S
au bữa sáng, huân tước Hector kéo tôi sang một bên. Tôi ngước nhìn đôi mắt nâu – sậm hơn màu mắt Alejandro – và gương mặt phong sương, để ria mép. Da anh ta quá dãi dầu nắng gió và chằng chịt sẹo so với một người tuổi đời còn quá trẻ, nhưng tôi không nên quy chụp rằng anh ta tàn nhẫn. Nghiêm khắc thì có lẽ, nhưng tàn nhẫn thì không.
“Thưa công chúa, đức vua sai tôi chuyển lời tới cô.” Anh nói nhanh và khẽ. “Cô có thể đi tới bất kì nơi đâu trong lâu đài hay thành phố Brisadulce. Nhưng cô phải luôn có Ximena hộ tống. Nếu không sẽ không an toàn.”
Tôi gật đầu, trợn tròn mắt trước cả lời cảnh báo và cả sự gợi ý bóng gió rằng Ximena quả thực có thể bảo vệ tôi.
“Thật ra,” anh nói tiếp, “nếu hôm nay cô không có kế hoạch gì, đức vua muốn tôi đưa cô đi thăm thú.”
Tất nhiên tôi chẳng có kế hoạch gì. “Cảm ơn, thưa huân tước Hector. Tôi rất vui.” Nếu tôi ở Orovalle, hẳn bây giờ tôi sẽ tới học cùng thầy Geraldo. Tôi sẽ làm gì trong những ngày ở đây?
“Vậy một giờ nữa.” Anh ta cúi rạp mình và trở về bên Alejandro.
Tôi về phòng viết thư.
Alodia thân mến,
Ximena và em đã an toàn tới Brisadulce. Em rất tiếc phải thông báo rằng Aneaxi đã qua đời vì bị nhiễm trùng.
Em muốn xin lời khuyên từ chị. Alejandro không muốn công nhận em là vợ chàng. Chàng bảo chưa tới lúc. Chàng cũng không muốn tiết lộ chuyện em mang Thánh thạch. Chị biết chuyện này sẽ đến chứ? Em có nên tiếp tục tin chàng không?
Em sẽ gửi thư chi tiết hơn qua bưu cục, nhưng không nghĩ nó sẽ tới được tay chị. Xin hãy sớm gửi thư cho em.
Gửi lời thương phụ vương giúp em nhé.
Elisa
Tôi chép thư thành ba bản, mong chị mình sẽ đọc ra sự giận dữ và thất vọng của tôi qua những nét bút ấn mạnh. “Aneaxi đã qua đời vì bị nhiễm trùng.” Một chuyện lớn lao và kinh khủng nhường đó lại chỉ được gói gọn trong một câu sáo rỗng, nhưng tôi chỉ có thể nhờ bồ câu gửi đi có từng đó. Tôi cuộn lá thư nhỏ nhét vào cái bao không lớn hơn một đốt ngón tay trỏ. Ximena cầm chúng – cả ba lá dễ dàng nằm lọt trong một lòng bàn tay – và rời phòng tới chuồng bồ câu. Tôi thầm cầu nguyện cho lũ bồ câu của chị mình sẽ vượt qua được khu rừng kia.
Rồi tôi cười tự giễu. Những lời cầu nguyện đến mới nhanh và tự động làm sao. Đúng là thói quen cho rằng mọi điều tốt mình có trong đời đều là do Chúa ban tặng. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi tự hỏi liệu mình có nên cảm ơn ai khác không. Những người lính của Alejandro chẳng hạn. Hoặc bản thân tôi. Chính chúng tôi đã giành thắng lợi về tay mình trong ngày hôm đó, chứ không phải Chúa.
Tôi áp đầu ngón tay lên rốn. Viên đá trơn nhẵn và ấm áp rõ qua lớp vải bông của chiếc váy, bằng chứng rằng Chúa – hoặc ai đó – ở đó. Có người đã đặt thứ này vào rốn tôi, để nó tỏa hơi ấm trấn an và hơi lạnh cảnh báo. Và qua nó, có người đáp lại những lời cầu nguyện của tôi bằng sự dễ chịu hữu hình.
Nhưng chính người đó đã lờ đi lời khấn nguyện và để thị nữ của tôi phải chết. Thật không hiểu nổi, nhưng điều ước của Aneaxi phút lâm chung là tôi không đánh mất đức tin. Chị tôi, Ximena, Alejandro, và giờ là cả Chúa. Chúa ơi, con cần nhiều hơn thế này. Nếu Ngài yêu con như Aneaxi, xin Ngài hãy gửi cho con thứ gì đó để con tiếp tục cố gắng. Gì đó thật sớm. Hơi ấm dìu dịu tỏa khắp bụng tôi, lan lên ngực và xuống cánh tay tới khi tôi thấy ngứa râm ran dễ chịu. Cái đêm ngồi bên giường Aneaxi, cái đêm tôi cầu xin Chúa cứu mạng bà, tôi cũng có cảm giác hệt như vậy, thành thử tôi sợ nó chẳng có ý nghĩa gì hết.
Cosmé tới trước khi Ximena quay lại. Cô ta cúi chào, nhưng tôi thấy rõ vẻ sưng sỉa. Tôi không cho cô ta đứng dậy tới khi chắc chắn cô ta thấy khó chịu.
“Xin chào, Cosmé.”
Cô ta đứng dậy. “Thưa công chúa, nữ bá tước nói rằng công chúa muốn tôi.” Mái tóc đen ngắn của cô ta xoăn thật đẹp dưới cái mũ hầu gái, và đôi mắt đen tròn ngây thơ. Tôi chỉ muốn cấu cô ta.
Tôi nuốt cảm giác tội lỗi. “Ừ. Ta cần hầu gái trong thời gian ở đây, và ta thích cô.” Tôi tự hỏi câu ấy lọt vào tai cô ả có khó nghe như với bản thân tôi hay chăng. “Ariña thật tử tế khi đồng ý cho ta mượn cô.”
“Vậy công chúa cần tôi làm gì?”
Tôi chưa nghĩ nhiều đến vậy. Cô ta phải bận rộn mới được. Bận tới độ không có thời gian nhiều chuyện hay theo dõi tôi.
“À…” Tôi nhìn quanh phòng, ngẫm nghĩ. Như mọi căn phòng tôi đã thấy trong cung điện rộng mênh mông đây, nơi này quá lớn nhưng quá ít đồ đạc. Nó cứ thông thống, trống trải và không giống một tổ ấm cho lắm. “Ta cần một cái ghế tựa. Hai cái đi. Nếu cô không tìm được thì chắc sẽ đặt mua được. Ngoài ra, ta cần cây cối nữa. Loại cây cảnh lớn trồng trong chậu ấy. Bất cứ loại cây nào xanh tốt. Ta muốn hai cây ngoài ban công, ít nhất hai cây trong buồng ngủ và một trong phòng Ximena.”
Cosmé tròn mắt nhìn tôi như thể tôi vừa nuốt trọn một con bọ cạp. Tôi cố không tỏ vẻ tự mãn. Một nhiệm vụ như thế không chỉ bắt cô ta mất trọn một ngày trời ở cái nơi trống trải, hoang vắng này, mà cô ta thích thoải mái ba hoa thế nào cũng chẳng hề gì.
Tôi vẫn đang thầm tán tụng mình thì Ximena xuất hiện.
“Thật mừng vì được thấy con cười,” bà bảo.
Tôi không muốn nói về những thứ khiến dạo này tôi không cười nổi. “Vú thả chim bồ câu chưa?”
Bà gật đầu. “Gã quản lí trại bồ câu rất hiếu kì. Viết bằng Thánh ngữ, con thông minh thật đó.” Ximena đã chép các kinh sách nhiều năm và có lẽ thành thạo ngôn ngữ ấy ngang bằng, hoặc có thể còn hơn tôi.
“Khi huân tước Hector đến,” tôi nói, cố tỏ vẻ hờ hững,”để xem anh ta có đưa chúng ta tới tu viện không nhé.”
Vẻ mong chờ đong đầy mắt bà. “Vú rất thích,” bà nói khẽ.
Chúng tôi không phải đợi lâu. Huân tước Hector xuất hiện tại cửa trong bộ giáp nhẹ – bằng da thuộc thay cho thép, áo choàng đi đường màu nâu thay cho áo choàng đỏ của ngự lâm quân – và nỏ giắt nơi thắt lưng.
“Công chúa đã sẵn sàng chưa?” Tôi cầm bàn tay anh đưa ra và bước vào hành lang, với Ximena đi theo sau.
Kiến thức của huân tước Hector về lâu đài và lịch sử của nó thật đáng kinh ngạc. Anh dẫn chúng tôi qua kho vũ khí, sảnh tiếp khách, sảnh khiêu vũ tráng lệ, và thư viện. Nói như Belleza Guerra, là biết người biết ta. Vậy nên tôi cẩn trọng tập trung lắng nghe những lời anh nói. Tôi thầm nhẩm đi nhẩm lại và tạo nên những hình ảnh đi cùng chúng, như cách thầy Geraldo đã dạy. Và ngày mai, tôi sẽ tự mình đi lại và cố ghi nhớ mọi điều đã học. Sẽ không khó lắm; sự nhiệt tình của huân tước Hector thật có sức truyền đạt.
Ở phòng chân dung, anh chỉ tranh vẽ cha Alejandro, một phiên bản tóc bạc và thấp mập hơn của chồng tôi. Vua Nicolao, người cận vệ bảo, đã đánh bại Invierne để cứu những ngôi làng vùng trung du phía đông sa mạc. Ông chết vì một mũi tên lạc trong trận chiến.
Có gì đó về Nicolao, hoặc giả về trận chiến trước với Invierne, khiến người cận vệ im lặng.
“Anh phục vụ cha Alejandro?”
Anh gật đầu, mắt chăm chú nhìn bức chân dung. “Gián tiếp thôi. Khi tôi mười hai, tôi trở thành tiểu đồng cho hoàng tử Alejandro. Chúng tôi hay đi cùng nhà vua. Ông ấy tốt lắm.” Tôi không biết nhiều về anh nên chẳng rõ có phải niềm bâng khuâng tiếc nuối khiến giọng anh dịu lại không.
Nhưng gì đó khiến tôi thắc mắc, “Và Alejandro?”
Cuối cùng anh cũng thôi ngắm gương mặt vua Nicolao để nhìn tôi. “Đức vua… khác cha mình. Nhưng ngài cũng tốt.”
“Anh còn trẻ mà đã trở thành ngự lâm quân rồi.”
“Tôi lớn lên trong cung điện này, và Alejandro giống như anh trai tôi vậy. Khi vị trí này trống, ngài vui vẻ chỉ định tôi.”
Thật khó mà không bồn chồn trước cái nhìn của anh. Huân tước Hector đáng sợ và nghiêm khắc, chăm chú đến độ hình như anh ta muốn truyền đạt một điều hoàn toàn khác. Anh có dáng vẻ của một con người mang tư tưởng lớn, với những ý nghĩ ẩn sâu bên dưới bề ngoài dửng dưng.
Thầy Geraldo sẽ thích huân tước Hector cho xem.
Người cận vệ nhướng một bên mày, và tôi nhận ra mình đang cười. “Anh làm tôi nhớ đến một người,” tôi giải thích.
Anh cười đáp. Nét trang nghiêm của nhiều năm binh ngũ biến mất, và tôi nhận ra anh trẻ hơn tôi tưởng. Hàm răng của anh rất đẹp, rất trắng dưới bộ ria mép và hiếm khi lộ ra. Anh nói, “Tôi mong đấy là một người được công chúa quý mến.”
Xét theo tính cách của anh, lời này nghe thật lạ. “Đương nhiên,” tôi gượng gạo nói.
Nhưng tôi cảm nhận anh bỗng nghiêm túc, bỗng ngại ngùng khiến anh trở nên xa cách.
Anh chỉ bức chân dung cạnh vua Nicolao. Đó là một người phụ nữ da mịn màng như lụa và có mái tóc màu đá vỏ chai. Cô ấy mặc chiếc đầm màu kem và bàn tay búp măng tinh tế cầm một chuỗi ngọc trai cùng màu. Cô ấy làm tôi nhớ đến chị mình, cũng với vẻ duyên dáng khó tả và sự điềm đạm khiến người ta thấy đây không chỉ là một giai nhân, mà là trang tài sắc vẹn toàn.
“Đó là hoàng hậu Rosaura, vợ trước của đức vua Alejandro, và là mẹ của hoàng tử Rosario.”
Tim tôi chùng xuống và hai má nóng bừng. Trước khoảnh khắc này, tôi vẫn không thực lòng hiểu vì sao Alejandro không thể nào yêu tôi.
“Công chúa?” Người cận vệ hỏi. “Cô không khỏe sao?”
Tôi đặt tay lên bụng. “Anh nghe tiếng bụng sôi không?” Tôi cười lo lắng khi Ximena nhìn mình. Tôi ước bà không hiểu tôi rõ vậy. “Huân tước Hector, sao anh không dẫn chúng tôi tới nhà bếp nhỉ?” Và tôi đưa tay cho anh. Đó là mẹo của Alodia mà tôi đã chứng kiến cả trăm lần, mỗi khi chị muốn đánh lạc hướng hay khiến người ta rối trí.
Anh cầm tay tôi, và chúng tôi quay người bước đi, nhưng tôi kịp thấy vẻ điềm tĩnh của anh hơi suy suyển. Nó chỉ thoáng qua, nhưng tôi giật mình vì những đường hằn quanh mắt và môi anh biến thành buồn bã trông quen thuộc tới lạ.
Bếp trưởng vui vẻ mời tôi thưởng thức bánh dừa nướng mật ong. Khi chúng tôi tới tu viện, tôi mệt mỏi vì phải vác cái bụng no kềnh đi bộ quá xa.
Tu viện nối với chái bắc cung điện của Alejandro trông chẳng lấy gì làm đẹp mắt. Một khoảnh khắc trước, chúng tôi đang dạo bước dưới những thanh giằng gỗ, dọc hành lang đá sa thạch điểm xuyết những viên đá lát màu vàng xanh như trong buồng trung của tôi; khoảnh khắc tiếp theo, xung quanh chúng tôi đã là kiến trúc gạch sống trần thấp, những bức tường cong cong, và nền đất. Tôi có cảm giác như mình vừa bước từ Joya d’Arena vào đồn điền trong cung điện của phụ vương, và tôi đột nhiên thèm khát được về nhà.
Một người đàn ông nhỏ thó, luống tuổi mặc bộ đồ len không nhuộm tập tễnh bước tới, gương mặt xương xẩu giần giật. Ximena hỏi, làm tôi ngạc nhiên, “Cha là cha Nicandro?”
Ông vỗ tay và cười tươi. “Ximena! Cha mới nhận được thư từ cha Donatzine, báo con sẽ đến.” Ông ôm bà, còn huân tước Hector và tôi bối rối đứng nhìn.
Tôi nhắm mắt nghe họ trò chuyện, hít hà mùi hương hoa hồng và nến cầu nguyện cay nồng. Tôi biết mình sẽ năng lui tới đây, để cầu nguyện, hoặc chỉ để được yên tĩnh một mình. Thánh thạch đáp lại suy nghĩ của tôi bằng hơi ấm dịu dàng khoan khoái.
Cha Nicandro ngừng câu chuyện. Ông quay đầu nhìn tôi. “Donatzine không hề nói với cha,” ông thì thào. “Ximena, con là hộ vệ cho người mang Thánh thạch!”
Huân tước Hector bước lại gần hơn, như để che chắn cho tôi, trong khi nỗi lo lắng che phủ đôi mắt Ximena. Tim tôi đập nhanh hơn. Người tu sĩ cảm nhận được Thánh thạch sống trong tôi. Và điều này khiến bà vú không vui.
“Con chắc chắn đưa cô ấy tới đây là khôn ngoan chứ?” Nicandro hỏi.
Tôi ở ngay đây! Tôi muốn hét. Tôi không phải đứa trẻ cho mọi người tha hồ chỉ trỏ bàn tán, như phụ vương và Alodia vẫn làm.
Ximena không trả lời ngay. Tôi thấy bà ngẫm nghĩ một lát, mắt nheo lại. “Chúng con nghĩ vậy là tốt nhất.” Giọng bà khẽ khàng, để không vang xa. “Mọi người dân Orovalle đều biết danh tính người mang Thánh thạch và luôn theo dõi người đó sát sao. Ở đây cô ấy sẽ an toàn hơn, vì ở đây còn ít người nghe theo lời Chúa.”
An toàn hơn. Đây là lí do họ nhanh chóng muốn gả tôi đi xa? Vì Thánh thạch khiến tôi lâm nguy? Tôi nhớ lại gã rợ sơn mình chết giữa rừng vì nhận ra thứ nằm trong rốn tôi. Tôi liếc nhìn Ximena, an tâm hẳn khi thấy mái tóc dài, ngả bạc của bà không gài trâm.
Tất nhiên có lẽ bà biết nhiều cách giết người.
Tôi vội chạy lại, chắn giữa Ximena và người tu sĩ. Lần đầu tiên, tôi mừng vì có thân hình to béo. “Thưa cha Nicandro.” Tôi cười tươi, nhưng không thể khiến sự vui vẻ hiện lên trong mắt. “Con là Elisa, và con rất mừng được gặp cha.”
Tôi không cao, nhưng vẫn nhỉnh hơn ông nửa cái đầu. Ông vui vẻ cười với tôi. “Chào mừng tới tu viện Brisadulce. Con biết không, đây là tu viện đầu tiên đấy. Được xây chỉ vài năm sau khi Chúa đưa tổ tiên của chúng ta từ thế giới đang chết dần đến đây trong bàn tay phải chính nghĩa của ngài.”
Tôi gật đầu. “Con nghe nói cha giữ bản Belleza Guerra cổ nhất.”
“Đúng, đúng. Có tuổi đời vài thế kỉ. Buồn là giấy da không thể tồn tại lâu hơn nữa.”
Tôi cảm nhận Ximena đang đứng sau quan sát, nhưng tôi mặc kệ. “Con rất muốn được so sánh nó với bản sách của con. Con e là hình như có vài chỗ nội dung bị thay đổi.”
Nụ cười ông tươi hơn, gương mặt khắc khổ co giật kích động, và tôi biết ít nhất mình đã có một người bạn. “Con cứ đến, bất cứ lúc nào. Con thông thạo Thánh ngữ, nhỉ?”
“Đó là ngôn ngữ đẹp nhất thế giới này.”
Tôi không thể chọn một đáp án hay hơn, vì ông vỗ lưng và giục tôi đi một vòng quanh tu viện và thăm thú thư viện chứa các thánh thư. Ximena và huân tước Hector lẳng lặng theo sau.
Rất lâu sau, huân tước Hector đưa chúng tôi trở về phòng. Chúng tôi cảm ơn và tạm biệt anh, sau đó tôi nằm ngả ra giường. Đã lâu lắm rồi tôi không đi bộ nhiều vậy.
Ximena lấy nước tắm trong lúc tôi nghỉ ngơi. Một cơn gió nhẹ thổi tấm rèm ban công lay động và khiến những lá cọ lớn xào xạc. Cây cọ! Tôi ngồi bật dậy và nhìn quanh phòng. Hai chiếc ghế, đơn giản nhưng chắc chắn, được đặt bên cái cửa khóa trái kì lạ. Vài chậu cây được đặt bên bức tường đối diện: một cây cọ nữa, một cái cây có lá cỡ đồng xu, một bụi hồng nhỏ đang nhú những nụ hoa màu nhạt. Tôi nằm dài, mỉm cười, không hề buồn phiền vì sắp phải cảm ơn Cosmé.
Bà vú gọi tôi ra buồng trung. Tôi lo cho người bạn mới, cha Nicandro, và tôi không dám nhìn thẳng vào bà khi cởi đồ. Bà giữ tay đỡ tôi bước trên những viên gạch lát trơn nhẵn xuống bồn tắm. Nước mơn trớn đôi bàn chân đau nhức của tôi và thoang thoảng mùi cỏ ba lá.
Ximena bắt đầu xoa bóp vai, nhưng tôi ngăn bà lại.
“Ximena ơi?”
“Ừ, bầu trời của vú?”
“Vú sẽ…” Thật khó hỏi, những lời ấy như những viên đá chẹn họng tôi. “Ý con là, vú sẽ giết cha Nicandro ư?”
Bà hơi hé miệng, như người đang chực thổn thức. “Ôi, Elisa.” Tôi cảm nhận được môi bà hôn lên tóc tôi một hồi lâu. “Không đâu.”
Tôi thở dài và nhắm mắt, cuối cùng cũng thấy nhẹ lòng. “Cảm ơn vú.”