kiện liên hôn đã tới trong ba chiến thuyền lớn. Hector và đội trưởng Lucio đưa họ thành từng tốp vào thành qua hệ thống cống ngầm dẫn từ vách núi bên bờ biển. Ngày hôm ấy, tôi tìm khắp trại lính, ngóng trông những gương mặt thân quen. Rất nhiều điều gợi tôi nhớ tới Orovalle: mùi hương cay nồng của da bôi dầu, gia huy hình mặt trời của nhà de Riqueza thêu trên khăn, những chiếc áo cánh rộng mà toàn thể binh lính Orovalle mặc khi không khoác lên mình toàn bộ đồ chiến. Nhưng tôi không nhận ra ai. Và cũng chẳng ai nhận ra tôi. Sau một hồi, tôi phải tự thừa nhận rằng tôi đang tìm phụ vương, hoặc thậm chí Alodia, và tôi bỏ đi, cảm giác mình như một đứa ngốc.

Binh lính Orovalle cũng chẳng thay đổi tình hình quá nhiều. Ngay hôm sau, đợt đầu tiên của đội quân Invierne hùng hậu đã thấp thoáng ở đường chân trời nơi sa mạc. Perdito chào đón chúng bằng cuộc ăn mừng hoang dã, hú hét và phi ngựa lượn tròn, bắn tên lên trời. Tôi đứng cạnh Hector ở trên tường thành quan sát chúng tiến quân. Vào những giây phút đầu tiên ấy, liên quân Orovalle và Joya d’Arena chìm trong sự im lặng kinh sợ. Kẻ địch quá đông, và chúng đi chân trần, sặc sỡ, không mấy giống con người.

Tôi cũng im lặng, nhưng vì một lí do khác. Tôi đang nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy lực lượng Invierne hùng hậu, lửa trại của chúng thắp sáng khu đồi trong đêm tối theo đủ mọi hướng. Vậy nên tôi biết đây chỉ là một phần rất nhỏ của lực lượng xâm lăng.

Bên cạnh, Hector đang dộng nắm đấm vào đá. “Giá mà chúng ta biết chúng muốn gì.”

“Chúng tin đây là ý Chúa,” tôi khẽ nói.

“Đòi một cảng biển? Xâm lược một đất nước khác? Giết người vô tội? Thế chúng định đổ vấy tội lỗi cho Chúa vì hành động nào đây?”

Gì đó trong giọng nói bực bội của anh khiến tôi hài lòng. “Họ muốn tôi, hoặc viên đá của tôi.”

“Đúng, nhưng vì sao?”

“Giá mà tôi biết được.”

Anh chăm chú nhìn tôi. “Chúng sẽ không có được cô đâu, Elisa. Chừng nào tôi còn sống.” Anh quay gót bỏ đi, xuống dưới tường thành tới khi khuất sau một nhóm cung thủ.

Một lá thư bồ câu khác từ Cosmé. Tay tôi run run mở thư, và Mara nhòm qua vai tôi đọc cùng.

Elisa,

Một nhóm trong cánh quân phía nam của Invierne hiện đang hành quân về Brisadulce, trong đó có năm người thú. Chỉ có ba tên tiếp tục tiến đánh các lãnh địa phía nam. Tôi nghĩ chúng biết cô đang ở kinh đô.

Chúng tôi tiếp tục tập kích quân địch, nhưng Perdito khiến mọi việc khó khăn hơn. Chúng bắt đầu bắn hạ bồ câu của chúng tôi. Đây có thể là lá thư cuối cùng.

Bảo trọng,

Cosmé