Đức Phật Thích Ca Văn,
Cả bầu trời như hạt bụi.
Ai cầu xin đều được đáp ứng,
Ngài hiện thân khắp mọi nơi.
Viên ngọc sáng ngời như ngàn vầng mặt trời,
Hạt kim cương trăm lần mới đẹp.
Trẫm nay xin kính lễ,
Xin nguyện cứu mọi loài.
Đời nhà Tống, quan Thừa tướng Trương Thương Anh, pháp danh Cư sĩ Vô Tận tường thuật.
Thành phố Hồ Chí Minh Việt Nam,
Phật lịch 2551 - 2007
Tổ đình Vĩnh Nghiêm
Hòa thượng Thích Đức Nghiệp
từ Hán văn sang Việt văn.
Đức Khổng Tử nói: “Buổi sáng được nghe Đạo, buổi chiều chết cũng đáng”.
Nếu lấy Nhân, Nghĩa, Trung, Tín làm Đạo thì Đức Khổng Tử chắc chắn đã có Nhân, Nghĩa, Trung, Tín. Còn lấy sự sống lâu, thấy nhiều làm Đạo thì buổi chiều chết cũng đáng.
Vậy thực sự là muốn nghe Đạo gì? Đó chính là Đạo giác ngộ cao siêu của Đức Đại Giác Từ Tôn đã minh tâm, kiến tính. Nếu không phải vậy thì tại sao Ngài Liệt Tử lại dẫn chứng lời Đức Khổng Tử đã nói:
“Khâu tôi (tên của Đức Khổng Tử) nghe thấy ở Tây phương có vị Đại thánh nhân, không cần cai trị mà người dân không nổi loạn, không cần tuyên truyền mà người dân vẫn tự tin, không cần ra lệnh mà người dân vẫn thực hành, thật là mênh mông... người dân không thể nào diễn tả hết!”
Liệt Tử là người học Đức Khổng Tử mà còn thuật lại lời nói ấy, tôi tin chắc là không sai.
Đức Khổng Tử cũng là Thánh nhân mà còn tôn trọng đạo Phật; thế mà những người học Đức Khổng Tử hiện nay chưa đọc nổi bộ sách gồm trăm quyển, mà trước hết lại lấy việc bài bác Đức Phật cho là cấp bách, tại sao vậy? Không chỉ Đức Khổng Tử tôn trọng đạo Phật, mà cả đến các vị thần linh trên dưới đều tôn thờ, huống chi nay, những kẻ phàm phu lại thích chê bai, tự dối lòng mình, thật đáng buồn vậy!
Ông Hàn Dũ nói: “Là người viết sử không đúng, nếu không bị tai họa của người đời thì cũng bị hình phạt của trời”. Vậy tại sao không biết sợ hãi mà lại làm bừa như thế?
Bởi lẽ người viết sử phải thu lượm những dấu ấn xác thực của người ta, mà còn sợ bị những tai họa và hình phạt, huống chi lại khinh thường và không có duyên cớ nhằm đả kích Đức Phật là bậc Đại thánh nhân vậy ư?
Vả lại, người ta ngày nay, từ vô lượng kiếp trôi lăn mọi nẻo, nhờ chút duyên lành mà được cái thân người này, sống lâu hay chết non vẫn chưa chắc chắn, dù có được cái tuổi 60, 70 cũng chỉ là tạm gửi ở đời người. Vì thiện căn yếu kém, không đủ khả năng tiếp cận và hiểu rõ đạo lý. Chẳng bao lâu, tuổi già ập đến, trở thành kẻ sống thừa chết uổng, thật đáng đau buồn! Đâu còn nhàn rỗi mà buông thả vô minh nghiệp thức, mở đầu gây chuyện, rủ rê đời sau theo băng nhóm cực ác, không biết giác ngộ, lại theo bụi đời, cùng vào đường ác, tội chứa đầy mình, sao không thận trọng?
Vả lại, Đức Phật đâu có cầu mong gì ở đời, Ngài chỉ đem lòng từ bi rộng lớn, nguyện lực sâu dày, thương cứu tất cả chúng sinh qua lại sáu đường (trời, người, A tu la, địa ngục, quỷ đói, súc sinh), chịu đủ thứ khổ, không có thời gian chấm dứt. Bởi vậy, từ cung trời Đâu Suất, Ngài thị hiện giáng sinh vào hoàng gia của quốc vương Tịnh Phạn, làm đệ nhất thái tử, đạo đức, văn võ oai nghiêm khác thường, trong hàng Thánh nhân chưa có ai bằng Ngài.
Vào tuổi 19, Ngài bỏ ngôi báu xe vàng, xuất gia tu đạo, thành Phật Đại Giác, làm thầy cả trời và người, tùy theo trình độ căn cơ, Ngài đã giảng dạy ba Thừa (Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát), năm giáo (Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa và Niết Bàn). Về sau, Ngài lại đem kho Trí tuệ Chân lý và Diệu tâm Niết bàn, truyền cho Đại Ca Diếp (một trong mười vị đại đệ tử của Ngài), thành một giáo lý truyền riêng ngoài kinh điển, truyền thụ cho nhau, nhằm hướng dẫn những người có căn cơ trình độ cao.
Do vậy, Hoàng đế Thái Tông của bản triều ta đã viết lời tựa ở Kim Cương Bát Nhã Kinh rằng: “Thật đáng thương! Những kẻ không biết tu dưỡng vì nghiệp nặng, những người cố chấp vì ngu mê. Những kẻ hiểu biết thấp và những người tri thức nông cạn thì không thể nghiên cứu kinh này. Lời dạy của Phật thật là vĩ đại, cần phải tin kính sâu sắc”.
Từ sau khi Phật pháp đã truyền bá vào Trung Quốc thì nơi nào cũng có Đại Tạng Kinh.
Bởi vậy, tôi thường nói: Muốn bài bác Phật giáo thì nên đọc hết những kinh sách đó, tìm hiểu sâu những chân lý đó, vạch ra những điều không phù hợp với Nho giáo ta, cùng với ý kiến của những người học Phật nhằm giải thích những điều nghi hoặc, rồi sau mới bài bác Phật giáo thì hay hơn.
Nay, người ta không thông suốt chân lý Phật giáo, mà lại bài bác bừa bãi thì cũng như con chim sẻ chê cười chim đại bàng, loài cỏ non khinh thường cây tùng bách. Như ông Âu Dương Tu chê rằng: “Ông Phật chỉ khéo làm những việc không có hiệu nghiệm, chẳng có thiết thực”.
Bởi lẽ ông ta chưa suy nghĩ kỹ, thông thường thì người làm việc sai quấy, đâu có chủ tâm, ngay như việc cấp cứu đói rét cũng chỉ tạm qua cơn hoạn nạn mà thôi. Còn Đức Phật thì đã chối bỏ sự giàu sang, quên mình vì đạo. Nếu không phải vì sự cấp cứu đói rét và không phải vì sự cứu khỏi hoạn nạn thì việc làm của Phật mới là sai quấy, vậy Đức Phật còn có ý đồ gì? Nếu dùng việc làm sai quấy ấy nhằm giúp đỡ cho đồ đệ của mình thì ngay kẻ phàm phu còn biết hy sinh bản thân để thương cứu những người bên cạnh mình. Vậy, Đức Phật lại không biết như thế hay sao? Xưa nay người đời nếu có một chút lừa dối nào thì chắc chắn sẽ bị mọi người từ bỏ, huống chi các bậc hiền triết có trí thức lại theo hay sao? Giả thiết Đức Phật có manh tâm sai quấy thì Phật giáo làm sao có thể kéo dài được hàng ngàn năm, phổ biến mười phương; trời, người, quỷ thần đều hướng tâm ngưỡng mộ và các vị Bồ tát, La hán đều cùng nhau hoằng dương, giáo hóa sâu rộng?
Vậy hãy thử bàn việc này: Người mà có tâm gian dối, lại muốn được những người phàm phu ngu muội tin theo, còn không thể được; huống chi làm sao có thể thuyết phục được các vị Thánh nhân có đủ thần thông và trí tuệ?
Kinh chép:
“Đức Phật là người nói chân thật, nói đúng chân lý, không bao giờ nói sai khác”.
Kinh lại chép:
“Chư Phật không bao giờ nói sai”.
Lời nói ấy thật đáng tin cậy và sáng tỏ như mặt trời. Ngài Mạnh Tử nói: “Đọc lời dạy của vua Nghiêu, làm theo việc làm của vua Nghiêu, đó chính là vua Nghiêu”.
Tôi thì muốn nói: “Đọc lời dạy của Phật, làm theo đức hạnh của Phật, đó chính là Phật”. Vậy còn thắc mắc gì nữa? Phật Tổ tu hành và đạt đạo mau lẹ như thế, mà người ta lại cho là khó khăn thì thật đáng buồn thương! Tóm lược những điều chủ yếu của Phật thì chỉ có Giới, Định, Tuệ mà thôi (nghĩa là: Đạo đức học, Tâm lý học và Trí tuệ học). Nếu có khả năng giữ gìn giới hạnh thì quyết sẽ không bị rơi vào ba đường tội ác (đó là: địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh). Nếu có Định lực thì quyết sẽ vượt qua sáu điều tham dục (sáu thứ ham muốn của người đời như: tiền của, sắc đẹp, danh vị, ăn uống, ngủ say và đam mê dâm dục; khác với sự giải thích của Đại Trí Độ Luận quyển 21). Nếu có cả thiền định và trí tuệ tròn sáng thì sẽ đạt được tri kiến của Phật và hội nhập vào địa vị Đại thừa, chứ đâu có khó. Thi Kinh chép: “Đạo đức thì nhẹ nhàng, mà người dân ít khi thực hành được”. Đó cũng là ý nghĩa nêu trên.
Ông Hàn Dũ cùng Thiền sư Đại Điên bàn luận qua lại mấy ngàn lời. Bất ngờ Thiền sư hỏi:
- Ông hãy tự so sánh sự học vấn và tri thức của mình có thể ngang bằng với Ngài Phật Đồ Trừng đời Tấn được không? Có thể bằng Ngài La Thập đời Diêu Tần được không? Có thể bằng Ngài Bảo Chí đời Tiên Lương được không?
Ông Hàn Dũ đáp:
- Đối với những người đó thì tôi không bằng.
Thiền sư Đại Điên nói:
- Ông không bằng những người ấy thì rõ rồi nhưng những điều họ vâng làm thì ông lại cho là không đúng, tại sao vậy?
Ông Hàn Dũ không thể đáp thêm được.
Theo lời nhận xét công bằng của thiên hạ thì Đức Phật đâu có làm hại gì cho các vụ việc của người đời.
Như Kim Cương Bát Nhã Kinh chép:
“... Do vậy, Đức Phật dạy: Tất cả các pháp đều là Phật pháp”.
Bài kệ trong Duy Ma Kinh thì chép: “Kinh sách, mật chú, kỹ thuật, công nghệ, thảy đều là những việc làm lợi ích cho chúng sinh”.
Pháp Hoa Kinh chép: “Những việc làm lợi ích cho chúng sinh đều hợp với chính pháp”.
Ngài Phó Đại Sĩ và Ngài Bàng Đạo Nguyên đều có vợ con. Như vậy có nghĩa là thân ở nơi trần tục nhưng tâm thì trong sáng, có khả năng chuyển vọng thức thành chính trí, cũng như đãi cát lấy vàng, tất cả phiền não đều là Bồ đề, tất cả việc đời đều là việc Phật (làm cho tốt đời, đẹp đạo). Nếu có khả năng như vậy tức là Bồ tát tại gia làm việc giúp đời, thật là vĩ đại!
Ông Âu Dương Tu nói rằng: “Phật là tai họa lớn cho Trung Quốc”.
Ông ta nói gì mà quá đáng vậy? Tại sao không suy nghĩ kỹ?
Vậy, nếu có hại cho mọi người thì tại sao người ta không chán ghét và trời không tiêu diệt? Và làm sao có thể tồn tại lâu dài trong thiên hạ được?
Kiệt, Trụ cũng là vua của Trung Quốc nhưng những dấu vết hại nước hại dân của các ông vua này thì đã rõ ràng, mà thiên hạ đời sau đều oán trách; còn như Đức Phật là một Thánh nhân xa xưa, Ngài chỉ mang những lời dạy truyền tới đất nước này và vì thế, trời, người đều hướng theo, cũng như các cỏ cây đều hưởng được làn gió mát lành.
Nếu Đức Phật không phải là bậc đại từ thiện, đại trí tuệ, đại nhân duyên và đại lợi ích, nhằm cảm hóa lòng người và trời thì ai có thể hơn được? Bởi vậy tất cả tội nặng đều có thể sám hối nhưng tội báng bổ Phật pháp thì không thể sám hối. Lời nói đó thật đúng đắn! Vì báng bổ Phật pháp tức là tự dối lòng mình, mà tự dối lòng mình thì cũng như viên ngói đã vỡ, không bao giờ lành lại; củi đã cháy thành tro, không bao giờ trở lại thành khúc cây. Vậy làm sao mà có thể sám hối được! Theo lời Phật dạy thì chỉ có cách truyền bá Phật pháp mới báo ân Phật được.
Phật giáo hiện nay, tuy trong trăm ngàn người, không có được một người giống như người xưa nhưng đâu phải là lỗi do Phật pháp. Lỗi của những người đó tuy là như vậy, thế nhưng nghi lễ mà không có lễ vật thì không thể biểu trưng; âm nhạc mà không có chuông trống thì không thể vang truyền, cũng như nếu không có Tăng đồ duy trì đạo lý thì Phật pháp sẽ tuyệt diệt và việc tiếp nối thọ mạng của Phật phải nhờ vào đâu?
Còn những kẻ lạm dụng bộ áo và hình tướng của Phật thì đã có quỷ thần trừng phạt, đã có quả báo răn đe, đã có hình luật và hiến pháp xử lý và đã có nề nếp kỷ luật. Vậy chúng ta có tham dự gì không? Đối với vấn đề này, cuối cùng tôi thấy còn có hai thuyết:
Ngài Tô Tử Chiêm từng bảo tôi rằng, các môn đồ nhà Phật có liên hệ đến giáo pháp của chư Phật thì không nên ứng xử theo kiểu thế tục với họ. Nếu họ có việc phải đến cửa quan thì chúng ta nên nhắc nhở họ phải nhớ truyền bá Phật pháp, rồi bỏ qua cho họ. Lại nữa, khi ông Tăng Phùng Nguyên đương làm việc ở quận, người nhà Phật có kiện cáo gì thì ông ta xét đúng tội và phạt chứ không tha; hoặc có người được miễn khởi tố thì ông ta nói: Phật pháp ủy nhiệm cho quốc vương đại thần. Nếu không phạt một người để làm gương cho trăm người, thì kẻ làm ác sẽ tăng thêm nhiều. Trong đời hiện nay, muốn chấn chỉnh lại, ngoài chúng tôi ra, vậy còn có ai?
Tôi nhận xét lời nói của hai ông thì ông Tăng Phùng Nguyên có nhiều điều áp dụng được. Còn có những nhà tu không lương thiện thì thật là đáng trách! Tại sao họ không biết nhớ tới ơn vua ban cho giấy chứng điệp, đó là ân huệ của nhà vua. Sao họ không nhớ người xưa đã nói, một người đi tu, chín họ được sinh Thiên? Sao họ không nhớ, mình đã từ bỏ cha mẹ và đời trần tục, vậy mình phải làm gì cho xứng đáng? Sao họ không nhớ, thời gian qua mau mà đạo nghiệp lại khó thành? Sao họ không nhớ, hiểu đạo chưa thông và bốn ơn (ơn cha mẹ, ơn đất nước, ơn thầy bạn và ơn Tam bảo) chưa đền đáp? Sao họ không nhớ, đức hạnh chưa tu, mà lại lạm dụng sự cung kính của tín đồ? Sao họ không nhớ, mình không tu dưỡng đạo đức thì ai tu đây? Sao họ không nhớ, chính pháp sẽ suy sụp mà tà pháp sẽ mạnh thêm?
Bởi lẽ khi xưa, Ngài Vô Trước gặp Ngài Văn Thù thì đã có thuyết Thánh phàm chung sống, rồng rắn lẫn lộn; huống chi ngày nay cách Phật đã xa, mà lại muốn được thuần nhất thì thật là khó! Thế nhưng, nhớ tới Phật pháp còn được lưu truyền thì thật quý hiếm, cũng như đãi cát tìm vàng, vỡ đá lấy ngọc, vì trong mười thùng cát mới được một hạt vàng; cả một núi đá mới được một tấc ngọc, mà cho là của quý trên đời. Không phải chỉ riêng các đệ tử học Phật là như thế, mà cả ở thời đại Đức Khổng Tử cũng đã chia ra người quân tử Nho giáo và kẻ tiểu nhân Nho giáo rồi. Huống chi đời sau này, những người học theo Nho giáo, đâu phải đều là như Đức Khổng Tử, Ngài Mạnh Tử, Nhan Tử và Mẫn Tử.
Tuy rằng những người học đều mong muốn trở thành quân tử, song làm sao có thể bảo đảm chắc chắn họ đều là những người quân tử? Hãy xem qua từ đời xưa, những kẻ cướp ngôi, gian thần và phản nghịch, phần nhiều lại là những người học rộng tài cao. Đó đâu phải là lỗi do đạo giáo của các bậc thánh hiền và các vị vua chúa ngày trước, và càng không phải là lỗi của các kinh sử. Do đó mà suy ra thì các nhà sư trong thời giáo pháp suy vi, có những người hư hỏng và vô kỷ luật là lẽ tất nhiên!
Cho nên ông Hàn Dũ mới nói:
“Đạo Phật là giáo pháp man rợ. Từ thời Hậu Hán, truyền vào Trung Quốc, chứ từ xưa chưa từng có. Từ đời Hoàng Đế trở xuống và vua Văn Vũ trở lên, đều sống không dưới trăm tuổi nhưng đời sau theo Phật thì lại giảm dần và niên đại trị vì thì lại càng ngắn...”.
Thật là nhỏ nhen, hẹp hòi vì ông Hàn Dũ đã dối gạt mình! Phải chăng ông Hàn Dũ đã quên lời Ngài Mạnh Tử nói:
“Vua Thuấn sinh ở đất Phùng, rời về Phụ Hạ, mất ở Minh Điều và là người của xứ mọi rợ phía Đông. Vua Văn Vương sinh ở Kỳ Chu, mất ở Tất Dĩnh và cũng là người của xứ mọi rợ phía Tây. Mà vua Thuấn và vua Văn Vương đều là Thánh nhân, làm gương mẫu cho cả thiên hạ đời sau, vậy có thể xóa hai người đó và bỏ những gương mẫu của họ được không?”
Huống chi Đức Phật thuộc dòng quốc vương Tịnh Phạn ở giữa Nam Thiệm Bộ Châu, không phải là xứ mọi rợ. Nếu cho là Phật giáo đời thượng cổ chưa từng có và không nên theo, thế thì bạo chúa Si Vưu hiếu chiến và ông già Cổ Tẩu mù điếc gàn dở, sinh ở đời thượng cổ; còn Ngài Chu Công và Đức Khổng Tử lại sinh ở đời sau. Vậy có nên bỏ hai vị thánh hiền Chu Công, Khổng Tử ở đời nhà Chu về sau, mà lại chấp nhận hai kẻ hung ác và ngoan cố (như Si Vưu và Cổ Tẩu) ở đời thượng cổ được không?
Hơn nữa, người đời thượng cổ ở trong hang, sống ngoài hoang dã, ăn cả lông, uống cả máu, rồi mới biết cách dựng cột làm nhà, dùi cây lấy lửa, thế mà người đời sau đều không cần sử dụng. Còn nếu cho rằng người đời xưa thì sống lâu nhưng người đời sau vì thờ Phật mà tuổi thọ suy giảm và niên đại lại càng rút ngắn thì đó là cách tranh luận của người chỉ biết rung chuông, chứ không chịu lắng nghe.
Vậy chẳng lẽ ông Hàn Dũ lại không biết chuyện vua Ngoại Bính ở ngôi được có hai năm và vua Trọng Nhâm được có bốn năm? Và chẳng lẽ ông cũng không biết việc ông Khổng Lý, Nhan Uyên và Nhiễm Bá Ngưu yểu mạng hay sao? Vả lại, thiên Vô Dật trong Thư Kinh có chép:
“Từ thời đó về sau, cũng chẳng có ai là được lâu dài, hoặc được mười năm, hoặc được bảy tám năm, hoặc được năm sáu năm, hoặc được ba bốn năm”.
Thời ấy, ở đây chưa nghe thấy tên Phật pháp. Từ đời nhà Hán vua Minh Đế, sau khi Phật pháp đã truyền đến đây (Trung Quốc), Ngài Đại sư Nhị Tổ thọ được 107 tuổi, Ngài An Quốc Sư được 128 tuổi, Hòa thượng Triệu Châu thì thọ tới năm 120 tuổi. Vậy, đó cũng là lỗi của Phật pháp chăng?
Ông Hàn Dũ lại nói (trong tờ biểu tâu lên vua Đường vào năm 819): “Như lời nói ấy mà có bằng cớ thì gia đình và dòng họ của hạ thần đều xin chịu chết…”. Đây cũng là lời tự che đậy của ông ta một cách quá đáng.
Đức Phật thì đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, không phân biệt giữa mình và người, thù và bạn đều bình đẳng, như ông Đề Bà Đạt Đa tìm đủ cách làm hại Đức Phật, cuối cùng Ngài vẫn thương cứu và thụ ký sau này sẽ được thành Phật.
Nhưng người đời sau hoặc cầu xin được các việc vui buồn, phước họa mà cho là thiêng liêng thì đó chỉ là việc tế lễ, cúng kiếng các vị quỷ thần bé nhỏ mà thôi, chứ đâu phải là đấng cha lành vĩ đại. Ngay như người đời có lòng độ lượng, bao dung đối với các loài vật, phạm lỗi mà vẫn tha thứ, huống chi tâm lượng của Đức Phật bao trùm cả vũ trụ, trải khắp các thế giới, còn tin hay không tin, đâu có thêm bớt gì. Đức Phật như một vị vua thuốc giỏi, khéo ban cho những thứ thuốc chính pháp, người nào có bệnh, tin rồi uống thì tất nhiên sẽ khỏi bệnh; còn người nào không tin và tự mình chối bỏ thì không thể lành bệnh, chứ đâu có phải là lỗi của ông thầy thuốc! Con côn trùng mùa hạ không thể nói chuyện sương tuyết mùa đông, con ếch ngồi đáy giếng không thể nói chuyện biển Đông. Nếu cho rằng người thờ Phật giảm tuổi thọ thì người chê Phật sẽ tăng tuổi thọ, vậy thì người đời sau bài bác Phật sẽ có nhiều.
Những quan chức và thường dân thì không đáng nói, ngay như vua Đường Vũ Tông, niên hiệu Hội Xương thứ 5, vào hạ tuần tháng tám, bắt đầu bỏ Phật giáo, đến đầu tháng ba, năm thứ 6, mới được nửa năm thì nhà vua đã chết, vậy việc này chúng ta thấy thế nào? Còn như thời nhà Đường, có các ông Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lư Đồng và Lý Cao thì ông Hàn Dũ cũng phải tự biết mình không thể nào theo kịp nhưng các ông ấy cũng chưa bao giờ bài bác Đức Phật và cũng không bị tổn thất đến thanh danh cao đẹp của họ.
Con người ta thường chỉ thích cái gì giống mình và không ưa cái gì khác mình, rồi cho cái này đúng, cái kia sai. Vả lại, sở thích của người đời là cái hoa mỹ, thích thú, nhưng điều mà cần phải tu tập của nhà Phật là pháp môn an tâm tĩnh ý, đó là lý do nhà Phật trái ngược với người đời. Còn những người có trí thức thì cần nhận xét những điều vượt trội của Phật lý và sự hiện hành của đạo pháp, chứ đâu phải không quan tâm đến điều đúng, sai của người này người kia! Những người ở nơi tùng lâm hay thiền viện, ăn nghỉ, tham thiền tĩnh tọa, phải giữ nề nếp, đều là chuẩn mực của Phật Tổ, xưa nay đều y cứ vào đó mà tu hành thì thảy đều thành đạo chứng thánh.
Mỗi khi thấy người đời chê trách, cho là không hợp với thói đời, nhưng Đức Phật đặt ra giáo pháp rất công bằng và mở rộng, đâu phải chỉ dành riêng cho những người cạo tóc, mặc áo đà (các vị Tăng Ni). Bởi vậy, đời nhà Đường, quan Thừa tướng Bùi Hưu, hiệu Công Mỹ có viết lời tựa ở Hoa Nghiêm Pháp Giới Quán rằng:
“Đức Thế Tôn khi mới thành Phật, Ngài nói: ‘Thật là kỳ diệu, tất cả chúng sinh đều có đủ đức tướng và trí tuệ của Phật nhưng vì suy nghĩ sai lầm và mê chấp nên không thể thành Phật’. Vì thế, Ngài giảng Hoa Nghiêm Kinh và đề cao bản thể của vũ trụ. Tùy theo căn cơ và trình độ của mọi người, Ngài đặt ra nhiều phương tiện khác nhau, khi mở rộng, khi khép kín, nhằm dìu dắt họ; chứ không thể cố chấp một pháp môn nào mà đạt được”.
Nhưng ông Âu Dương Vĩnh Thúc lại cho rằng:
“Cái thời chưa có Phật thì ảnh hưởng của Thi Kinh, Thư Kinh, Thiên Nhã và Thiên Tụng đã mang lại hạnh phúc cho nhân dân...”
Như vậy, tâm của ông Vĩnh Thúc chỉ thích cái gì giống mình, và không ưa cái gì khác mình, vì không biết nghĩ xa và hiểu rộng, thật là quá hẹp hòi! Vậy, nếu phải dùng cái chính sách cổ xưa (như thời gian đó chưa có chữ viết, mà phải dùng sợi dây thắt nút để ghi lại mỗi việc xảy ra) để áp dụng vào thời nay, liệu có được không?
Sao ông không hiểu cái lẽ thường tình của thiên hạ là: Vật gì mà hiếm có thì rất quý trọng. Giả sử người đời ai cũng muốn vinh hoa, ai cũng cầu bổng lộc, vậy người mong cầu mà nhiều thì sự tranh giành sẽ khởi sinh. Sự tranh giành đã khởi sinh, thì sự ghen ghét sẽ nảy nở. Sự ghen ghét đã nảy nở, thì sự khen chê sẽ trỗi dậy. Sự khen chê đã trỗi dậy, thì sự oán thù sẽ xảy ra. Sự oán thù đã xảy ra, thì sự hãm hại lại có nhiều. Sự hãm hại đã có nhiều, thì cái tâm ác độc sẽ không từ một việc gì cả. Cái tâm ác độc đã không từ một việc gì cả, thì dù là người theo đạo nào cũng chẳng đáng quý. Ngay cả cái phong cách của người sĩ phu như thế, mà lại mong cai trị thiên hạ thì cũng rất khó!
Đức Phật đem chính pháp trao cho quốc vương đại thần không dám độc tài. Ngài muốn cho những người đời sau, không lợi dụng uy quyền làm cao đẹp, mà lấy việc chấn hưng đạo đức mới là cao đẹp; không cần sống bằng chức tước, mà sống theo chính pháp. Ngài đi xin ăn nơi dân chúng, nhằm khắc phục lòng kiêu mạn, và rủ lòng thương tất cả chúng sinh.
Lại nữa, theo Duy Ma Kinh thì Đức Phật sai ông Ca Diếp trước đến hỏi thăm đau yếu. Ông Ca Diếp nhớ lại: Ngày trước ở xóm nghèo khi đi xin ăn thì ông Duy Ma Cật đến bảo tôi: “Chỉ có Ngài Đại Ca Diếp là có tâm đại từ bi nhưng không có khả năng thực hiện rộng khắp, vậy nên Ngài bỏ nơi giàu sang mà vào nơi xóm nghèo để xin ăn”.
Pháp sư Tăng Triệu chú giải đoạn văn trên: “Ngài Ca Diếp cho rằng người nghèo vì trước đây không vun trồng phước đức cho nên phải sinh nơi xóm nghèo. Nếu hiện nay lại không góp phần phước thiện, thì sau này lại càng nghèo khổ. Vì thương những người nghèo khổ kéo dài, nên Ngài đến xin ăn nhiều hơn”. Lại nói:
“Thấy người đến xin thì nên nghĩ rằng đó là người thầy lương thiện”.
Pháp sư La Thập thì chú giải rằng:
“Vốn dĩ không có tâm bố thí, nhưng do người kia đến xin mà mình phát tâm bố thí. Nên nghĩ người kia là thầy mình, một người thầy lương thiện”.
Vấn đề không có vợ con là nhằm đạo nghiệp được dễ dàng, và nhẹ đi những vướng mắc mà nhờ đó đạo nghiệp dễ thành đạt.
Vấn đề hình tướng và ăn mặc cần đơn giản là nhằm tránh xa phiền não bụi đời, luôn luôn cảnh giác thức tỉnh. Tiếc thay, những kẻ lạm dụng cửa Phật, chí nguyện thấp kém không có khả năng theo kịp người xưa, thật đáng buồn vậy!
Tuy nhiên, việc dìu dắt nhân dân và cải thiện đời người thì không gì hay hơn giáo pháp; hiểu suốt chân lý và ngộ đạt Phật tính, thì không gì cao đẹp bằng đạo đức. Những người ấy nương theo giáo pháp mà hành đạo, và mong đạt được giải thoát, lấy đó mà đền đáp ơn sâu, nghĩa nặng, lấy đó mà giúp đỡ vua quan và những người thân thì thật là cao đẹp!
Vì vậy, các vị vua chúa đời sau, đã cho xây dựng chùa chiền, dâng cúng ruộng vườn và còn khuyến khích để các Tăng Ni yên tâm hành đạo, tùy theo địa phương mà giáo hóa, thanh danh các vị ấy vang động khắp ngoài bốn giai cấp nhân dân (sĩ, nông, công, thương), thân hình các vị ấy lại ở trong nếp sống Sáu nguyên lý hòa hợp (như thân thể sống chung hòa hợp; miệng nói ôn hòa không tranh cãi; tâm ý hòa thuận vui chung; có sáng kiến cùng chia sẻ thuận theo; giới luật phải chấp hành, cùng tu dưỡng và quyền lợi phải chia đều). Nghĩa là giới hạnh của Tăng Ni mà trong sáng, thì có ảnh hưởng phước thọ tới trời người và tâm của các vị ấy mà chân thành, thì đạo đức có thể đồng hành cùng Phật Tổ. Chính các vị ấy được hưởng những đặc ân, đều do vua chúa ta ban tặng. Nếu lại có khả năng tu dưỡng tinh chuyên thiền luật thì sẽ không hổ thẹn với trời đất và sẽ là tiêu biểu cho tất cả chúng sinh, người nhỏ thì biết tránh xa tội ác, hướng theo lương thiện; người lớn thì ngộ được bản tâm, trở thành hiền thánh; trên thì phụ giúp sự truyền bá chính pháp, dưới thì đền đáp ơn sâu khó trả, thế thì xứng đáng là đệ tử của Phật.
Trái lại, nếu vi phạm giới luật của Phật Tổ và lạm dụng cơm áo của nhà chùa thì làm sao mà tránh khỏi tội? Đời này tuy có ba ông vua: Ngụy Thái Vũ, Chu Vũ Đế và Đường Vũ Tông, vì theo lời xúc xiểm của kẻ hạ thần gian ác, nên đã quyết tâm loại bỏ đạo Phật. Nhưng sau khi bị loại bỏ, Phật giáo lại càng hưng thịnh nhiều hơn. Cũng như gió sương chỉ tạm thời làm khô héo cảnh vật, vì sau mùa đông lại có mùa xuân. Vậy muốn diệt hết cây cỏ, thì phải có khả năng làm cho sau mùa đông không có mùa xuân mới được. Nếu đã biết sau mùa đông phải có mùa xuân, thì tội gì lại tự chuốc lấy tiếng gian ác mà làm cho Phật giáo được rạng rỡ thánh thiện, và đối với chính mình lại chẳng có lợi ích gì!
Tôi đã từng quan sát những người đệ tử Phật, trong đó có người thì từ bỏ giàu sang, có người thì thông minh kiệt xuất, thế mà họ cũng chẳng quan tâm đến việc hưởng thụ giàu sang, sắc đẹp mùa xuân, món ăn tươi béo ngọt ngào và quần áo ngựa xe xinh đẹp. Họ chỉ quyết tâm sống nơi yên tĩnh, vùng sâu vùng xa, mặc áo vải thô, ăn canh rau đắng, miễn là qua khỏi đói rét; cho dù chưa có khả năng đạt được Đại đạo, song chắc chắn sẽ được toại nguyện yên vui.
Thế nhưng, người phê phán lại ghen ghét sâu cay và cho rằng: “Những người đệ tử Phật không cày bừa ruộng đất mà lại có ăn”.
Thực ra người đó chỉ biết một mà không biết những việc khác. Phải chăng người ấy đã không thấy rõ, ở đô thành rộng lớn và làng ấp đông đúc, không cày ruộng mà lại có ăn thì 10 người có tới 7, 8 người; cả đến những nơi núi rừng sông biển thì có những kẻ trộm cướp; ở nơi quán chợ phố phường thì có những kẻ ca hát, đóng kịch, làm thuê; ở nơi ngõ hẻm suối chảy thì có những tên buôn lậu bán giả; và ở trong các đền miếu thờ thần thì có đồng cô bóng cậu, thầy cúng phù phép; tất cả đều là những người không cày ruộng mà vẫn có ăn, đâu phải chỉ riêng những người biết tu tâm dưỡng tính mới không làm việc đó!
Theo như những người dân trong sổ hộ tịch hiện nay, thì những người tự cày bừa lấy là được bao nhiêu? Còn như các hàng Phật tử thì: có người cày bừa, gieo mạ; có người trồng cây rừng; có người tưới bón rau quả; có người làm ruộng, gặt lúa v.v. Không chỉ riêng ngày nay mà cả ngày xưa, như Thiền sư Địa Tạng, chính Ngài cũng cày ruộng và đã nói: “Các nơi thuyết giảng Thiền tông thao thao bất tuyệt, sao bằng tôi cấy ruộng mới có đủ ăn”.
Thiền sư Bách Trượng Duy Chính bảo đại chúng phải làm ruộng và Ngài dạy rằng: “Đại chúng hãy làm ruộng vì lão Tăng, lão Tăng phải thuyết giảng ý nghĩa của Đại pháp cho đại chúng”.
Thiền sư Đại Trí dạy rằng: “Một ngày không làm thì một ngày không ăn”.
Tổ Quy Sơn hỏi Tổ Ngưỡng Sơn rằng:
- Khóa Hạ này, Ngài làm được những việc gì?
Tổ Ngưỡng Sơn đáp:
- Bừa được một mảnh đất và cấy được một ruộng lúa.
Tổ Quy Sơn nói:
- Ngài xứng đáng đã không bỏ phí thời gian.
Thiền sư Đoạn Tế thường tập hợp đại chúng đi trồng cây thông (cây tùng) để làm củi nấu trà.
Thiền sư Động Sơn Thông thường tự hay trồng cây tùng Kim Cương Lĩnh. Do vậy, tùng lâm hiện nay còn giữ cái đạo phong: tập hợp tất cả đại chúng đi làm.
Các hàng đệ tử nhà Phật tuy đông nhưng mỗi người mỗi ngày một bữa cháo, một bữa cơm, mặc áo chắp vá cho ngăn ngừa lạnh rét, và sự chi dùng của mỗi vị cũng rất ít. Hơn nữa, các vị Tăng Ni ấy đã được ơn vua ban tặng nhằm tiếp nối phát triển ngôi Tam bảo, mà lại muốn bắt buộc các vị ấy phải làm ruộng, thì có hợp không? Huống chi ruộng vườn của các vị ấy, thường được miễn đóng thuế theo tục lệ. Lại có các quan khách thường qua lại kiểm tra các tự viện, và lễ hội thì các vị ấy cũng phải cung cấp đủ thứ. Như vậy, sự chi tiêu hằng năm của nhà chùa còn nhiều hơn những người dân có biên chế, và đối với việc công việc tư, các vị ấy cũng chẳng có làm tổn hại gì.
Tôi thường băn khoăn về việc khuyến khích nông nghiệp của các quan chức chỉ có hư danh và tôi lo ngại thực sự là người đời lợi dụng việc nông nghiệp này mà áp chế người khác, còn nếu có ích lợi thiết thực thì chẳng cần khuyến khích mà mọi người vẫn tự làm.
Hiện nay, người ta lại làm hại việc công, hướng về tư lợi và liên tục lấn chiếm, hoặc chớp thời cơ để làm những việc không cần thiết, đó là cách ức chế nhân dân, chứ nào phải khuyến khích gì! Nay, những kẻ ăn chơi và lười biếng thì có tới 7, 8 người trong số 10 người; còn người cày ruộng thì chỉ có 2, 3. Tuy có ít người cày ruộng, nhưng thường được mùa thì thóc lúa vẫn đầy đủ. Những năm gần đây, hoặc nắng khô hoặc ngập lụt, năm nào cũng có. Lúa má khắp nơi, tươi tốt nhưng không có kết quả (không có hạt thật mà chỉ có hạt lép), mỗi năm thường mất 2 đến 3 phần 10, tệ nhất thì mất hơn một nửa. Vậy, không phải vì có ít người cày ruộng mà thiếu lương thực!
Ngài Lão Tử nói:
“Tôi thực hành đạo Vô vi mà nhân dân tự giàu có”. Nghĩa là: Tôi không làm việc bằng tay chân mà người dân vẫn đầy đủ.
Nếu không nhờ hòa khí, thiên thời, địa lợi, nhân hòa, mà có năm được mùa, thịnh vượng thì dù có nhiều người cày ruộng, mà tại sao người ta lại cho năm được mùa hay mất mùa có liên hệ tới số phận đời người? Ý muốn nói: Lẽ trời cũng có chuẩn mực chăng? Cho nên, năm nào được mùa thì lúa càng thấp và người cày ruộng càng ít, lẽ đó đã rõ ràng.
Các Tăng Ni xuất phát từ nơi Phật Tổ, có vị thì khổ hạnh, có vị thì mật hạnh, vị nào cũng đắc Định, tùy theo bổn phận mình mà thường phải giữ gìn đức hạnh, chăm chỉ tu giới luật, tâm niệm ở định tuệ, có khả năng bỏ được những cái mà người đời khó bỏ, có khả năng làm được những việc mà người đời không thể làm, không ham muốn giàu sang như mây trôi nổi, coi sắc đẹp và danh vị như âm vang, cầu đạo chỉ mong đại ngộ mà thôi và luôn nhớ nghĩ tới mọi người khi làm việc cứu giúp.
Thế mà ngày nay, người ta lại chán ghét Tăng Ni; chán ghét Tăng Ni, tức là chán ghét Phật Tổ! Đức Phật khuyên giữ giới luật và thực hành hiếu nghĩa như:
- Không được sát sinh nhằm thực hiện lòng từ bi và tôn trọng sự sống và môi sinh.
- Không được trộm cướp nhằm chấm dứt tham ô ích kỷ và tôn trọng quyền lợi của mọi người.
- Không được tà dâm nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình và tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ.
- Không được nói dối nhằm thực hiện chính ngữ và ái ngữ trong khi đối thoại với mọi người, cần phải tôn trọng sự thật, không được trước mặt sau lưng, không được có ít nói nhiều và ngược lại cũng như không được nói lời thô ác.
- Không được uống rượu say nhằm bảo vệ sức khoẻ và trí tuệ sáng suốt.
Thực hành năm giới căn bản này nhằm tự lợi, lợi tha và phổ biến lòng nhân từ tới cả chúng sinh, sự sống. Đâu phải chỉ đối với cha mẹ trong đời hiện tại vì nghĩ rằng: Từ vô lượng kiếp tới nay, tất cả chúng sinh đã từng là cha mẹ, người thân, họ hàng của mình thì phải lấy tâm bình đẳng đối xử và mong sao đều được yên vui, giải thoát; lấy tâm niệm đó để báo hiếu thì thật ưu việt!
Vả lại, dù có thông minh cũng không thể vượt qua nghiệp báo, nhân quả; dù có giàu sang cũng không thể thoát khỏi luân hồi; dù có núi đồng cũng chẳng ích gì để khỏi bị chết đói; và dù có đống vàng sao có thể giữ mãi được!
Tôi là người thi đậu cao, khoa bảng lớn, làm quan tới chức Thừa tướng của triều đình, danh lợi ở đời của tôi đâu còn ân hận gì! Thường nghĩ tới điều đó thì tôi đã có một niềm vui vô tận rồi! Nhưng nghĩ lại đời người giả tạm này như bèo bọt nổi chìm, khi thân mình còn đương khỏe mạnh mà không được nghe đạo lý thì thật cũng đáng tiếc! Nếu ở thế gian này lại có một đạo lý nhiệm màu nào mà có thể khai ngộ được tâm tôi và vượt qua cả thuyết Chân như Niết bàn thì chắc chắn tôi sẽ bỏ đạo Phật và theo đạo kia.
Những việc như: Thích giàu ghét nghèo, ham sống sợ chết, ăn uống trai gái, tiền của ruộng vườn, ai mà không thích nhưng người quân tử lại không quý trọng, điều đáng quý là đạo lý màu nhiệm cao siêu.
Có người bảo tôi rằng:
- Các vị Tăng (tu sĩ Phật giáo) là người trốn tránh cuộc đời, hủy hoại thân hình (như cạo râu tóc, mặc áo nâu) mà tại sao ông lại giúp đỡ họ nhiều thế?
Tôi đáp:
- Thực ra, tôi chỉ muốn duy trì cái đạo phong của Phật Tổ, chứ đâu có giúp đỡ họ gì.
Vậy, chắc ông cũng đã nghe thấy Ngài Mạnh Tử nói:
“Khi còn bé nhỏ thì người ta quý mến cha mẹ. Khi phát dục biết yêu thương thì lại thích gái đẹp”.
Ai bảo khi khôn lớn thì xây dựng gia đình, hẳn là người hiền và là người con có hiếu? Nhưng trong đời nay thì hay đánh cờ bạc, uống rượu say, thích đánh vật, thi đấu võ thuật, làm cho cha mẹ phải buồn rầu, thường thường là đều như thế cả, hơn nữa lại chỉ chú trọng hình tướng bề ngoài mà quên mất lương tâm. Thậm chí trước đây lại có người viết tác phẩm Vô Phật Luận, trong đó cho là không có Đức Phật thì họ thật là mê muội biết bao!
Hiện nay như có mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, sấm sét, gió mưa, v.v. rành rành ngay trước tai mắt mọi người, há lại không có chủ đích ư? Hay núi cao, sông lớn, đền thờ các vị thần linh... liệu có thể nói là không được chăng? Hay các tà ma, quỷ thần bé nhỏ, người đời còn kính cẩn và tin là có thật, vậy tại sao riêng đối với Đức Phật mà người ta lại hoài nghi?
Vì từ bao đời kiếp xa xăm trở lại đây, Đức Phật đã tu hành khổ hạnh, thành bậc Đại Giác, là đấng chí tôn trong các hàng thánh chúa, làm vua chân lý cho cả trời người và là bản thể sáng ngời trong thiên hạ, mà người ta lại bảo rằng không có được chăng?
Đại Tập Kinh chép:
Thương chủ Thiên Tử hỏi: “Ngày Đức Phật còn tại thế, có sự cúng dường thì Đức Thế Tôn là người nhận, cho nên người dâng cúng được phước. Nhưng sau khi Đức Phật đã nhập diệt, người ta cúng dường hình tượng thì ai là người nhận?”
Đức Phật dạy:
“Pháp thân của chư Phật Như Lai là người nhận, nghĩa là bản thể vĩnh hằng của chư Phật, phổ biến khắp cả không gian và thời gian, là người nhận sự cúng dường ấy”.
Vậy thì khi Đức Phật còn tại thế, hay sau khi Ngài đã nhập diệt, nếu có sự cúng dường thì sự được phước không có khác.
Hoa Nghiêm Kinh cũng chép:
“Chư Phật lấy chân lý cứu cánh hay bản thể của tất cả hiện tượng sự vật làm thân, trong sáng khắp hư không”. Tuy nhiên, chư Phật đã lập ra đạo lý, đó chỉ là pháp môn phương tiện để dìu dắt mọi người và chúng sinh.
Nếu quyết đoán cho là không có Phật thì sẽ rơi vào Không kiến và Đoạn kiến của ngoại đạo, tự dối mình, tự đánh mất mình, thật đáng thương vậy!
Như Đại sư Vân Môn nói:
“Ta lúc đó mà thấy được thì một gậy đánh chết, rồi đem cho chó ăn...”. Đó là động thái của các vị tiên giác Đại thừa, nhằm cởi gỡ những vướng mắc, phá chấp giải nghi, kẻ sơ học đâu có thể hiểu nổi. Nghĩa là, việc đó chỉ có thể bàn với người trí thức và không thể nào nói với kẻ ngu si.
Vậy muốn Phật giáo được hưng thịnh và phát triển thì phải có các vị thánh hiền đầy đủ thần thông tài đức. Và muốn người ta tin theo Phật giáo thì cũng phải có các bậc hiền triết thuộc tầm cỡ lớn. Do đó, cả đến các quỷ thần linh thiêng trong trời đất cũng đều ngưỡng mộ, đâu phải là ngẫu nhiên! Nói chung, muốn được sùng thượng thì phải tùy theo từng loại, muốn áp dụng thì phải tùy theo từng hạng người, như việc biết chính xác về trí tuệ, thấy đúng về giác ngộ thì những kẻ thấp kém làm sao mà có thể hiểu rõ được!
Bởi vậy, Ngài Đồng An Sát có nói:
“Bậc Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng) còn chưa hiểu rõ được ý đó. Ngôi Thập Thánh (Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa, Diệm Tuệ Địa, Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Tuệ Địa và Pháp Vân Địa) đâu có thể đạt tới tôn chỉ này”. Bốn quả Thanh văn cùng với Duyên giác Bích chi cũng chưa thể được dự vào cấp bậc đó, huống chi còn các hạng người ở dưới! Vậy, ở bậc Thánh phải là các vị Bồ tát Đại thừa; ở bậc trời phải là vua Phạm Vương Đế Thích; ở loài người phải là các vị đế vương công hầu và những người đại căn đại khí, công thành danh toại; ở hàng ngũ phàm Tăng cũng phải là những vị sẵn có căn bản tâm từ đời trước và phải có độ lượng vượt qua thế tục thì mới có khả năng thấu triệt được.
Do vậy, bậc cổ đức đã nói:
“Nghe mà chưa tin hẳn, còn có thể gieo nhân lành giống Phật; học mà chưa hiểu rõ, còn có thể tăng thêm phước báo ở cõi trời cõi người”.
Tiếc thay! Kẻ ngu si vì mê muội mà không biết tu học; người trí tuệ vì hoài nghi mà không thể quán triệt. Hoặc có người thông minh trí tuệ trên đời lại bị công danh cám dỗ cả ngày suốt đêm, chỉ vội vàng gấp rút, học qua kinh sử của các thánh hiền, nhằm việc ứng đối thi cử trước mắt hãy còn chưa đủ, còn thì giờ nhàn rỗi đâu mà dành cho việc tu học này! Hoặc có người thành đạt trên đường làm quan, thì chỉ nghĩ tới công danh, chỉ quan tâm đến phú quý; còn đối với việc học đạo này thì lại cho là không cần thiết, cứ để đó, chẳng hỏi han, chẳng tìm hiểu! Thời gian có hạn, già chết chợt đến, nguy gấp xảy ra thì cho dù có hối hận vẫn không kịp.
Phật giáo là đạo lý cao cả, sâu xa như vậy mà không tìm hiểu rõ ràng thì thật đáng tiếc đối với các bậc thánh hiền xưa nay!
Đã không được nghe đạo pháp thì tất nhiên phải trôi lăn sinh tử và rơi vào đường tội ác, mà kẻ mê muội phải đành lòng, vậy đó là lỗi của ai? Thiền sư Tung Nhạc Khuê đã nói:
“Đức Phật có ba khả năng và ba bất lực: Đức Phật có khả năng chuyển hóa tất cả các pháp tướng thành vạn pháp trí nhưng không thể diệt trừ định nghiệp; Đức Phật có khả năng biết rõ những sự việc trong vạn ức kiếp của các loài hữu tình nhưng không thể giáo hóa và dìu dắt những kẻ vô duyên; Đức Phật có khả năng cứu độ tất cả các loài hữu tình nhưng không thể xóa hết thế giới của chúng sinh”. Đó là ba khả năng và ba bất lực.
Nay có kẻ, tâm thao thức, miệng ba hoa, nghe đến danh hiệu Phật như kẻ thù, thấy Tăng Ni coi như rắn độc, như vậy thì tôi biết làm sao được! Vả lại, Đức Phật còn không thể giáo hóa và dìu dắt những kẻ vô duyên, vậy đối với những kẻ như thế thì tôi phải làm gì được chăng?
Những người chê trách thì đều nói rằng: “Vua Lương Vũ Đế thờ Phật mà vẫn bị mất nước”. Bởi lẽ những người không chịu tìm hiểu giáo lý của Phật thì chẳng đáng bàn. Còn việc đất nước được dài hay ngắn, cuộc đời được thịnh hay suy, chính tôi cũng không biết rõ lý do. Ngay như vua Nghiêu vua Thuấn là bậc Đại thánh, mà việc nước chỉ có một mình. Còn việc truyền ngôi thì con các Ngài lại không xứng đáng, rồi sau phải truyền ngôi cho người khác! Vậy, việc con các Ngài không xứng đáng, đâu phải là trời phạt tội! Từ khi mở nước đến thời vua Hán Minh Đế về trước, lúc đó Phật pháp còn chưa truyền đến thế mà đất nước ta vẫn gặp phải nhiều khó khăn, là vì lẽ gì?
Đời Đường ông Trương Yến Công có ghi chép: Triều nhà Lương có bốn vị công thần có khả năng biết được các sự việc xảy ra của quỷ thần và trời đất, thấy rõ như ở bàn tay; thế mà thái tử Chiêu Minh cũng là dòng dõi Thánh nhân, và Thánh nhân thì phải lấy chuẩn mực để cai trị đất nước và thiên hạ, nếu không có sự hiểu biết của bậc tiên giác mà lại có thể lựa chọn cẩn thận những việc đáng làm để khuyến cáo vua Vũ Đế vậy ư! Vì không thể nào trốn tránh được định nghiệp. Than ôi, đã là định nghiệp thì không thể thay đổi được! Cũng như nước và lửa không thể hòa nhập với nhau, quả báo xảy đến đúng như thời gian bốn mùa (xuân hạ thu đông), không thể nào sai được.
Như ở Ấn Độ có tôn giả Sư Tử, ở đây Trung Quốc có Đại sư Nhị Tổ, đều không thể tránh khỏi định nghiệp. Và đâu phải chỉ có Ngài Sư Tử và Ngài Nhị Tổ, chính cả Đức Phật Thích Ca cũng không tránh khỏi định nghiệp như bị mũi dao đâm vào đùi hay phải ăn lúa ngô, thực phẩm của ngựa. Huống chi những kẻ phàm phu, tục tử, sơ cơ!
Bởi lẽ tu dưỡng có nghĩa là phải thay đổi những lỗi lầm quá khứ và tu tập những việc chân chính ở hiện tại.
Khi việc làm sai trái ở quá khứ đã trả xong thì phước lành sẽ tới, đâu phải ngoài ta.
Hiện nay là thân hình người nữ, thực sự thì yếu hơn người nam, thế mà lại muốn thờ Phật để có thể đổi ngay thành người nam thì làm sao được! Tất nhiên phải đợi hết cái báo thân người nữ này, rồi nhờ vào năng lực của sự phát nguyện sẽ có kết quả ở đời tương lai.
Vua Lương Vũ Đế sống lâu 90 tuổi, không phải không nhiều, vì bệnh tật mà chết thì cũng không phải quá tệ; chính cái sai lầm muốn bỏ báo thân vì nhà vua thấy trước được điềm tai họa khi quẻ Càn thay đổi ở hào Thượng cửu: có sang trọng nhưng không có ngôi vị, có cao đẹp nhưng không có nhân dân. Vì mặc cảm tự ti này nên muốn tránh tai họa và được hạnh phúc. Vua Lương Vũ Đế đã hiểu sai vì đối với Đức Phật đâu có như vậy! Vua Lương Vũ Đế thuộc căn cơ Tiểu thừa, chỉ tin vào nhân quả hữu vi, đó là lý do mà nhà vua không hiểu được giáo pháp Đại thừa của Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Nhà vua quá tin chấp tướng, trong sự cố chấp không biết linh hoạt quyền biến, đó cũng là định nghiệp của nhà vua xui khiến nên như vậy. Chính Thánh nhân lập ra giáo pháp chủ yếu vì thiên hạ đời sau, chứ đâu phải vì một người.
Ngài Khổng Tử nói: “Người nhân đức thì sống lâu”. Nhưng hiệu lực đáp lại việc làm nhân ấy, có khi lại là sự chết non. Vậy, lời dạy của Ngài Khổng Tử há lại không đúng hay sao? Bởi lẽ không phải chỉ vì một người mà Ngài nói ra vậy. Thế thì việc thờ Phật của vua Lương Vũ Đế cũng giống như việc làm nhân. Nên khi quân lính của Hầu Cảnh tiến đến, mà lại đi tập hợp các vị Sa môn (các vị Tăng sĩ) đọc câu Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật (Đại Trí tuệ siêu việt), cũng vì quá tin chấp tướng mà không biết quyền biến, linh hoạt, thích nghi, cũng như Hướng Hủ đời Hậu Hán, gặp lúc Trương Giác làm loạn. Hướng Hủ ưa chuộng tiện nghi, lại hay châm chọc những người tả hữu; không muốn quốc gia khởi quân, chỉ cần đem quân tướng đứng trên sông, quay mặt về phía Bắc đọc Hiếu Kinh thì quân giặc sẽ tự tiêu diệt. Lại nữa, như đời Hậu Hán trong chuyện Cái Huân, niên hiệu Bình Nguyên, đất Bắc rợ Khương, rợ Hồ cùng nổi loạn ở biên giới, Tống Kiêu canh giữ, vì sợ có nhiều phản loạn, mới bảo Huân rằng: “Đất Lương Châu ít có học thuật, do vậy thường có nhiều phản loạn, nay cần chép thêm nhiều Hiếu Kinh để cho mỗi gia đình đều học tập, ngõ hầu làm người ta đều có thể hiểu rõ nghĩa lý”. Nếu vận dụng việc này mà không đạt thì đâu phải là lỗi của Hiếu Kinh.
Vả lại, sao biết được cái nghiệp họa đã định trước của vua Lương Vũ Đế không chỉ thế, nhờ việc làm phước thiện mà đã giảm bớt được, cho nên mới được tuổi thọ như vậy. Nhà vua thường đem việc đất nước được dài ngắn, còn mất ra sao để hỏi Tổ Chí Công. Tổ Chí Công tự chỉ ngón tay vào yết hầu mà bảo vì đó là điềm báo trước về nạn “Hầu Cảnh” phản loạn.
Khi Tổ Chí Công sắp mất, vua Lương Vũ Đế lại đến hỏi Tổ vể việc tiên tri.
Tổ Chí Công đáp:
“Tháp của bần Tăng đổ thì đất nước nhà vua cũng đổ theo”.
Sau khi Tổ Chí Công mất, vâng lệnh nhà vua xây tháp xong thì vua Lương Vũ Đế chợt nghĩ ra rằng: Không biết tháp của Tổ làm bằng gỗ, liệu có thể được lâu không? Bèn sai bỏ đi và xây lại tháp bằng đá, mong sao không bị hư hỏng để ứng hợp với lời nhắn nhủ của Tổ. Ngọn tháp bằng gỗ vừa phá bỏ xong thì quân lính của Hầu Cảnh đã tiến vào! Như vậy, nhà vua đâu phải là không biết trước.
Như Ngài An Thế Cao là học trò của Tổ Bạch Pháp, để trả xong món nợ đời trước, không quản xa xôi mà đi vào chỗ chết, bởi lẽ định nghiệp của mình không thể tránh khỏi.
Hay như ông Quách Phác ở đời Tấn, cũng tự biết là mình không thể nào tránh khỏi, huống chi là bậc biết phá bỏ những điều hư ảo, coi sự chết như việc trở về (sinh ký tử quy: sống là gửi, chết là về). Vốn biết rõ kiếp trước đã có vướng mắc, mà lại muốn né tránh thì làm sao có thể thoát được!
Âu Dương Vĩnh Thúc viết lời bạt cho văn bia “Dấu thiêng muôn thuở” rằng:
“Đời truyền tụng: Phật thì đem những việc tội phúc, thần quái làm cho người đời sợ hãi và ai nấy đều tin theo cho nên Tăng Ni được đầy đủ; còn Lão Tử ta thì luận bàn những việc cao xa, thanh tịnh nên làm cho chúng ta cô đơn tịch mịch. Đây tuy là lời nói thô bạo nhưng vẫn đầy ý văn chương”.
Đó chính là lời nói của Vĩnh Thúc, cũng có đôi chút tài ba nhưng vẫn chưa đạt được sự cao sâu của đạo Phật và không biết tự lượng sức mình nên mới nói như vậy. Vì chính việc tội phúc, thần quái đời nào cũng có, ngay cả đạo Nho cũng có nói vì lời văn dài nên chỉ nhắc qua vậy thôi; vả lại những người chân tu, thực học Phật pháp đâu phải vì muốn kiếm ăn no, mặc áo ấm làm mục đích! Mà chủ yếu là đi tìm Đại pháp vượt thoát thế gian và giác ngộ tối cao. Còn các đạo sĩ của Lão Tử cũng là những người thoát tục. Nếu họ đã lấy việc xuất gia cầu đạo thì không nên oán trách mình là cô đơn tịch mịch. Trái lại, nếu họ còn có ý đồ ăn ngon, uống say thì đâu còn tìm đường vượt thoát, đâu còn nghĩ tới nhân quả. Thế thì ở đời có muôn vạn nẻo đường, có việc gì mà không làm được! Hoặc đi làm quan, làm thầy thuốc, thầy bói, trăm việc ngàn nghề, giết lợn, bán rượu, buôn bán... đều có thể làm được, bỏ việc này làm việc kia, đâu có ai ngăn cấm.
Vua Thái Tông đời Đường, khi bốn tuổi, có vị thần nhân trông thấy vua và nói: “Vua có tư cách rồng phượng, biểu tượng mặt trời, ắt có khả năng cứu đời giúp nước”. Khi tới tuổi 20, Ngài đã thành nghiệp lớn, thực đáng được gọi là một nhà vua vĩ đại.
Còn Âu Dương Tu thì chỉ là một thư sinh vậy mà khi soạn thảo sách sử nhà Đường lại lấy ý riêng của mình, rồi phỏng đoán trong việc khen chê sai lầm, coi vua Thái Tông như một vị quốc chủ tầm thường, chẳng có tài ba lỗi lạc để cho đời sau phụ họa theo mà không dám phản bác lại. Than ôi! Người có học tùy theo đời sống mà cao hay thấp, thế nhưng Âu Dương Tu lại tự cho là tài, là giỏi đối với các bậc tiền nhân thì thật đáng buồn vậy! Người viết sử, lời văn phải xác đáng, nhận xét sự việc phải ngay thẳng, không khen láo, không bao che việc xấu ác, thì mới gọi là sách ghi chép sự thật; trái lại Âu Dương Tu biên chép sử thì lại khác. Đời Đường có rất nhiều vị công khanh mến mộ đạo Phật, các vị ấy thường giao du với các Thiền sư, đều có những lý do và sự việc chính đáng, nhưng Âu Dương Tu thảy đều tước bỏ, tới khi thoái ẩn thì lại tự xưng là Cư sĩ Lục Nhất, là nhằm mục đích gì? Mà đã tự xưng mình là Cư sĩ thì phải biết là mình đã có tin Phật. Biết là có tin Phật mà lại bài bác Phật thì chính mình là kẻ hiếu danh và tự dối lòng mình, chứ đâu phải là người đàng hoàng và kẻ sĩ chân chính!
Hiện nay cũng có nhiều người thích bài bác Phật giáo để được nổi tiếng. Như đời Đường có Liễu Tử Hậu gửi thư khuyên ông Hàn không nên ra sức bài bác hai tôn giáo (Lão giáo và Phật giáo), nhưng ông Hàn không trả lời thư của Liễu Tử Hậu. Há không phải vì lời nói của Liễu Tử Hậu là xác đáng mà ông Hàn mặc nhiên tin theo hay sao, cho nên ông Hàn không muốn tham gia biện luận. Đời gần đây thì có Vương Phùng Nguyên viết một lá thư thêm. Thật kém cỏi, Vương Phùng Nguyên chỉ là một kẻ tầm thường, tại sao lại cứ khư khư làm một kẻ không có thiện căn như vậy! Ông Hàn chẳng lẽ không viết nổi một bức thư mà phải đợi kẻ hậu nhân tới trả lời thay hay sao? Thật là không biết lượng sức vậy!
Từ đời Hán, đời Đường tới nay, có không biết bao nhiêu mà kể các vị đế vương, công hầu đã kính thờ Đức Phật vì Ngài là bậc thánh hiền đâu có làm tổn hại gì!
Tôi thường bảo Âu Dương Tu rằng:
“Ông nói theo lời dạy của bậc tiên vương, mà lại làm theo tà kiến của kẻ thất phu dối trá. Nay ông che đậy sự lương thiện của người ta, và cố tìm ra những thiếu sót để đả kích, thì chính ông là kẻ thất phu dối trá”. Công luận thiên hạ về những việc đời sau đâu có thể như thế! Âu Dương Tu đã tự dối mình quá tệ, mà còn muốn dối người khác, lại muốn dối cả thiên hạ đời sau, bằng cách dựa vào những lời nói vu vơ của ý riêng mình, cuối cùng rồi cũng phải chấm dứt đối với những người trí thức. Tuy các bậc thông kim bác cổ đều chê cười, nhưng Âu Dương Tu vẫn còn dụ dỗ và mê hoặc được những kẻ sống say làm bậy. Hạng người như thế, nếu sai vào hầu vua thì nịnh vua. Nếu tin theo Phật thì làm mất giống Phật và tuệ mạng Phật. Nếu kết bạn thì phá hại chân tính thành tín, đuổi theo hư danh, trọn đời chỉ là một kẻ láu lỉnh mà thôi. Còn như con đường tội ác đời sau của kẻ ấy thì sao? Thì phải tu tập. Nhưng y lại cho rằng ở đời này chẳng có một chân lý nhiệm màu và một đạo pháp cao siêu nào cả. Chính vì vậy mà y chỉ lo tô điểm một chút văn chương mà thôi.
Đúng như Trang Tử đã nói trong Nam Hoa Kinh: “Vị thần cai quản sông ngòi, tự phụ có nhiều nước nhưng không biết lại có biển cả...”
Vì vậy nên y đắc chí (“tiểu nhân đắc chí tiếu ha ha: Kẻ tiểu nhân đắc chí cười ha hả!”) làm cho người đời sau mãi mãi không được nghe thấy giáo pháp cao đẹp, xuất thế và hiếm có của Đức Phật, thật đáng buồn! Y còn lạc đường chân chính của trời người, không thấy được mắt sáng của trời người, chẳng biết gì về giáo lý nhân quả và làm vẩn đục nếp sống Giới - Định - Tuệ, lại chẳng biết tu dưỡng chút nào!
Tôi từng xem sách vở của Âu Dương Tu, y chỉ lảm nhảm than phiền những khổ não về sự già yếu của mình. Cho dù y ở trên địa vị giàu sang nhưng vẫn băn khoăn, không thoải mái. Xét ra thì y cũng thật tình. Nhưng thực ra y vẫn không rõ về lý tính. Do đó mà suy nghĩ thì:
Đạo Phật thật là quảng đại, bao gồm Chân như viên đốn, đâu phải là cảnh giới của những kẻ hẹp hòi, nông cạn! Còn việc luân hồi sáu nẻo, quả báo ba đường thì do tâm mình tạo ra, thực sự không có lý do nào khác. Nghĩa là sáu nẻo, ba đường ấy là lẽ tất nhiên, làm sao mà chối bỏ được! Khi thân người đã mất thì hối cải làm sao cho kịp! Muôn vạn sự vật trong ba cõi, cõi tham dục, cõi sắc thân và cõi không có hình sắc, đều có nguyên nhân và kết quả tương xứng. Vậy, nếu đã không nhìn nhận nhân quả thì đã tự dối lòng mình, mà đã tự dối lòng mình thì bất cứ việc xấu ác nào cũng có thể làm được.
Đời gần đây, Trình Hạo người đất Y Xuyên cho rằng:
“Nhà Phật cho mình là người xuất thế vì chẳng làm được gì cho thế giới, nên mới gọi mình là kẻ xuất thế ra khỏi cuộc đời”.
Những người đại phu và trí sĩ không hiểu rõ cội nguồn, mà dám chê bai người theo Phật thì đều giống như thế cả. Họ đâu có biết sắc, thọ, tưởng, hành, thức (sắc thân, cảm giác, tri giác, ý giác và thức giác) là pháp thế gian. Còn giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến (đức dục, tâm thể dục, trí dục, giải thoát khổ đau và giải thoát định kiến mê lầm) là pháp xuất thế gian. Những người tu học theo Phật và giác ngộ trước có khả năng thành đạt và hiểu rõ các pháp xuất thế gian thì gọi là người xuất thế siêu việt cuộc đời. Cũng giống như người thi đỗ cao cấp của đạo Nho ta, thì gọi là người cưỡi rồng bẻ quế (đăng long chiết quế); chứ đâu phải là người cưỡi con rồng thật, bẻ cành quế thật, vậy ư?
Đức Phật và các vị Tổ sư ra đời, chủ yếu là nhằm cứu độ mọi người, mọi loài, cũng như các Thánh nhân của đạo Khổng và đạo Lão ta đã cùng nhân dân chung lo những việc hay, việc dở. Năm trăm năm ắt có vua hiền làm hưng thịnh thời gian đó và ắt có người nổi tiếng trên đời, đâu phải vì không làm những việc trên thế giới này mà được như vậy, vì đã vượt qua quyền lợi cá nhân và quên cả đời mình, đó cũng là ý chính của các vị Thánh nhân trong Phật giáo Đại thừa.
Tiếc thay, người nay đã không với kịp người xưa, thật là đáng buồn! Sự xuất thế (sự hơn đời) của người xưa (như ông Trương Trác đời Đường, đã đậu thủ khoa Tiến sĩ nên các quan công khanh ca ngợi lời văn của ông) như chuỗi tiền cao quý làm bằng đồng đen còn quý hơn vàng, vạn lần thi tuyển, vạn lần thành đạt, như tỉa cành hoa quỳnh mỗi đốt đều là ngọc quý, như cắt cây chiên đàn mỗi mẩu đều có hương thơm. Nay thì khác hẳn, mắt cá lẫn lộn với ngọc minh châu; rau thơm và cỏ hôi lại mọc cùng một vườn; thịt dê và da hổ lại nhầm lẫn rất nhiều! Đến nỗi ngọc và đá đều bị đốt cháy...
Người xưa, trong sáu mươi năm, không một giây phút nào vận dụng thân tâm sai lầm, mỗi niệm đều hợp nhau như gà ấp trứng. Tìm thầy hỏi bạn, tâm niệm hợp nhau, chứng nghiệm không khác, mài dũa đãi lọc, trong sáng rõ ràng, không khoe tài đức, giấu mình khiêm nhượng; khi đạo quả đã chín mùi thì các bậc thánh hiền đều đề cử, làm thầy cả trời và người, chỉ nói đôi lời, soi sáng khắp cả xưa nay, muôn dặm đều thấm nhuần phong hóa, vạn chiếc xe đều chạy cùng đường.
Người nay thì học tập theo cách vào tai ra miệng, theo kiểu lý thuyết suông, buôn Phật bán Thánh, mặc áo Phật, làm việc mà nói thì như đã ngộ đạo, đối với cảnh đời thì lại mê say, làm việc như kẻ tầm thường trong thế tục, không có một chút biết hổ thẹn, công khai làm việc đút lót hối lộ, lén lút dùng cách cậy nhờ, lấy trộm của Phật, của Pháp, của Tăng; nghĩa là lấy của chùa thường trụ để giao du với người có quyền uy, thế lực; Phật pháp suy tàn, phần lớn do đó, vậy không biết đau lòng hay sao?
Tôi thường kính mến Ngài Vương Văn Khang triều ta vì Ngài đã viết ra bộ Đại Đồng Luận nói về đạo Nho, đạo Lão và đạo Phật, từ nông đến sâu, cũng như nước Tề một lần thay đổi có thể đạt tới bằng nước Lỗ, nước Lỗ một lần thay đổi có thể đạt chính đạo (theo lời dạy của Đức Khổng Tử trong sách Luận Ngữ, thiên Ung Dã), lời bàn thật là chính xác. Tôi liền lấy đó mà được sáng tỏ.
Tôi cho rằng: Người ta đánh mất chân tâm, mê mờ quên mất Phật tính, bỏ gốc theo ngọn, là bệnh sai lầm; còn lời dạy của ba tôn giáo: Nho, Lão, Phật là thuốc chữa trị mê lầm. Nghĩa là, đạo Nho thì dạy người ta thành người quân tử nhằm trị bệnh ngoài da; kinh sách của đạo Lão thì khiến cho người ta mỗi ngày một giảm bớt mê hoặc, nhằm trị bệnh trong huyết mạch; còn đạo Phật thì chữa thẳng vào gốc, vào căn bệnh, chứ không phải chỉ chữa nơi cành lá, đó là cách chữa bệnh ở xương tủy. Những ai không có đức tin, đó là chứng bệnh, đến khi trầm trọng thì không thể nào cứu chữa được.
Đạo Nho nói về nhân tính; đạo Phật cần thấy rõ nhân tính. Đạo Nho thì lao tâm; đạo Phật thì an tâm. Đạo Nho thì tham chấp; đạo Phật lại giải thoát. Đạo Nho thích ồn ào; đạo Phật thì trầm tĩnh. Đạo Nho chuộng thế lực; đạo Phật không quan tâm. Đạo Nho thích tranh quyền; đạo Phật lại tùy duyên, thích nghi. Đạo Nho nặng về Hữu vi, về thế gian; đạo Phật trọng về Vô vi, về xuất thế gian. Đạo Nho thì phân biệt; đạo Phật lại bình đẳng. Đạo Nho thì yêu ghét; đạo Phật lại viên dung, hòa hợp, tức là dung hòa. Đạo Nho cho là quan trọng; đạo Phật lại quan niệm nhẹ nhàng. Nhà Nho cầu danh; nhà Phật lại cầu đạo, tức là tìm chân lý sống và tu dưỡng. Nhà Nho thường bồi hồi; nhà Phật lại bình tĩnh và nhận xét. Nhà Nho nhằm đối trị cái bề ngoài; nhà Phật lại đối trị cái trong tâm. Nhà Nho thích nhiều mặt; nhà Phật lại giản đơn. Nhà Nho tham cầu; nhà Phật biết dừng lại cân đối. Như vậy, không có nghĩa là đạo Nho không có công đức gì cho đời người; mà chỉ có khác với đạo Phật về mặt động và tĩnh, Hữu vi và Vô vi thôi.
Đối với đạo Lão, trong Đạo Đức Kinh, Ngài Lão Tử nói: “Thường phải không ham muốn thì mới thấy được lẽ huyền diệu của Đạo”.
Còn đối với nhà Phật thì đó là một trở ngại như chiếc khóa vàng khóa chặt người ta. Cho nên Ngài Đồng An Sát mới nói: “Đừng tưởng vô tâm là đạt Đạo, vô tâm còn cách một trùng quan”.
Ngài Lão Tử nói: “Không nhìn những cái tham dục thì tâm mới không loạn động”.
Đức Phật thì dạy tuy nhìn thấy cái tham dục nhưng tâm vẫn không loạn động. Cho dù tám thứ gió của thế gian (như: lợi, hại, vinh, nhục, khen, chê, vui, buồn) vẫn không lay động được Đức Phật vì Ngài cao cả và vững chắc như núi Tu Di mặc cho những cơn gió bốn phương thổi tới.
Ngài Lão Tử nói:
- Cần phải yếu mềm ý chí.
Đức Phật dạy:
- Phải lập đại nguyện cứu khổ độ sinh.
Ngài Lão Tử nói:
- Lẽ huyền diệu của Đạo là nguồn gốc của trời đất.
Đức Phật dạy:
- Nếu người ta muốn biết được cảnh giới của Phật thì tâm phải trong sáng như hư không, ngoài không chấp trước một pháp nào, một sự vật nào, pháp còn nên buông bỏ, huống chi là phi pháp.
Theo Ngài Lão Tử:
- Muốn thành bậc “tuyệt thánh khí trí” thì phải thực hành bốn việc: phải chuyên cần giữ gìn thanh khí; phải biết dừng lại ở một điểm nào; phải biết không mỏi mệt; phải biết làm mà không chấp ở việc làm.
Theo Viên Giác Kinh của Phật giáo thì đó là cần phải giải trừ bốn chứng bệnh mê chấp thì mới đạt được thể tính Viên Giác, nghĩa là mới có thể thành Phật như: bệnh cố chấp việc làm (Tác); bệnh cố chấp dừng nghỉ (Chỉ); bệnh cố chấp tùy tiện (Nhiệm); bệnh cố chấp diệt trừ phiền não (Diệt). Cũng như muốn đạt được Trí kim cương thì hành giả phải loại trừ sự mê chấp Bốn tướng trong Kim Cương Bát Nhã Kinh như: mê chấp Nhân tướng; mê chấp Ngã tướng; mê chấp Chúng sinh tướng; và mê chấp Thọ giả tướng.
Ngài Lão Tử nói:
- Bỏ cái này; lấy cái kia.
Đạo Phật thì dạy:
- Bình đẳng tròn đầy như thái hư, không thiếu không thừa vì phân biệt Lấy và Bỏ là không đại đồng.
Ngài Lão Tử nói:
- Tôi lo ngại lớn vì tôi có cái thân này!
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát thì lấy cái thân mình để làm hạt giống thành Phật.
Ngài Triệu pháp sư giải thích thêm rằng: Kẻ phàm phu phải trôi lăn mọi nẻo vì bị phiền não che mờ. Tiến không có niềm vui tịch diệt, thoái thì sợ sinh tử khổ đau. Do vậy, phải phát tâm Bồ đề cao cả và dấn thân vào đời, trên gốc cây sinh tử mà vẫn nở ra hoa đẹp chính giác. Vì may mắn mà được thân này nên phải hăng hái tinh tiến thì mới đạt thành đạo quả. Như ở vùng đất cao nguyên thì hoa sen không thể nảy nở. Nghĩa là, hoa sen chỉ phát sinh ở nơi ao hồ bùn lầy nước đọng, đạo Phật có mặt là vì đời người, mang lại hương thơm và sắc đẹp cho đời, cho nên ở trong bùn lầy phiền não mới có mọi người, mọi loài kính theo Phật pháp.
Theo Lão giáo thì:
- Nhìn mà không thấy được, đó gọi là Đạo (Di); lắng tai mà không nghe rõ, đó gọi là Lý (Hi).
Theo Phật giáo thì:
- Ngoài sắc tướng ra mà lại muốn quan sát thì đó không phải là sự thấy chính xác, không phải chính kiến; ngoài âm thanh ra mà lại muốn nghe thì đó không phải là sự nghe đúng.
Theo Lão giáo thì:
- Phải thận trọng như khi mùa đông lạnh phải lội qua sông; phải dè dặt như khi ở ngã tư đường.
Theo Phật giáo thì:
- Tùy theo dòng giống mà nhận được đặc tính, không vui cũng không buồn.
Theo Lão giáo thì:
- Trí tuệ lớn phát xuất từ nghi ngờ lớn.
Theo Phật giáo thì:
- Trí tuệ trong sáng dung thông, không còn vướng mắc đều phát sinh từ tu tập thiền định, nhờ trí tuệ ấy mà đạt tới giác ngộ và giải thoát, hạnh phúc và tự do.
Theo Lão giáo thì:
- Chính tôi còn mơ màng...; chính tôi còn băn khoăn...
Nhưng theo Lăng Nghiêm Kinh của Phật giáo thì:
- Chính tâm bản giác diệu minh là Phật đấy.
Thiền sư Tam Tổ lại nói thêm rằng:
- Trí tuệ xuyên suốt rõ ràng.
Ngài Đại Trí thì nói:
- Linh quang soi suốt, vượt thoát giác quan và trần cảnh.
Theo Lão giáo thì:
- Đạo tạo thành vạn vật. Thật là bao la! Thật là sâu kín! Trong đó hàm chứa tinh hoa.
Theo Phật giáo thì:
- Chủ yếu phải thấy sự thật rõ ràng, tự mình phải khẳng định.
Theo Lão giáo thì:
- Đạo pháp là tự nhiên.
Theo Lăng Già Kinh của Phật giáo thì:
- Những điều mà Đức Phật đã biết rồi thì phải truyền lại cho nhau.
Theo Lão giáo thì:
- Sinh vật trẻ khỏe thì phải già yếu, đó không phải là Đạo vĩnh hằng.
Theo Phật giáo thì:
- Chỉ một niệm, một giây ngắn nhất, Đức Phật có thể thấy suốt vô lượng kiếp. Chân lý cứu cánh không đi, không đến, không dừng nghỉ, vượt thời gian và không gian. Nghĩa là, chân lý không có xưa và nay thì làm sao lại có trẻ và già được! Còn cái thân người hư ảo thì tất nhiên cũng phải già yếu; chứ không thể nói: Trẻ là Đạo, già không phải là Đạo. Già mà vững mạnh thì cũng có thể đi lính. Theo Phật giáo thì tất cả các pháp ở thế gian đều là Phật pháp.
Theo Lão giáo thì:
- Đạo mà được nói ra thì lời nói ấy thật là nhạt nhòa, hầu như không có hương vị.
Phật thì dạy rằng:
- Người nào mà xác tín lời của ta thì cũng giống như ăn mật, ở giữa, ở xung quanh đều ngọt.
Theo Lão giáo thì:
- Người thượng sĩ nghe Đạo thì chăm chỉ thực hành; người trung sĩ nghe Đạo thì như thật như hư, như có như không; người hạ sĩ nghe Đạo thì cười ầm.
Nếu y cứ trong tông môn thì đều phải chăm chỉ thực hành. Đúng ra thì cần ở người hạ sĩ, vì người ta lại trọng người thượng sĩ nên đối với hai hạng người kia chỉ là thay đổi cách nói.
Theo Lão giáo thì:
- Cần khép kín cửa ngõ nhà mình.
Theo Phật giáo thì:
- Thuộc về hành động nhưng người làm mà không sáng suốt thì sẽ thất bại; người cố chấp thì sẽ hỏng việc và chẳng thành đạt được gì.
Ngài Lão Tử muốn bỏ cả trí và ngu, muốn nhân dân theo nếp sống chất phác ngày xưa như thắt nút dây thừng để ghi chép các sự việc.
Trái lại, Đức Phật lại dùng trí tuệ siêu việt nhằm thay đổi nghiệp thức sai lầm của chúng sinh thành trí tuệ phương tiện thực tiễn. Nghĩa là, chỉ thay đổi danh xưng chứ không phải thay đổi về thể tính. Và hơn nữa, cũng không thể cho rằng Ngài Lão Tử không có đạo lý, mà chỉ có khác nhau ở cấp độ nông sâu mà thôi.
Tuy nhiên, kinh sách của ba tôn giáo: Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo đều hàm chứa đạo lý: cải thiện cuộc đời và làm đẹp phong tục. Ba tôn giáo này cũng giống như cái đỉnh ba chân, không thể thiếu một. Nếu làm việc theo Ngài Khổng Tử thì sẽ thành quân tử có giáo hóa và danh phận. Nếu làm việc theo Ngài Lão Tử thì sẽ thành người hiền thanh cao, không trái với trời người thì có thể chấp nhận. Còn cho rằng cần phải đoạn tuyệt hết những vướng mắc nhằm kết hợp với Đạo bản nhiên trong sáng thì tôi không dám nghe theo.
Tôi thường ví dụ: Người đọc sách Nho thì cũng như chỉ lo việc nấu ăn trong bếp, mong mau được giàu có. Người đọc sách Lão Tử thì như ăn đắng nuốt cay, mong đạt thành thần tiên. Người trước theo cách này, người sau theo cách kia. Thực ra, người giàu có khi còn sống cũng chỉ cần cơm no áo ấm mà thôi; còn so với nếp sống thần tiên thì ai hơn, ai kém?
Người nhà Nho chỉ biết đạo của Khổng Tử và Mạnh Tử, rồi chê bai người nhà Phật. Người nhà Nho ấy cũng giống như con chó của vua Thuấn. Vì gia đình của vua Thuấn có nuôi một con chó. Khi vua Nghiêu qua thăm, đi tới cửa thì con chó ấy sủa. Đó là động thái phản ứng tự nhiên của con chó; chứ người ta không thể nói: vua Thuấn thì thánh thiện; vua Nghiêu không thánh thiện. Thực ra, vua Thuấn và vua Nghiêu đều là Thánh nhân như nhau, thánh thiện như nhau. Chỉ vì con chó, nó thường thấy vua Thuấn và vua Thuấn là chủ của nó; còn vua Nghiêu thì con chó không thường thấy. Cho nên người ta thường nói: “Chó sủa người mà không phải là chủ của nó” (Khuyển phệ phi kỳ chủ).
Sách sử nhà Ngô có chép:
Vua Ngô Tôn Quyền hỏi quan Thượng thư lệnh, tên là Hám Trạch rằng: “Ngài Khổng Tử và Lão Tử có thể so sánh với Đức Phật được không?”
Quan Hám Trạch tâu rằng: “Nếu mang so sánh thì hai Ngài Khổng Tử và Lão Tử còn cách xa Đức Phật rất nhiều. Lý do như vậy là vì Ngài Khổng Tử và Lão Tử đặt ra giáo lý, đều theo lẽ trời mà sử dụng, không dám trái mệnh; còn chư Phật giảng dạy giáo lý thì các vị trời đều phải vâng theo, không dám trái Phật, lấy đó mà nói thì thật sự không thể nào so sánh được, việc này đã quá rõ”. Do vậy, vua Ngô Tôn Quyền cảm thấy rất vui!
Hoặc có người cho rằng:
Kinh Phật không nhằm khoe khoang, người nào đọc tụng và tu tập ắt được công đức. Bởi lẽ chư Phật Như Lai đều đã chứng đắc, nói những lời xác thực và đem những việc thực nghiệm để giảng dạy cho mọi người, không phải là những lời hư ảo. Các bộ kinh đều chép: Đem rất nhiều những của quý hiếm để bố thí; không bằng người trì tụng những câu văn, câu kệ trong kinh điển. Vì dùng của quý để bố thí thì vẫn còn cố chấp vào sự tướng, cho nên chỉ được phước báo làm trời và làm người mà thôi. Nếu có khả năng trì niệm kinh điển và tu dưỡng đúng như lời dạy trong kinh, hoặc theo đạo Phật, chỉ một lời Phật dạy mà thấy rõ chân lý thì tâm thần sẽ thông suốt, hoài nghi sẽ tan biến, hiểu rõ vạn vật và bản thân ta là đồng nhất, quán triệt xưa và nay ngay ở đây thì sẽ thành đạt chính đạo và giác ngộ rõ ràng như chư Phật, vậy còn có cái gì hay hơn thế!
Chính nhà Nho cũng nói:
“Làm việc lợi ích mà không mong cầu hưởng công thì hoàn toàn chưa từng thấy”.
Hoặc có người cho rằng:
“Lúc đầu là kẻ sĩ, lúc sau là Thánh nhân”.
Sách Luận Ngữ chép:
“Có học tập thì sẽ có tài lộc”.
Dịch Kinh chép:
“Gia đình nào mà làm những việc từ thiện thì sẽ được nhiều hạnh phúc”.
Thư Kinh cũng chép:
“Làm thiện thì được phước”. Đó là lẽ tất nhiên, chứ đâu phải Đức Thánh Khổng ta dạy đem những việc như tài lộc và hạnh phúc ấy để phô trương với mọi người?
Hoặc có người cho rằng:
“Người nào tụng kinh để dâng cúng quỷ thần thì sẽ được an vui”.
Tôi cho rằng:
Ông chắc chưa nghe thấy câu nói: “Tài thí thì không được quý trọng bằng pháp thí”. Nghĩa là bố thí bằng đạo pháp thì quý hơn bố thí bằng tiền của. Ví dụ như người xưa có việc phải đi xa, khi chia tay, người ta không cầu mong của báu mà chỉ xin một lời khuyên thì đó là ân huệ. Như Yến Tử chỉ khuyên khéo một lời mà các quan chức nước Tề đã giảm bớt hình phạt. Vua Cảnh Công chỉ ban một lời từ thiện mà sao Hỏa (ác tinh) phải đổi ngôi. Cũng như các đệ tử của Đức Thánh Khổng ta, người thì hỏi về hiếu nghĩa; người thì hỏi về nhân ái; người thì hỏi về chính trị; người thì hỏi về bạn bè; người thì hỏi về cách phụng sự nhà vua (nhà nước); người thì hỏi về việc xây dựng đất nước (cai trị nhân dân).
Nếu được một lời dạy có thể làm lớn mạnh phước thiện và sửa sai thì trọn đời người ấy sẽ thành quân tử, đó chỉ là lời dạy về cách ứng xử ở đời mà thôi. So với lời dạy về đạo pháp (về pháp thí) của Đức Phật là bậc đại từ bi, là lời dạy chân thành, chính xác, cảm thông và truyền cảm được cả Tám bộ Trời Rồng, rung động cả mười phương thế giới. Khi Đức Phật dạy cho Phật tử một lời thì tâm địa người ấy mở sáng. Chỉ trong một niệm, chân tính quán triệt, vượt qua ba cõi, giải thoát sáu trần, thân tâm trong sáng, cắt đứt nghiệp duyên, khế hợp chân tâm, thông suốt bản tính, siêu phàm nhập thánh, vừa ý bản thân, tự nhiên giải thoát, làm chủ ngoại duyên, gặp việc thì làm, trước đạt Bồ đề, sau cứu chúng sinh. Vậy các việc ở đời có thể nào hay hơn được chăng?
Tất cả quỷ thần đều mong giải thoát, đối với Đức Phật họ cũng vui vẻ hộ trì vì chân tính và lời dạy xác thực của Ngài. Vả lại, Đức Phật còn là một vị vua chân lý tối cao với lời dạy thiêng liêng trong thánh giáo do chính Đức Phật nói ra. Người ta chỉ đọc một lần thì bánh xe pháp cũng có thể chuyển vần khắp mặt trái đất. Loài Dạ xoa xướng lên “Không tính” để thông báo bốn vị Thiên Vương, các vị Thiên Vương nghe rồi, lại tiếp tục truyền bá, đến tận cung trời Phạm Thiên, âm dương đều thông cảm, Long Thần thảy mừng vui, cũng như lời vàng truyền khắp, sắc lệnh ban ra, khắp trong vũ trụ, ai nấy đều vâng theo. Thêm nữa, Đức Phật là đấng cha lành của cả bốn loài - loài sinh bằng bào thai, loài sinh bằng trứng, loài sinh ra từ ẩm thấp và loài sinh ra bằng sự biến hóa - như cha dạy con, ai mà không theo, công đức tụng kinh đại ý cũng giống như vậy.
Trong kinh Phật dạy: Nếu ai có khả năng tụng kinh, niệm Phật, trong bảy ngày bảy đêm mà tâm không tán loạn thì tùy theo việc làm, chắc chắn sẽ có cảm ứng.
Còn người nào mà tuy thân hình ngồi tụng kinh nhưng tâm thần lại loạn động, ở ngoài có vẻ tĩnh lặng nhưng trong tâm lại bồi hồi thì chỉ là kẻ đọc theo dòng sách, đếm chữ trong kinh mà thôi! Chẳng khác gì con chim mùa xuân ban ngày thì hót, con côn trùng mùa thu ban đêm thì kêu, cho dù có tụng kinh niệm Phật đến trăm vạn lần, cũng chẳng ích lợi gì! Tôi muốn nói tới chuyện Cảnh Cung lạy giếng mà nước suối chảy ra khi bị bao vây và chuyện Lỗ Dương múa kiếm mà mặt trời phải ngừng lại. Thành tâm mà tụng kinh niệm Phật chỉ trong giây phút cũng có cảm ứng, còn thời gian bảy ngày bảy đêm thì hơi lâu xa. Thí dụ:
- Mười ngàn con cá được nghe danh hiệu Phật mà được trở thành mười ngàn thiên tử.
- Năm trăm con dơi nhờ nghe tiếng thuyết pháp mà được thành năm trăm vị thánh hiền.
- Con trăn (là hậu thân của bà hoàng hậu Hy Thị, vợ vua Lương Vũ Đế) nhờ công đức lễ sám hối mà được sinh lên cõi trời.
- Rồng được nghe thuyết pháp mà ngộ đạo.
Người xưa đâu có lừa dối chúng ta.
Ba tạng kinh điển chỉ là giáo lý phương tiện; còn chân lý cứu cánh chỉ có một mà thôi. Nghĩa là, giáo pháp cứu cánh của Phật thì duy nhất, nhưng vì chúng sinh căn tính khác nhau nên Phật phải phương tiện đặt ra nhiều giáo pháp. Ngày nay, không nhờ vào những giáo lý phương tiện để dìu dắt những người sơ cơ, mà lại muốn đạt ngay tới chân lý cứu cánh của Phật thì thật là một ảo tưởng! Cũng như mới nhìn thấy cung mà lại muốn ăn chả chim ngay tức khắc, sao được?
Theo lời dạy của Ngài Đại sĩ Thiện Huệ thì: Muốn qua sông thì phải dùng thuyền bè. Khi đã tới bờ thì phải bỏ thuyền lại.
Vậy việc ấy không đúng hay sao? Phật pháp giáo hóa và cứu độ thế gian, rõ ràng như mặt trời soi sáng giữa bầu trời, nhưng người ngu mê lại không tin. Việc này cũng giống như người mù thì không trông thấy mặt trời mặt trăng, chứ đâu phải là lỗi của mặt trời mặt trăng! Đức Phật chỉ tùy theo trình độ căn cơ của chúng sinh mà thuyết pháp, cho nên có nhiều pháp môn phương tiện mà người ta không dễ gì có thể hiểu hết được.
Người tu học cũng như người tập bắn, phải lâu lâu mới có thể bắn trúng đích.
Ngài Đại sĩ Táo Bách thì dạy rằng: Nếu cố chấp vào việc tu tập thì sẽ thất bại. Nếu buông thả thì hoàn toàn sai lầm. Vội vàng cũng không thành mà trì hoãn cũng không được. Chỉ có biết tiếp tục đều đặn thì việc tu tập mới không uổng phí.
Lại nữa, Bạch Lạc Thiên có hỏi Ngài Khoan Thiền Sư:
- Trong kinh có chép câu: “Không tu, không chứng”, vậy có khác gì phàm phu, tục tử?
Ngài Khoan Thiền sư đáp:
- Phàm phu, tục tử thì vô minh, tham dục mù quáng còn Thanh văn, Duyên giác lại thiên chấp. Nếu ai thoát ly được hai chứng bệnh ấy thì là chân tu. Người chân tu không nên quá nhọc nhằn, cũng không nên lơ là. Vì nhọc nhằn thì cũng gần như thiên chấp còn lơ là thì sẽ rơi vào vô minh.
Đó là điều chủ yếu và pháp môn chân chính cho người mới vào đạo. Thực ra, “không tu” có nghĩa là không còn cố chấp vào sự tu tập; “không chứng” có nghĩa là dù đã chứng nghiệm chân lý nhưng không còn vướng mắc và cố chấp vào chân lý ấy, lời khuyên này nói lên sự vượt thoát cao đẹp của Phật giáo.
Hoặc có người nói: “Phật giáo có câu kinh (chân ngôn hay thần chú) khi cúng thí thực, dâng cúng các món ăn cho các quỷ thần, ngạ quỷ và vong linh của những người đã chết thì có khả năng biến ít thành nhiều, như câu: Bảy (7) hạt cơm hay cháo có thể biến khắp mười phương (toàn thể vũ trụ gồm Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, Thượng phương, Hạ phương) thì không hợp lý”.
Tôi cho rằng không phải như thế. Phải chăng ông đã không nghe thấy việc Việt Câu Tiễn chỉ cho một vò rượu, mà tất cả quân lính đều uống say? Hay Loan Ba cũng chỉ dùng một bình rượu mà cả xứ Thục Xuyên đều mưa? Nghĩa là, tâm linh vận hành đến đâu thì đều có truyền cảm, huống chi chúng ta lại nhờ vào sức đại nguyện của chư Phật, và mở rộng thiện tâm của mình để biến ít thành nhiều thì chắc chắn sẽ thành đạt tuyệt diệu (vả lại, theo Phật giáo thì mỗi một sự vật hay một thế giới từ cực vi đến cực đại đều nằm trong số 7: gồm 4 không gian - Đông Tây Nam Bắc và 3 thời gian - Quá khứ, Hiện tại và Tương lai; 4 phương 3 đời chỉ cho một thế giới, một đơn vị, một sự vật và một sinh vật trong thế giới hiện tượng Hữu vi thuộc nhân duyên quả biến chuyển vô thường, sinh sinh, diệt diệt tương tục. Thí dụ: người ta sinh ra cũng phải có 9 tháng 10 ngày (9x30+10) vẫn là bội số của số 7; và người ta chết đi, chỉ tồn tại tối đa trong 49 ngày, cũng là bội số của số 7, sau đó phải biến chuyển sang một nếp sống khác ngoại trừ giới quỷ thần).
Hơn nữa, sự thấy biết của Đức Phật thì rất sâu xa rộng lớn và có đủ sáu thần thông: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Thần túc thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Lậu tận thông. Chính Túc mạng thông của Ngài chỉ trong một niệm, một giây phút, cũng có thể biết suốt được nhiều đời nhiều kiếp, hay Thiên nhãn thông của Ngài cũng chỉ trong một chớp mắt có thể thấy hết các thế giới nhiều như cát bụi, cũng như tôn giả A Na Luật thuộc hàng tiểu quả Thanh văn, là một trong mười vị đại đệ tử của Đức Phật, cũng đạt được Thiên nhãn thông và có khả năng thấy rõ cả đại thiên thế giới (vào khoảng một tỷ thế giới hay một tỷ thái dương hệ) như nhìn thấy trong bàn tay, huống chi Đức Phật lại có Thiên nhãn thông rộng lớn hơn. Hay tôn giả Xá Lợi Phất cũng thuộc hàng tiểu quả Thanh văn và cũng là đệ tử Phật, được ca ngợi là bậc trí tuệ đệ nhất, có khả năng biết rõ trình độ và căn khí của mọi người đến 8.000 đại kiếp.
- 16.000.000 x 80 x 8.000 = 10.240.000.000.000
Trong đó: 16.000.000 kiếp = một tiểu kiếp.
- 20 tiểu kiếp = một trung kiếp.
- 4 trung kiếp hay 80 tiểu kiếp = một đại kiếp.
- Ở đây là 8.000 đại kiếp và căn số là 4. Vì mỗi thế giới, mỗi sự vật và mỗi con người đều phải chuyển biến trong 4 thời kỳ:
- Đúng ra, mỗi tiểu kiếp là 16.800.000 năm, thì số lượng năm của 8.000 đại kiếp còn nhiều hơn ở trên.
Huống chi Đức Phật là bậc chính biến tri, toàn giác, biết tất cả một cách chính xác! Cũng chính nhờ vào sự thấy biết sâu xa và rộng lớn ấy nên Đức Phật đã thuyết pháp và giáo hóa chúng sinh cũng sâu xa như vậy, thế thì tư tưởng của những kẻ phàm phu, tục tử làm sao mà với kịp?
Hãy thử lấy việc nhỏ để dụ cho điều lớn. Tuy đều là người, song có người thì rất thông minh, có người lại cực kỳ ngu dốt. Người rất thông minh thì: trong đời thượng cổ có những dấu ấn thịnh suy, trị loạn; có những sách vở như Lục Kinh (Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc, Xuân Thu) và các sách sử của các vị hiền triết, đều có khả năng hiểu biết, cả đến các nước ở hải ngoại, tuy chưa đi đến, cũng có thể biết được vì nhờ ở sự xem sách. Người cực kỳ ngu dốt thì hoàn toàn chẳng biết gì. Vậy tại sao lại thấy quái đản đối với người thông minh hiểu biết kia?
Sau khi Phật pháp đã truyền vào đây (Trung Quốc), cũng có các vị Thánh nhân xuất hiện để giúp đỡ và truyền bá. Vậy chúng ta hãy đưa ra những việc mắt thấy tai nghe của mọi người mà bàn luận. Ví dụ như:
- Bồ tát Quán Âm đã thị hiện ở triều Đường Văn Tông.
- Ở Tứ Châu, Ngài Đại Thánh xuất hiện vào thời Đường Cao Tông.
- Ở Vụ Châu, huyện Nghĩa Ô thì có Ngài Phó Đại Sĩ. Đời Tề, niên hiệu Kiến Võ thứ tư, năm Ất Sửu, tháng năm, ngày mồng tám thì có vị cao Tăng Tung Đầu Đà ở Ấn Độ (Thiên Trúc) đến bảo rằng: “Tôi với Ngài cùng nhau phát nguyện ở nơi Đức Phật Tỳ Bà Thi. Hiện nay, ở cung trời Đâu Suất vẫn còn thấy y bát ở đó, vậy ngày nào Ngài sẽ trở về đó?”. Rồi vị cao Tăng bảo Ngài Phó Đại Sĩ đi tới dòng nước để xem hình bóng của chính Ngài thì thấy có bảo cái (lọng vàng) chiếu sáng. Ngài Phó Đại Sĩ nói: “Cứu độ mọi người là việc khẩn cấp, đâu còn nghĩ tới việc an vui ở cung trời Đâu Suất kia?”. Khi hành đạo, thường thấy ba Đức Phật: Thích Ca, Kim Túc và Định Quang phóng hào quang sau thân thể.
- Ở Quách Châu, đất Văn Hương có Ngài Trương Vạn Hồi, hiệu Pháp Vân Công, sinh vào thời nhà Đường, niên hiệu Trinh Quán, năm thứ sáu, tháng năm ngày mồng năm, có người anh tên là Vạn Niên đi chiến đấu ở Liêu Tả đã lâu, xa cách nhau vạn dặm. Bà mẹ là Trình Thị nhớ mong tin tức của con thì sáng sớm Pháp Vân Công chào mẹ ra đi, đến chiều thì mang thư của anh về.
- Thiền sư Phong Can ở chùa, thường cưỡi hổ ra vào. Ngài Hàn Sơn và Ngài Thập Đắc (tục truyền: hai Ngài là hóa thân của Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền) vì thế mà giúp đỡ.
- Ở Minh Châu có Thiền sư Phụng Hóa, tức Bố Đại Hòa thượng vì đi đâu Ngài thường đeo một cái bị lớn. Ngài ngồi mất ở chùa Nhạc Lâm, rồi Ngài lại hiện thân ở nơi khác.
- Đời Lưu Tống, vào đầu niên hiệu Thái Thuỷ có Thiền sư Chí Công, là con của bà Tống Thị ở Kim Thành. Mấy ngày liền không ăn, Ngài vẫn không có vẻ đói và nói nhiều việc đều có ứng nghiệm.
- Đời nhà Tấn, thời Thạch Lặc, có Ngài Phật Đồ Trừng. Trong tay Ngài có thể soi sáng đến ngàn dặm.
- Ở Trấn Châu, khi Ngài Thiện Hóa mất thì Ngài rung chuông và bay lên không gian mà đi.
- Ở dãy núi Ngũ Đài, Ngài Đặng Ẩn Phong gặp quan quân với Ngô Nguyên Tế đánh nhau, Ngài liền phóng tích trượng bay lên để đi trên hư không mà vượt qua trận chiến. Thấy vậy, quân lính hai bên đều giải tán.
- Thiền sư Nguyên Khuê đã trao truyền giới pháp cho thần núi.
- Ngài Ngưỡng Sơn ngoại hiệu Tiểu Thích Ca được một vị tăng tên La Hán đến tham vấn.
- Việc nhận giới pháp của hai vị vua (vua núi Tung Nhạc, vua của nhà bếp từ đường), đều là những loại quỷ thần có thể chứng quả được.
- Đại sư Đạt Ma, tức Tổ Bồ Đề Đạt Ma, sống hơn 150 tuổi, mất vào thời Hậu Ngụy, đời vua Hiếu Minh Đế, niên hiệu Thái Hòa năm thứ 19 và được chôn ở chân núi Hùng Nhĩ. Sau đó ba năm, ông Tống Vân đời Ngụy vâng sứ mạng đi Ấn Độ trở về thì gặp Tổ Bồ Đề Đạt Ma ở Thông Lĩnh (Pamir), Ngài chỉ mang một chiếc giày đi về Ấn Độ. Sau đó, vua Hiếu Trang nghe thấy lời tâu như vậy nên cho phép mở cửa mả của Tổ để xem thì quả thật chỉ còn lại một chiếc giày. (Muốn hiểu rõ giai thoại này, xin đọc trong sách Truyền Đăng Lục).
- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi vẫn còn tồn tại ở đời sau khi Đức Phật đã nhập diệt 400 năm.
- Thiền sư Nam Nhạc ở núi Thiên Thai, là nơi mà vị La hán thường ở, được sự cúng dường của trời người và Ngài thường biểu hiện những dấu ấn thánh linh.
- Thiền chủ ở núi Nam An thuộc Đinh Châu có nhiều phép lạ thiêng liêng.
- Thiền sư Thiện Giác ở chùa Hoa Lâm, thuộc Đàm Châu, tôn giả Nghiêm Dương ở Tân Hưng thuộc đất Vũ Ninh thường dùng hổ đi theo hầu.
- Ngài luật sư Đạo Tuyên nghiêm trì giới luật, đã cảm hóa được thái tử là con của Tỳ Sa Môn Thiên Vương, trở thành một vị thiên thần hộ trì giới pháp. Ngài đã cung đón được răng Phật từ trên trời. Nay răng Phật ấy vẫn còn ở thế gian. Do vậy, Hoàng đế Huy Tông khi mới lên ngôi, lấy viên xá lợi ấy xem, xá lợi khi đó được cất giấu trong hộp thủy tinh, lúc mở ra thấy lấp lánh như mưa sa. Vì vậy trong điển chế nói về nền thái bình thịnh trị, Hoàng đế đích thân làm bài ca ngợi như sau:
Đức Phật Thích Ca Văn,
Cả bầu trời như hạt bụi.
Ai cầu xin đều được đáp ứng,
Ngài hiện thân khắp mọi nơi.
Viên ngọc sáng ngời như ngàn vầng mặt trời,
Hạt kim cương trăm lần mới đẹp.
Trẫm nay xin kính lễ,
Xin nguyện cứu mọi loài.
Hoàng đế biết tôi là người kính Phật nên thường vì tôi mà khuyên bảo mọi việc.
Như trước đã nêu ra, các vị Bồ tát và Thánh nhân đều là người học Phật. Ở đây, tôi muốn nói rằng giả sử Đức Phật có đôi chút tà tâm nào thì làm sao có thể nhiếp phục được các vị Thánh nhân có đủ thần thông như thế?
Lại có các vị như: Ngài Đạo An ở Di Thiên; Ngài Tuệ Viễn ở Đông Lâm cùng với Ngài Đạo Sinh, Đạo Dung, Tăng Triệu, Tăng Duệ; Ngài Tuệ Vinh ở đời nhà Trần; Ngài Pháp Hiển ở đời nhà Tùy; Ngài Pháp Vân là học trò của Tổ Trí Văn ở đời nhà Lương. Tất cả các Ngài mỗi ngày đều ghi chép mấy vạn chữ trong ba tạng kinh điển. Giảng kinh thì có hoa trời tung bay trước toà pháp và các tảng đá cũng phải cúi đầu... Vậy, các Ngài đâu phải là những người tầm thường? Hay như Ngài Lý Trưởng Giả, Ngài cư sĩ Bàng Uẩn đều là dòng dõi Thánh nhân. Ngài Tôn Tư Mạc chép Hoa Nghiêm Kinh và hơn nữa lại kính mời chư Tăng tụng Pháp Hoa Kinh. Đạo sĩ Lã Động Tân tham thiền và dâng cúng dù ông ta theo đạo thần tiên, đâu phải là việc làm vô ích! Huống chi, hiện nay, những kẻ phàm phu lại dám chê bai bừa bãi! Vì lời Phật dạy đúng lý, đúng sự, có cứu cánh, có phương tiện, hoặc toàn diện hoặc phiến diện, hoặc mau hoặc chậm đều có thể áp dụng thích đáng. Nếu không phải là những người có đủ đức tin và trình độ thì vẫn còn nghi hoặc và hiểu lầm. Cũng như, nhà Nho chúng ta thường nói: Đức Thánh, tức là Đức Khổng Tử, không dạy những việc quái đản, dũng lực, phản loạn và quỷ thần.
Thế nhưng chính sách Xuân Thu của Ngài Khổng Tử lại ghi: “Bia đá biết nói ở nước Tấn, thần linh xuất hiện ở đất Sằn”. Và Dịch Kinh cũng chép: “Người ta thấy con lợn đội đất bùn, chở quỷ đầy một xe”. Vậy việc ấy không phải kỳ quái là gì! Ngài Mạnh Tử không nói việc Lợi mà nói việc Thiện để dạy nhân dân cách kiếm được của cải nhưng lại nhận vàng ở đất Tống. Vậy việc ấy không phải Lợi là gì!
Theo lời dạy của Thánh nhân thì cần phải dùng các phương tiện để đáp ứng các đổi mới, đôi khi đi ngược và trái với lẽ thường nhưng lại hợp đạo lý. Vậy chúng ta không thể cố chấp những lời dạy dị đồng, trước sau mà phê phán Thánh nhân được!
Thưa các vị, may được lời dạy của Phật Tổ mà hiểu rõ tin chắc, chúng ta phải chân thành gắng sức thì sẽ chứng ngộ và thực nghiệm không sai. Nhưng người đời lại cho là sai, mà chúng ta muốn sửa sai cho họ, đúng như lời nói của Ngài Mạnh Tử: “Chỉ một Tiết Cư Châu thì làm gì được vua Tống đây?"
Tôi đâu có tham vọng nào khác, nghĩa là, chỉ muốn việc lợi công và bỏ việc lợi tư, làm cho mọi người đều biết: trong cái thân người khó được này, ai nấy đều sẵn có Phật tính, và trong nhà người nào cũng có kho báu như nhau. Khi dục tính mù quáng đã hết thì tâm trong sáng liền mở ra, chứ không phải do người ngoài mà được. Thế thì chúng ta đâu còn sợ những kẻ nào khác.
Trong thời Tấn Huệ Đế, Vương Phù là kẻ ngụy tạo Hóa Hồ Kinh. Kinh nói về Ngài Lão Tử sang Ấn Độ giảng dạy cho Đức Phật Thích Ca. Bởi lẽ Vương Phù đã không hiểu: Đức Phật Thích Ca đã giáng sinh tại Ấn Độ, vào thời nhà Chu, vua Chiêu Vương năm thứ 24; và Đức Phật nhập diệt tại Ấn Độ, vào thời vua Chu Mục Vương năm thứ 52 bên Trung Quốc (theo cột đá của vua A Dục vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch tại vườn Lâm Tỳ Ni - (Lumbini) - nơi Đức Phật giáng sinh, đã ghi rõ, cách đây 2551 năm (2007), hiện nay vẫn còn tại Ấn Độ. Nghĩa là, Đức Phật giáng sinh trước chúa Giê-su 544 năm). Trải qua 16 vị vua nhà Chu như: vua Cung Vương, vua Ý Vương, vua Hiếu Vương, vua Di Vương, vua Lệ Vương, vua Tuyên Vương, vua U Vương, vua Bình Vương, vua Hoàn Vương, vua Trang Vương, vua Hy Vương, vua Huệ Vương, vua Tương Vương, vua Khoảnh Vương, vua Khuông Vương và vua Định Vương; thì đến mãi vua Định Vương năm thứ 3 thì Ngài Lão Tử mới sinh. Như vậy có nghĩa là Ngài Lão Tử sinh sau Đức Phật rất xa thì làm sao Ngài Lão Tử có thể sang Ấn Độ mà dạy Đức Phật được? Đến khi Lão Tử đi qua vùng Lưu Sa, Phật pháp đã truyền khắp cả năm xứ Ấn Độ: Đông Ấn, Tây Ấn, Nam Ấn, Bắc Ấn, Trung Ấn và cả các nước xung quanh, mọi người trong thiên hạ đã nghe thấy đạo Phật đã phát triển trước hơn ba trăm năm rồi, chứ đâu cần phải đợi Ngài Lão Tử đến Ấn Độ mà giáo hóa (Hóa Hồ)!
Lữ Hạ Khanh đề tựa cho Bát Sư Kinh rằng:
“Kẻ tiểu nhân thường không biết sợ sự hình phạt ở nhà tù nhưng lại sợ sự khổ đau của địa ngục. Tuy khi sống thì dùng sự lừa dối ở đời, khi chết chắc chắn không thể nào tránh khỏi sự đọa đày dưới địa ngục. Nay có kẻ gian hùng bạo động dám làm cho người ta đau khổ nhưng lại không dám xúc phạm Phật giáo vì sợ quả báo nơi địa ngục không thể nào tránh được”.
Nếu người đời đều biết rõ mọi việc dù lớn hay nhỏ đều có nguyên lý nhân quả, và không dám tự dối lòng mình, luôn quan tâm giúp đỡ chúng sinh, đều không có động thái lấn hiếp và giành giật người nào thì đâu cần phải dùng đến hình phạt nặng nề, mà thế giới này sẽ trở nên thịnh trị!
Còn người ta cho rằng đạo Phật chẳng có ích lợi gì cho cuộc đời thì tôi hoàn toàn không tin và hãy lượng thứ cho họ. Vậy muốn tiến lên làm trời và người thì trước hết phải thực hành phước thiện; còn muốn vượt qua biển khổ sinh tử luân hồi thì cần phải khẩn trương tu dưỡng đạo đức. Hiện nay, có người muốn được an vui sung sướng ở cõi trời và người, mà lại không trồng cây phước, cũng như muốn vượt qua biển khổ sinh tử, mà lại không tu hành đạo lý thì chẳng khác gì con chim không có cánh mà lại muốn bay; cây không có gốc rễ mà lại muốn phát triển xanh tươi thì làm sao mà thành đạt được!
Xưa nay, có người được hưởng năm điều hạnh phúc như: Giàu sang, sống lâu, khỏe mạnh, bình an và thiện chung thì đó là phước báo. Còn kẻ phải chịu sáu việc cực khổ như: Chết non, ốm đau, lo sợ, nghèo đói, xấu ác và yếu đuối thì đó là ác báo. Tất cả đều do những việc đã làm ở quá khứ, vậy thì phải tin.
Hoặc có người cho rằng: “Vấn đề thiên đường chỉ là giả tạo và địa ngục cũng chẳng phải thật”. Người nói như vậy thì thật là ngu si!
Đức Phật dạy: Có sáu nếp sống. Trong đó có loài trời, loài người, loài quỷ và loài súc sinh thì rõ ràng có thể biết được bốn loài ấy. Nhưng loài Tu la hiếu chiến, nhiều hận thù và loài ở địa ngục thì mắt thịt phàm phu không thể thấy được, chứ không phải là hư ảo. Còn những việc thần linh quái lạ thì đời nào cũng có. Vậy hãy xem qua sự ghi chép trong các sách sử truyện thì ai đã có tai mắt, phải nghe thấy rõ, kể cả kẻ ngu si cũng phải tin là có. Phần nhiều, người ta tin việc này nhưng lại ngờ việc kia, cũng như suốt ngày chỉ đếm số 10, mà không biết hai số 5 (2 x 5 = 10) thì không thể gọi là hiền triết.
Một người bạn thường bảo tôi rằng:
“Theo truyền thống Bắc truyền hay Bắc tông mà người ta thường gọi là Đại thừa Phật giáo thì Đức Phật khuyên mọi người không nên ăn thịt, việc đó hầu như không hợp lý. Chúng ta hãy tranh luận việc này: Con gà thì báo sáng; con mèo thì bắt chuột; con trâu thì cày ruộng; con ngựa thì giúp người đi xa; con chó thì giữ nhà, chúng ta không nên giết thì đúng, còn như con lợn, con dê, con ngan, con vịt và các loài tôm cá ở dưới nước, chủ yếu là những con vật dùng cho bếp núc. Nếu không giết chúng thì chúng sẽ sinh sôi nảy nở rất nhiều, có hại cho môi trường sống, vậy chúng ta phải sử dụng chứ?”
Tôi trả lời: “Không đúng. Vì ông là người chưa hiểu giáo lý của Phật, tôi sẽ vì ông mà tóm lược”.
Muốn hiểu rõ vấn đề thiện ác báo ứng thì chỉ có Đức Phật, Ngài dùng Túc mạng thông, Lậu tận thông và Thiên nhãn thông, mới có thể biết rõ kiếp sống quá khứ, kiếp sống hiện tại và kiếp sống tương lai của Ngài và của những người khác.
Hiện nay, con đường xấu ác vẫn tiếp nối, ba nẻo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh luôn sục sôi, tiếp diễn, chúng ta tin chắc là có. Tất cả chúng sinh ăn nuốt lẫn nhau. Ngày trước nợ nhau thì khi chết phải trả lại nhau, đó là lẽ tất nhiên, không thể chối cãi. Lại có những chúng sinh mang thân to lớn, như loài cá kình, cá ngao, sư tử, voi, thuồng luồng, cá côn và chim bằng...; có chúng sinh lại mang cái thân bé nhỏ như loài ruồi muỗi, ve sầu, sâu kiến, rận chấy và bọ chét... Về phẩm loại tuy có lớn nhỏ khác nhau nhưng về tính chất và mạng sống thì đều giống nhau. Tuy con người thì rất tinh khôn nhưng chỉ cá biệt có một loài. Nếu không làm những việc phước thiện, tâm không tỉnh ngộ, đạo không tu học, chỉ đam mê ăn chơi dục lạc, tạo thành thói quen đủ thứ ác nghiệp. Rồi thấp thoáng trong khoảng sáu chục năm trời thì cũng chẳng khác gì các loài vật kia.
Như loài Ca-lâu-la vươn xòe cánh rộng tới 336 vạn dặm; loài A tu la vươn thân hình dài tới 84.000 dặm. Đem hai loài ấy mà nhận xét thì con người này cũng chẳng đáng là bao. Dù con người với tâm thức rất tinh anh, sao đành lại dùng những ý đồ bất chính nhằm lừa dối những loài nhỏ bé ngu muội kia để giết hại chúng! Ngay như nhà tù ở đời chỉ phạt những kẻ có tội, còn người không sai phạm thì chẳng sao cả.
Người trí thức trọn không phản đối việc xây dựng đô thành, quận huyện và việc xếp đặt các ban ngành quan chức, không thể thờ ơ, chỉ cần làm một vài việc, qua đó cùng nhau làm việc tưng bừng.
Tuy nhiên, ngày nay chúng sinh đi vào con đường xấu ác mờ tối vô cùng. Nếu không vướng mắc, tức là giải thoát cho mình, đâu còn ngờ vực gì. Nếu có ai chăm chỉ tu hành, mong chóng được giác ngộ, mà lại ăn thịt uống máu chúng sinh thì không bao giờ có vậy. Còn những người giàu sang và người cai trị bang ấp lại cần thấu hiểu thêm đạo lý này nữa. Trước đây quan đại phu Lục Hoàn hỏi Thiền sư Nam Tuyền rằng:
“Đệ tử ăn thịt là đúng, hay không ăn thịt là đúng?”
Thiền sư Nam Tuyền đáp:
“Ăn là lộc của quan đại phu, không ăn là phước của quan đại phu”.
Lại nữa, vua Tống Văn Đế bảo Đại sư Cầu Na Bạt Ma rằng:
“Bản thân trẫm làm theo việc nước, tuy muốn giữ gìn trai giới, không sát sinh, vậy làm thế nào có thể đạt được như pháp?”
Đại sư Bạt Ma đáp:
“Việc tu dưỡng của bậc đế vương phải khác với người dân thường. Bậc đế vương cần ban lời nghiêm chỉnh khi ra lệnh, làm cho các vị thần linh và mọi người đều được an vui, hòa hợp thì thời tiết mưa gió hợp thời, mưa gió hợp thời thì mọi vật sinh sôi phát triển, lấy đó làm việc ăn chay thì việc ăn chay ấy thật là tuyệt vời; lấy đó làm việc không sát sinh thì đức của vua càng thêm lớn, chứ cần gì phải bỏ bữa cơm giữa ngày để bảo toàn mạng sống cho một con vật!”
Nhà vua vỗ tay ca ngợi rằng:
“Người trần tục còn mê lầm, không hiểu rõ chân lý; các vị Tăng lại cố chấp giáo điều. Theo lời nói của Đại sư thì thật là đạt đạo trong thiên hạ, xứng để bàn luận mọi việc của cõi trời cõi người”.
Lấy đó mà bàn thì các vị đế vương công hầu đều có ân đức lớn, là người có công xây dựng cuộc đời, thật là xứng đáng. Còn các nhà sĩ thứ, trong việc tế lễ xuân thu, phải dùng việc sát sinh ấy để tùy thời thích nghi thì có thể sám hối. Nhưng các vị sư đầu tròn áo vuông, vâng theo giới luật nhà Phật, nhận sự cúng dường và giúp đỡ của các Phật tử và đã rời bỏ trần tục đi tu, mà lại ăn thịt uống rượu, không những bị mọi người khinh rẻ mà lại còn chấn động cả đến trời. Khi rời bỏ cái thân hình mặc áo nhà Phật thì phải chịu nhiều khổ đau, không thể nào tưởng tượng được!
(Tuy nhiên, theo Phật giáo Nam tông thì tất cả các vị tu sĩ đều có thể ăn tùy theo các Phật tử biếu cho, không kể chay mặn gì cả.)
Theo đạo Nho ta thì không cấm sát sinh, không ngăn cản uống rượu ăn thịt. Với việc trộm cắp thì chỉ khuyên không nên một cách qua loa thôi. Còn việc tà dâm thì chỉ dạy: “Chưa thấy được ai ưa chuộng đạo đức bằng ưa chuộng sắc đẹp”. Chỉ có thế thôi, vậy làm sao mà khuyên người ta không sai phạm được!
Theo lời Phật dạy thì đề cao việc thiện, từ bỏ việc ác, thật là sâu sắc rõ ràng. Ngài cũng dạy rõ về thuyết quả báo và địa ngục một cách cực kỳ thẳng thắn và rất nghiêm minh, thế mà những kẻ gian manh cường bạo còn chưa biết hối cải, huống chi lại chẳng răn đe gì!
Còn Năm giới là năm nguyên lý đạo đức nhân bản nhằm ngăn ngừa những hành động thô bạo, bất chính nơi bản thân con người, đó là bước đầu tu dưỡng. Vậy muốn lên cao thì phải từ thấp, muốn đi xa thì phải từ gần, cũng như người cầu đạo mà muốn trở thành hiền thánh thì cũng phải do Năm giới này mà ngộ nhập. Còn như vấn đề vượt ngoài tư duy, không còn phân biệt thiện ác, dung hợp thực hư, đồng nhất thánh phàm thì đó là con đường truyền thừa riêng biệt, không thể dùng giấy mực mà diễn tả, không thể dùng lời nói mà biện luận được. Văn chương dù có hơn đời chỉ là hư danh, thế lực dù cao ngất trời cũng chỉ tăng thêm ác nghiệp. Giả sử có dùng pháp môn Định Tuệ để tu dưỡng tâm minh vỗn sẵn có, nhằm vượt qua ba cõi, vì quá sức người nên ít người đạt được.
Phân biệt các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, cũng như giàu, nghèo, thọ, yểu đều do duyên nghiệp của mình quy định. Còn Phật pháp có mặt hay không, đối với chúng ta, cũng không thể thêm hay bớt được vì đó là quy luật nhân quả công bằng, mình làm mình hưởng, mình gây ra thì mình phải chịu. Đức Phật chỉ là vị thầy chỉ đường và hướng dẫn chúng ta mà thôi. Công danh tài lộc là do vận mạng của ta chứ không phải do bài bác Phật mà được. Đạt được vinh hoa phú quý phải biết tùy thời chứ không phải do đả kích Phật mà có. Một khi khởi sinh tâm ác và nói năng sai trái thì chỉ gây ra tai họa, chẳng có ích gì và còn gặp hoạn nạn về sau.
Bởi vậy, người trí thức thì thận trọng lời nói và việc làm còn kẻ điên cuồng thì tung hoành bừa bãi. Nên quả báo hơn kém trong sáu đường do đó mà phân biệt có khác nhau.
Tôi là kẻ bất tài, chỉ mong những người có cùng chí hướng, hãy bỏ tà theo chính và dốc lòng ủng hộ đạo Phật, được vậy thì thật là cao đẹp và phước thiện biết bao! Còn những kẻ xiển đề hẳn sẽ không chịu tiếp thu những lời này, vậy thì tôi cũng không đoái hoài đến nữa.
LUẬN HỘ PHÁP
Đến đây là khép lại.
Người dịch từ Hán văn sang Việt văn:
Tỳ kheo Bồ tát giới Thích Đức Nghiệp
Dịch tại Tổ đình Vĩnh Nghiêm
Thành phố Hồ Chí Minh
Phật lịch 2551 - Tây lịch 2007.