• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lửa biên thùy
  3. Trang 7

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 40
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 40
  • Sau

Chương 4

T

ối đó, chúng tôi hát ca tụng sự cứu rỗi và thắp nến cầu nguyện cho người đã khuất. Trò thắp nến thật ngu ngốc. Nếu tụi Perdito định tấn công tiếp, những ánh lửa nhỏ, chập chờn như những vì sao trong bóng tối của rừng già sẽ biến chúng tôi thành mục tiêu dễ nhận. Nhưng chúng tôi vẫn thắp nến.

Tôi không biết một ai trong mười lăm người tử trận, và khi nhà vua thì thầm gọi từng tên một, tôi không thể nhớ ra mặt họ. Nhưng mọi người trong đoàn rước dâu đều tốt bụng, và tôi khóc thương cho sự ngã xuống của họ vì Alejandro cũng làm vậy. Khi chồng tôi nhắc đến họ, tôi thầm cầu nguyện, cảm ơn Chúa đã giữ mạng chàng và những nữ tì của tôi. Thánh thạch tỏa hơi ấm dịu dàng lan khắp châu thân tôi, hệt như mỗi khi tôi thành tâm khấn nguyện. Một lát sau, cảm giác căng cơ lưng do kéo Aneaxi chuyển thành đau nhẹ, và tôi thấy buồn ngủ vô cùng.

Hồi bé, tôi chỉ sợ Thánh thạch sẽ ngừng sống trong tôi, rằng nó sẽ lạnh ngắt và im lìm như mọi viên đá quý bình thường. Lúc đó tôi sẽ biết mình không còn phụng sự Chúa, rằng tôi quá ích kỉ, lười nhác hoặc ngu ngốc không chịu hành động. Vậy nên tôi đã học cách chào đón những phản ứng nhẹ nhàng của nó với lời cầu nguyện của mình. Chúng là tín hiệu rằng tôi chưa phải đứa thất bại.

Alejandro kết thúc buổi lễ bằng lời thì thầm, “Selah”, và tất cả tản ra chuẩn bị cho chuyến đi ngày mai.

“Lucero-Elisa.” Giọng chàng khẽ đến độ tôi tưởng mình tưởng tượng, nhưng đôi mắt chàng, long lanh dưới ánh nến, nhìn thẳng vào tôi khi chàng tiến tới. Cánh tay phải bị thương được bó chặt vào bụng chàng, quấn trong băng đeo màu xám.

“Alejandro.”

“Ta muốn cảm ơn em, Elisa. Hector nói em đã hành động vô cùng dũng cảm trong vụ tập kích.” Tôi không nhớ mình dũng cảm. Chỉ nóng nực và sợ hãi. “Và…” Chàng lảng tránh ánh mắt tôi. “Em có lẽ đã cứu mạng ta.”

Alodia sẽ chẳng để tâm tới một lời khen lập lờ như thế. Chị sẽ đáp lại bằng một lời tâng bốc rằng sự can trường sẽ giúp người ta chiến thắng vào phút cuối, kể cả không có người giúp đỡ.

Nhưng chàng hoảng loạn đến đờ đẫn, và nếu tôi không can thiệp, chàng chết chắc. Sự kiêu hãnh bừng lên, tôi nói, ”Đúng. Em đã cứu mạng chàng. Và chàng không cần cảm ơn đâu.” Có lẽ định mệnh muốn tôi cứu mạng một vị vua. Nhưng viên đá quý vẫn rung lên từng hồi cho thấy nhiệm vụ của tôi chưa chấm dứt.

Giờ chàng cười tươi với tôi, một nụ cười con trẻ khiến tôi ấm áp chẳng khác gì Thánh thạch, và nỗi bất an của tôi biến mất. Tôi e ấp cười đáp.

“Em có nhớ nhà không, Elisa?”

Tôi định mở miệng trả lời rằng có, tôi nhớ quê hương da diết, nhưng nhận ra sự thật không phải vậy. “Chút chút. Có lẽ em chưa ở quá xa quê nhà.” Tôi cũng muốn lại được hưởng thụ cảm giác an toàn, được ôm phụ vương, kể cả học cùng thầy Geraldo. Nhưng tôi không thèm khát chúng. Chưa đâu.

Đúng lúc đó, Ximena thong thả bước đến, nên tôi cáo lui và vội đi mất. Tôi chưa sẵn sàng gặp bà. Tôi không biết phải hỏi điều gì.

Chúng tôi chịu đựng cánh rừng thêm năm ngày nữa. Binh lính thì kiệt sức vì phải canh gác liền hai ca, còn cả đoàn ê nhức vì bị nhồi nhét vào số cỗ xe ít ỏi còn lại, nhưng chúng tôi cũng dần rời khỏi rừng mưa ngột ngạt tối tăm để tới khu vực núi non khô ráo nhìn ra toàn cảnh sa mạc. Joya d’Arena, hòn ngọc quý của sa mạc, trải dài trước mắt chúng tôi. Những đụn cát đỏ cam nhấp nhô trải dài dọc đường chân trời, mềm mịn dưới cái nắng như thiêu đốt. Tôi biết Joya là một miền đất nắng gió khắc nghiệt, nhưng cảnh cát bay bay trong gió và nắng nhạt khiến nơi đây mang một vẻ nên thơ và hiếu khách.

Huân tước Hector dẫn chúng tôi đi về phía tây, men theo sa mạc, về phía biển. Tôi nhìn thấy một đường xanh lá sẫm, có lẽ cách chúng tôi vài ngày đường, nhưng trong cái nắng lung linh này thì cũng khó ước đoán chính xác. Bên kia những rặng cọ là Brisadulce, kinh đô của Joya. Alodia từng tới đó, và chị trở về cùng những câu chuyện về ốc đảo kì diệu, những kiến trúc sa thạch tuyệt đẹp, và những con người da óng mồ hôi đã chào đón chị ngay khi chị vừa xuất hiện.

Tôi háo hức được tới đó, ít nhất cũng là để thay y phục, tắm táp và thỏa thích đánh chén một bữa linh đình. Đầu tôi chăm chăm nghĩ tới hoa quả tươi và rượu lạnh.

Chúng tôi cắm trại bên một con suối róc rách chảy xuống từ trên núi, rồi đi theo hướng tây về phía thành phố và biển cả. Trong cỗ xe mượn tạm, Ximena đề nghị tôi cởi đồ cho bà giặt. Bà giúp tôi cởi cúc và tôi nhẹ nhõm đôi chút, lo lắng một chút khi có bà gần bên. Từ hồi tôi còn bé, bà đã như mẹ của tôi. Nhưng tôi nghĩ tới cái trâm – thứ tôi đã thấy gần như cả đời – trồi ra từ cổ gã đàn ông nọ, và tôi ngạc nhiên vì mình biết quá ít về bà. Ximena xuất thân từ đâu? Bà phục vụ gia đình tôi từ bao giờ? Sao bà lại yêu quý tôi nhiều đến vậy? Alodia gọi tôi là “Đồ hư đốn” không chỉ một lần trong suốt bao năm chúng tôi lớn lên bên nhau. Chị bảo tôi “ được chiều chuộng chỉ vì được Chúa lựa chọn.”

Alodia đã đúng.

“Ximena.”

“Gì vậy, công chúa thân mến?” Bàn tay bà đang bận nới lỏng áo corset cho tôi.

“Con xin lỗi. Con có lỗi nhiều lắm.”

Bà ngừng tay. “Sao con lại nói vậy, bầu trời của vú?”

Tôi nước mắt vòng quanh. ”Con chẳng biết vú là ai hay bất cứ điều gì về vú. Con không biết gì về Aneaxi. Và đó là lỗi của con.”

Lần đầu tiên bà vú không gạt phắt những lời tôi nói bằng những câu an ủi tẻ nhạt và khen ngợi yếu ớt. Bà chỉ choàng đôi cánh tay khỏe mạnh và ôm tôi thật chặt.

Ximena kể bà mồ côi cha mẹ. Hồi nhỏ, bà phục vụ các tu sĩ trong nhà ăn tu viện và giặt áo chùng cho họ. Cha Donatzine nhận thấy đức tính chăm chỉ, kiệm lời của bà. Ông dạy bà đọc viết đủ để chép lại những tài liệu lịch sử quan trọng của tu viện Amalur, tại đó, bà đặc biệt lưu tâm tới cuốn Nhập môn phụng sự Chúa.Sau nhiều năm bà khắc ghi những lời vàng ý ngọc ấy vào lòng, cha Donatzine liền tiến cử bà phục vụ cha tôi, khi ấy còn là một hoàng tử trẻ.

“Mỗi khi có thời gian, vú lại tới thăm cha Donatzine,” bà vừa nói vừa phơi váy của tôi bên ngoài cửa sổ xe ngựa. “Ông ấy không đọc được nữa rồi. Vậy nên vú đọc cho ông nghe. Ông ấy yêu những đoạn văn trong Scriptura Sancta nói về người được Chúa lựa chọn.” Bà có nụ cười đẹp, để lại những nếp nhăn hạnh phúc quanh đôi mắt nhỏ. “Ông ấy rất mừng vì Chúa đã chọn công chúa vào ngày con được đặt tên. Ông ấy mừng vì đã sống đủ lâu để chứng kiến lần lựa chọn kế tiếp ấy.”

Tôi không nhớ cha Donatzine. Tôi nên lấy làm hãnh diện khi một người đàn ông mình không quen biết lại coi sự tồn tại của tôi quan trọng. Nhưng đồng thời, tôi cũng thấy cuộc sống của mình thiếu sự riêng tư.

Tôi đột ngột hỏi, “Vú sẽ nhớ ông ấy chứ?”

Ximena gật đầu. “Rất nhiều.”

Bà chui qua cửa xe ngựa vào ngồi cạnh tôi trên băng ghế. Tay bà chai sần. Tôi cố tưởng tượng cảnh chúng cẩn thận vuốt ve những tấm giấy da dê. Tôi đã cảm nhận những ngón tay sần sùi của bà vuốt lưng mình bao nhiêu năm qua, quan sát chúng linh hoạt và khéo léo thế nào. Và có thể giết người chỉ bằng một cây trâm.

“Sao con nhìn vú lạ vậy?”

“Ngày hôm đó. Với tên tù.”

Ánh mắt bà dịu lại. “Vú biết con sẽ hỏi mà.”

“Vú di chuyển nhanh lắm đó, Ximena! Và vú biết chính xác phải đâm vào đâu, rằng hắn sẽ không tấn công con, và con…” Tôi nói thật không phải, nghe như đang buộc tội bà, mà điều ấy thật lố bịch vì hôm đó, không chỉ mình tay bà vấy máu kẻ khác.

Nhưng bà nhìn tôi như xưa nay vẫn vậy, với sự kiên nhẫn vô bờ bến và tình yêu trọn vẹn. “Bầu trời của vú, có nhiều điều vú ước có thể kể cho con nghe.” Bà vuốt má tôi. Rồi cỗ xe hơi chòng chành khi bà bước xuống. “Vú đi xem Aneaxi thế nào đây.”

Tay tôi nổi gai ốc lúc tôi nhìn Ximena xếp túi ngủ và nhóm lửa trong khu cắm trại nhỏ này. Hóa ra tôi đang nhòm ra ngoài cỗ xe trong khi chỉ mặc độc có cái váy dài và váy lót.

Hôm sau, tôi ngồi xe cùng Aneaxi, vì bà cần chỗ rộng rãi có thể duỗi thẳng cái chân nẹp trên băng ghế. Mỗi lần chúng tôi lao phải ổ gà, bà lại nhăn mặt và mồ hôi rịn đầy trán. Bà vừa quạt cho mình vừa trả lời mọi thắc mắc đáng ra tôi phải hỏi từ lâu.

Nhờ đó, tôi biết thị nữ của mình là người con hoang của bá tước Sirvano, trong triều đình của phụ vương. Nhiều tai tiếng quá nên khó có thể kết mối hôn nhân chính trị, quá quan trọng nên không thể bị đẩy tới tu viện đã nuôi nấng Ximena, nên cuộc đời bà cứ lên voi xuống chó, là mục tiêu trút giận của cha. “Lớn lên trong nhà ông ấy thật kinh khủng,” bà bảo. “Tôi đi đâu cũng bị người ta xì xào bàn tán, lườm nguýt. Tôi mặc toàn quần áo cũ thửa từ bà chị cùng cha khác mẹ. Nhưng chị ấy sẽ xé rách váy áo hoặc đổ mực vào trước khi cho tôi.”

Tôi chăm chú nghe bà kể chuyện xưa, vì tôi hiểu cảm giác có người chị được lòng cha mẹ, phải chịu ánh mắt soi mói, chê trách của bao nhiêu người là thế nào. Bao nhiêu năm qua, Aneaxi luôn thông cảm cho tôi, ôm ấp vỗ về và an ủi tôi trong mọi việc. Giờ tôi đã hiểu nguyên do.

“Tôi xung phong nhận việc giặt giũ. Chỉ để được đi chỗ khác và hữu dụng. Một ngày nọ, cha nhận thấy tay tôi nứt nẻ và bong tróc. Ông đánh tôi.” Bà nhún vai, như thể chuyện đó chẳng làm bà phiền lòng chút nào. Hoặc có lẽ bà chẳng còn phiền lòng nữa rồi. Aneaxi không bao giờ buồn lâu.

“Nhưng cha tôi cũng quyết chí rằng nếu tôi đã thích làm lụng như vậy, ông sẽ tìm việc xứng với tôi. Thế là ông cho tôi theo hầu bà vợ mới của mình, chỉ lớn hơn tôi vài tuổi. Ông cho rằng đấy là đòn trừng phạt, nhưng chúng tôi lại kết thân. Và khi hoàng hậu hoài thai Alodia, bà chủ đã tiến cử tôi với Ximena, lúc đó theo hầu hoàng hậu.”

Tôi hỏi, “Bà có hối hận vì đã tới lâu đài phục vụ gia đình con không?”

“Ôi, công chúa yêu dấu, không hề. Tôi yêu quý hoàng hậu. Cả Alodia nữa, dù công chúa độc lập và ương ngạnh đến khó ưa. Nhưng còn con, Elisa, con là niềm vui sống của tôi.” Bà cười vui vẻ. “Hơn nữa, thức ăn ở cung điện cũng ngon hơn rất, rất nhiều. Đầu bếp của bá tước đáng ra phải bị đưa vào trường đấu bò mới đúng.”

Tôi cười khúc khích, nhớ lại cái đêm chừng một năm trước, khi chúng tôi lẻn vào bếp trộm bánh pudding dừa, ngay dưới mũi Ximena. Ở nơi Aneaxi luôn có sự cảm thông, vui tươi và cả láu cá – vừa trái ngược vừa gần gũi với bà vú già cẩn trọng và tận tụy của tôi.

Bà dừng quạt. Mí mắt bà mỏng, gần trong suốt như một mảnh giấy da dê thượng hạng. Không hiểu từ bao giờ mà trông bà già đi nhiều thế. Tôi nhoài tới và hôn lên những nếp nhăn hằn trên trán bà.

Bà mỉm cười, mắt vẫn nhắm. “Công chúa Elisa, con tốt lắm. Chúa đã đúng khi chọn con.”

Tôi nuốt nước bọt. Tình yêu bà dành cho tôi luôn ngốc nghếch, nhưng tôi cảm ơn nó. Có lẽ Chúa có lí do để gửi bà đến bên tôi. Có lẽ Ngài biết tôi cần người thấu hiểu, dù chỉ một chút, về cuộc đời tôi. Tôi nhẹ nhàng rút cái quạt trong tay bà. Khi tôi phe phẩy quạt qua mặt bà, bà thở dài thỏa mãn. Tôi ở cùng bà một lúc lâu.

Tối đó, Alejandro thông báo chúng tôi chỉ còn cách ngôi nhà mới của tôi vài ngày đường.

“Tốt!” Tôi nói. “Em hôi quá rồi.” Và mặt tôi nóng hơn cả mùa hè sa mạc. Chuyến hành trình gian khổ này khiến tôi nói chuyện quá suồng sã.

Nhưng chàng chỉ cười. “Em không hôi bằng huân tước Hector đâu.” Chàng liếc nhìn sang bên phải, nơi người lính ngự lâm quân kia đang ngồi mài kiếm. Anh ta ngước lên trước lời nhận xét của nhà vua, râu mép giật giật, nhưng gương mặt vẫn không tỏ thái độ gì.

“Bà Aneaxi ra sao rồi?” Alejandro hỏi.

Tôi nhún vai. “Bà ấy bảo chân đã khá hơn, nhưng tính bà ây vẫn luôn lạc quan, nên em không chắc nữa. Thực sự thì bà ấy yếu đi nhiều.”

“Em rất quý bà ấy.” Ánh mắt chàng dịu lại, hoặc có lẽ là do ánh lửa, nhưng tôi thấy nghẹt thở. Chàng nhìn tôi quá chăm chú, như thể tôi là tạo vật duy nhất trên thế giới này.

“Elisa?”

“Em… Bà ấy rất thân với em.”

“Bà ấy may mắn lắm mới giữ được mạng đó. Hector đã kể ta nghe em và vú Ximena lôi bà ấy từ dưới xe ra sao.”

Tôi nhìn xuống mặt đất sét cát nơi chúng tôi dựng trại, mặc cho nụ cười dịu dàng của chàng có thể khiến một nàng thiếu nữ tương tư suốt nhiều giờ. Sau đó, khi một mình nằm trong túi ngủ, tôi sẽ để kí ức về khoảnh khắc này sưởi ấm tôi chìm vào giấc mộng. Tôi sẽ dám hi vọng chàng thương tôi nhiều hơn, rằng chàng mừng vì chúng tôi kết hôn.

Còn lúc này, tôi có nhiều thắc mắc.

“Alejandro. Lũ Perdito. Chúng không thường xuyên tấn công lữ khách.”

Chàng vuốt mái tóc đen. “Ừ, không mấy khi.”

“Nhưng sao lại là lúc này? Sao lại là chúng ta?” Tôi nắm chặt váy để kiềm chế cơn bồn chồn. Chàng sẽ nói rằng tôi đừng lo lắng, rằng đấy không phải vấn đề một cô gái nhỏ cần lo nghĩ, như phụ vương vẫn…

“Ta nghĩ chúng đã liên minh với Invierne.”

Một lúc sau, tôi mới cất tiếng. “Sao chàng lại nghĩ vậy?”

“Giờ chúng có vũ khí thép. Mũi tên làm từ gỗ nhẹ, sáng màu ta chưa từng thấy. Hơn nữa, một nhóm rợ đã giết chết ba lái buôn hồi năm ngoái bằng một… một dụng cụ sắc dùng để phá băng.”

Rìu phá băng. Tôi chưa từng được tận mắt trông thấy băng tuyết, nhưng có đọc qua rồi. Có điều vì sao Invierne lại liên minh với Perdito? Một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi. “Đường cái là tuyến đường bộ duy nhất nối liền Joya và Orovalle,” tôi trầm ngâm.

Chàng chậm rãi gật đầu, quan sát tôi với vẻ hứng thú khiến tôi có cảm giác mình đang bị thách thức. Giờ tôi mới nhận ra suốt chặng đường dài, chúng tôi không hề bắt gặp một lữ khách nào khác. Vào mùa bão, đường cái đáng ra phải tấp nập thương lái mới phải.

“Di chuyển vượt qua dãy Hinder là một quyết định liều lĩnh.” Tôi cẩn trọng giữ giọng đều đều, không tỏ ý trách móc.

“Đúng là liều thật. Nhưng chúng ta giữ bí mật về chuyến hành trình. Ta không rõ tại sao chúng biết nữa.”

“Hay đây là vụ tấn công ngẫu nhiên?”

Chàng nhún vai.

Nhưng đầu tôi đang quay cuồng phân tích lời chàng. Bí mật. “Ý chàng bí mật là sao?”

“Người dân Brisadulce nghĩ phải chừng một tháng nữa đức vua của họ mới trở về.”

Đức vua của họ. Bí mật.

Còn hoàng hậu? Gì đó trong ánh mắt tôi khiến chàng nghiêm túc hẳn.

Tôi hít một hơi sâu. “Họ không biết đến sự hiện diện của em, đúng chứ?”

Chàng lắc đầu. “Không. Họ không hề biết ta sẽ đưa một vị hoàng hậu về cùng.”

Đường bằng phẳng hơn, và hành trình của chúng tôi cũng theo đó mà dễ chịu hẳn. Không khí oi nóng, nhưng dễ chịu hơn nhờ những cơn gió nhẹ thổi đều đều. Những đốm nâu mờ nhạt thấp thoáng nơi chân trời. Bắt gặp tôi mải ngắm nhìn, huân tước Hector bảo đấy là bão cát đấy. Vào mùa bão, gió từ biển thổi thốc vào đất liền, gây ra bão cát đủ sức lóc da róc thịt. Tôi mừng vì chúng tôi di chuyển theo hướng tây ra biển, luôn cách xa những đụn cát kia.

Tôi nhớ Ximena. Có lẽ tôi không nên hỏi về người đàn ông bị bà giết. Giờ tôi cảm thấy giữa chúng tôi có một khoảng cách lớn, xa cách khó tả. Bà vẫn tận tụy, giúp tôi mặc đồ mỗi sáng, tết tóc cho tôi, và giũ phẳng chiếc váy nhàu nhĩ của tôi mỗi tối. Nhưng bà kiệm lời, ánh mắt xa xăm và sầu muộn. Hoặc cũng có thể là do tôi tưởng tượng ra.

Aneaxi ngày một yếu đi. Huân tước Hector nghĩ bà mắc bệnh gì đó trong rừng, nhưng ngoài bà ra, không có ai bị ốm hết. Da bà, thường nâu giòn như da tôi, giờ ngả sang màu xám tro. Lúc ngủ, bà thường mê sảng và sốt cao. Có điều gì đó khiến bà sợ. Bà thường hoảng hốt gọi tên tôi, và tôi phải nắm chặt bàn tay nhớp nháp mồ hôi và thì thầm vào tai bà thì bà mới ngủ yên lại. Khi tỉnh giấc, bà một mực nói chẳng nhớ đã mơ gì, nhưng tôi không tin lắm.

Lúc còn cách Brisadulce hai ngày đường, cỗ xe của chúng tôi bắt đầu bốc mùi thịt thối. Tôi không phải thầy thuốc, và tuy được nhận sự giáo dục hoàng gia, tôi lại chẳng mấy nghiên cứu về y học. Nhưng tôi biết không một cơn sốt nào có thể gây ra cáu mùi khó chịu đến thế.

Tôi kéo Ximena sang bên khi chúng tôi dừng lại ăn quả hạch và xoài khô.

“Đây không phải bệnh sốt rét rừng, Ximena. Aneaxi sốt cũng không phải do gãy chân. Thế tại sao bà ấy…”

Ximena nhìn tay tôi. Hóa ra tôi đã bóp tay bà quá mạnh, những ngón tay tôi đang bấu vào da thịt bà.

Tôi bực dọc rụt tay lại, và nhận thấy nước mắt dâng lên trong mắt Ximena. “Sao vậy, Ximena? Vú có chuyện gì đó giấu con.”

Bà vú gật đầu và nuốt nước bọt. “Aneaxi bị thương nặng hơn chúng ta tưởng. Bà ấy không chịu nói. Một chút cũng không.” Giọng bà nghe như tiếng thì thào run rẩy, và nỗi sợ hãi tựa như một tảng đá nặng đè lên ngực tôi. Tôi chưa từng thấy Ximena khóc.

“Vú muốn nói không đơn giản là một cái chân gãy.”

“Nguyên nhân là do cái chân kia. Bà ấy bị thương. Trên mắt cá, lúc chúng ta kéo bà ấy…”

Một vết thương. Chỉ một vết thương nhỏ. Không thể quá nghiêm trọng chứ nhỉ?

Ximena nói tiếp, nhưng tôi không nghe được gì mấy vì tai ù đi. Hình như bà bảo Aneaxi bị nhiễm trùng, rằng giờ đã quá trễ nên không thể cắt bỏ cái chân đó được.

Tôi cuống cuồng chạy vào xe. Aneaxi nằm dài trên băng ghế. Bà rên rỉ trong cơn mê sảng. Tôi sờ bên chân không bị gãy. Ẩn dưới lớp váy, lớp vải quấn quanh bắp chân ướt đẫm và nâu xỉn như dính nước trà. Tôi tháo băng, mùi bốc ra thật khó ngửi, như mùi cá phơi quá lâu dưới nắng, nhưng ngọt hơn, giống mùi quả nẫu. Aneaxi vùng vẫy khi tôi để vết thương hở ra.

Tôi giật mình, đưa tay che miệng. Chất dịch tím xanh ứa trên da. Gì đó đen sẫm và nhầy nhụa ọc ra từ vết thương hở; phần da ở rìa vết thương bong ra trông ghê khiếp.

Ximena và tôi đã gây ra vết thương này khi kéo bà ra khỏi xe ngựa.

Tôi chỉ còn biết làm duy nhất một điều. Tôi ngồi phịch xuống băng ghế đối diện với người thị nữ. Thánh thạch tỏa hơi ấm dưới đầu ngón tay tôi khi tôi nhắm mắt.

Tôi được Chúa lựa chọn. Chắc chắn Ngài sẽ nghe thấy lời cầu nguyện của tôi.

Sáng hôm sau, Aneaxi tỉnh giấc khỏi cơn sốt. Tim tôi bừng lên niềm hi vọng. Suốt đêm, viên đá trên rốn tôi tỏa ra hơi ấm dễ chịu khiến tôi biết Chúa đã nghe tiếng tôi. Tôi chắc chắn Aneaxi sẽ bình phục.

Bà mất một lúc mới tỉnh hẳn. Bà cười khi nhận ra có tôi ở bên.

“Elisa,” bà thì thầm. Đôi mắt nâu của bà ánh lên sự chân thành.

Tôi vuốt trán bà. “Bà phải nói với con và Ximena chứ, Aneaxi. Bà phải…”

“Công chúa hãy nghe tôi này…”

Tay tôi dừng khựng lại.

“Elisa, con mang một sứ mệnh lớn lao.” Tuy thều thào, nhưng giọng bà mang theo điều gì đó rất dữ dội. Cỗ xe lọc cọc, các ngón chân tôi tê buồn.

Bà nắm tay tôi và bóp mạnh. “Con không được đánh mất đức tin. Dù cho có chuyện gì đi nữa. Đừng nghi ngờ Chúa hay lí do Ngài chọn con. Chắc chắn Ngài biết nhiều hơn chúng ta có thể tưởng tượng.”

Tôi lắc đầu. Không đúng. Bà chưa từng nói chuyện với tôi thế này. Tôi mở miệng định trấn an rằng bà sẽ khỏe, rằng tôi đã cầu nguyện.

“Chúa yêu con rất nhiều. Như tôi vậy. Hãy hứa với tôi rằng con sẽ tin ở Chúa.”

Tôi nên thề thốt. Nên làm bất cứ điều gì khiến bà an lòng. Nhưng tôi không thể cất tiếng.

Bà thở dài, và ánh mắt trở nên xa xăm. Giọng bà rất yếu, “Con là ánh sáng đời tôi, Elisa. Con đặc biệt…” Cái nắm tay của bà bỗng lỏng ra.

“Aneaxi?”

Nhưng bà không đáp. Bà trông như một con búp bê, đôi mắt mãi thể hiện sự mãn nguyện, môi hơi hé mở. Nhẹ nhàng, tôi đưa tay vuốt mắt bà, hi vọng như vậy sẽ khiến bà trông như đang ngủ. Nhưng sự yên tĩnh của giấc ngủ không hề giống cái im lìm của sự chết.