I. Thắng Man Kinh
Trong khoảng thời gian từ sau thời đại Ngài Long Thọ tới thời đại Ngài Vô Trước, Thế Thân xuất thế, có rất nhiều kinh điển của Đại thừa Phật giáo xuất hiện, nhưng những kinh điển chủ yếu là: Thắng Man Kinh, Đại Bát Niết Bàn Kinh, Giải Thâm Mật Kinh và Lăng Già Kinh.
Thắng Man Kinh, tức là Thắng Man Sư Tử Nhất Thừa Đại Phương Quảng Kinh. Kinh này có hai bản dịch: Ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch (năm 436) và Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch (năm 700 - 713).
Giáo lý trung tâm của kinh này bàn về tư tưởng “Như Lai tạng”. Như Lai tạng là một tên riêng của Phật tính. Cái tâm thường ngày của chúng sinh vì bị bao thứ phiền não khuấy trộn, nên Phật tính của chúng sinh bị lu mờ, nhưng cái Phật tính đó vẫn hoàn toàn đầy đủ như tâm tính của Như Lai, tỷ dụ như nước với sóng. Cái tâm thường ngày của chúng sinh cũng ví như làn sóng ở trong bể lớn của thanh tịnh nhất tâm. Vậy nên cái tâm thường ngày của chúng sinh và tâm tính bản tịnh chỉ là một thể. Đó là tư tưởng “Như Lai tạng” của kinh này.
II. Đại Bát Niết Bàn Kinh
Đại Bát Niết Bàn Kinh được dịch sang chữ Hán có hai bản là Bắc bản và Nam bản. Đại Bát Niết Bàn Kinh (40 quyển) do Ngài Đàm Vô Sấm dịch (42 Tây lịch) thuộc Bắc bản, và Ngài Tuệ Nghiêm đính chính lại kinh đó chia thành 36 quyển gọi là Nam bản. Nội dung của hai bộ này thì giống nhau, nhưng khác nhau về lối hành văn và tên tác phẩm.
Đại Bát Niết Bàn Kinh tức là kinh Đại Thừa Niết Bàn. Kinh này được phát triển từ các kinh Tiểu Thừa Niết Bàn như Du Hành Kinh v.v nhưng về lập trường của đôi bên không giống nhau. Tiểu Thừa Niết Bàn Kinh chỉ là một tác phẩm ghi chép về sự sinh hoạt của Đức Thế Tôn ở tuổi vãn niên, nhưng kinh Đại Thừa Niết Bàn thì không ghi chép về sự thực đó mà chủ trương một giáo lý, một đường lối nhất định riêng.
Đại Thừa Niết Bàn Kinh, một mặt thì kế thừa tư tưởng “Không” của Bát Nhã Kinh và giáo lý “Tâm tính bản tịnh” của Đại Chúng bộ; một mặt lại kế thừa tư tưởng “Nhất thừa” của Pháp Hoa Kinh. Đặc sắc về giáo nghĩa của kinh này là “Pháp thân thường trụ”, “Hết thảy chúng sinh đều có Phật tính” và “Xiển đề thành Phật”.
Sự nhập Niết bàn của Phật Thích Ca chẳng qua chỉ là một thùy tích của Ứng hóa thân, còn bản tính của Ngài thì không có quan hệ với lẽ sinh tử, Pháp thân của Ngài vẫn thường trụ không biến. Nhưng Pháp thân không phải chỉ riêng Đức Phật mới có, mà tất cả chúng sinh cũng vẫn đầy đủ, vì chúng sinh bản lai vẫn có Phật tính. Sở dĩ có sự sai khác giữa Phật và chúng sinh là do chỗ kết quả của sự tu hành mê và ngộ. Thông thường mà nói, thì hết thảy chúng sinh đều được thành Phật, vì chúng sinh bản lai vẫn có Phật tính chỉ trừ kẻ xiển đề (ichantika - kẻ không có tín căn, hay đoạn mất thiện căn) là không được thành Phật, nhưng chủ trương của kinh này, nếu kẻ xiển đề biết hồi tâm, và trở lại được tín tâm thì cũng được thành Phật.
III. Giải Thâm Mật Kinh
Giải Thâm Mật Kinh có hai bản dịch: Thậm Thâm Giải Thoát Kinh (5 quyển) do Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch vào năm 515 và Giải Thâm Mật Kinh (5 quyển), do Ngài Huyền Trang dịch vào năm 647. Nội dung của kinh này là một tư tưởng rất quan trọng cho môn Duy thức. Tư tưởng đó có ba điểm quan trọng như sau:
1. Tư tưởng A lại da thức
Ở phẩm “Tâm ý thức tướng” của kinh này có nói đến tư tưởng “Nhất thiết chủng tử tâm thức”. Cái tâm thức này có từ ở giây phút lúc bắt đầu thọ sinh. Sau khi thọ sinh rồi thì phát triển dần dần thành ngũ thức để phối hợp với ngũ căn, rồi đến các tâm sở v.v.
“Nhất thiết chủng tử tâm thức” thì gọi là “A đà na thức” và “A lại da thức”, hoặc gọi tắt là “Tâm”. A đà na thức (danavijnàna), dịch là “Chấp trì thức” có năng lực duy trì các chủng tử. A lại da thức (Alayavijnàna), dịch là “Tạng thức”, có năng lực chứa đựng các chủng tử. Sau nói về tâm (Citta), chỉ về phương diện hoạt động chủ quan của sáu thức đối với sáu trần.
2. Thuyết Tam tướng, Tam vô tính
Ở phẩm “Nhất thiết pháp tướng” của kinh này có nêu ra ba tướng: “Biến kế sở chấp tướng” (Parikalpita lakasanna), “Y tha khởi tướng” (Paratantra Lakasanna), và “Viên thành thực tướng” (Parinispanna Lakasanna).
Biến kế sở chấp gọi là huyễn giác hay thác giác; Y tha khởi tướng là các pháp nương vào nhân duyên mà sinh; Viên thành thực tướng là tướng bình đẳng chân như của mọi pháp. Biến kế sở chấp tướng vì do nơi biểu hiện của tâm mà có, nên nó không có tự tính, gọi là “Tướng vô tự tính”. Y tha khởi tướng thì nương vào nhân duyên mà có, nên không có tự tính riêng, gọi là “Sinh vô tự tính”. Viên thành thực tướng là nơi sở duyên của tâm thanh tịnh, nhưng nếu nó lìa khỏi tâm thì không có phần tự tính riêng, gọi là “Thắng nghĩa vô tự tính”. Sau hết, quy tụ hết thảy mọi pháp cũng đều không có tự tính, cũng tương tự như tư tưởng “Không” trong Bát Nhã Kinh.
3. Thuyết Tam thời liễu, Vị liễu
Kinh này còn thành lập ra ba thứ tính là Thanh văn tính, Duyên giác tính và Bồ tát tính. Đức Phật lúc ban đầu nói ra pháp Tứ đế để hóa độ Tiểu thừa Thanh văn, nên thuộc “Vị liễu nghĩa thuyết”. Sau Ngài đối với căn cơ Bồ tát nói ra những pháp bất sinh, bất diệt, bản lai thanh tịnh, đó cũng thuộc về “Vị liễu nghĩa thuyết”. Khi Ngài nói ra thuyết “Tam tướng tam vô tính” trong kinh này mới thuộc “Liễu nghĩa thuyết”. Đó cũng là một phương thức “Giáo phán” của Phật giáo thấy xuất hiện ở kinh này đầu tiên.
IV. Lăng Già Kinh
Lăng Già Kinh, hoặc gọi là Nhập Lăng Già Kinh (Lankàvatàra). Kinh này được dịch sang chữ Hán có ba bản khác nhau: Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh (4 quyển) do Ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch (năm 443); Nhập Lăng Già Kinh (10 quyển), Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch (năm 513); Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh (7 quyển), Ngài Thực Xoa Nan Đà dịch (năm 704).
Nội dung của kinh này tuy có nhiều giáo lý chủ yếu của Đại thừa Phật giáo, và còn liên quan đến cả học thuyết ngoại giáo, nhưng tư tưởng nhất quán là tư tưởng “Như Lai tạng” và “A lại da thức”. Như Lai tạng là cái tên riêng của “Chân như”, “Không”, “Pháp thân”, “Niết bàn”, “Bản tính thanh tịnh” v.v.
A lại da thức, một mặt thì đồng nhất với “Như Lai tạng”, một mặt thì có sinh có diệt khác với Như Lai tạng là bất sinh bất diệt, cho tất cả mọi pháp đều từ A lại da thức mà xuất hiện.
Giáo nghĩa chủ yếu của kinh này còn là “Năm pháp”, “Ba tính”, “Tám thức” và “Hai vô ngã”. Năm pháp là “Danh” (Nāma), “Tướng” (Nimitta), “Phân biệt” (Samhàlpa), “Chính trí” (Samyagjnàna), và “Như như” (Tathatà, Chân như).
Trong các bộ luận như Du Già Sư Địa Luận, Hiển Dương Thánh Giáo Luận, Thành Duy Thức Luận và Phật Tính Luận đều có nói đến năm pháp này. Ba tính là “Vọng kế tự tính”, “Duyên khởi tự tính” và “Viên thành tự tính”. Ba tính này vì quan hệ mật thiết với năm pháp, nên “Danh” và “Tướng” thuộc “Vọng kế tự tính”, “Phân biệt” thuộc “Duyên khởi tự tính”, “Chính trí” và “Như như” thuộc “Viên thành tự tính”. Tám thức là A lại da thức, Mạt na thức, Ý thức và Tiền ngũ thức. Hai vô ngã là “Nhân vô ngã” và “Pháp vô ngã”. Năm pháp, Ba tính, Tám thức và Hai vô ngã thì bao gồm hết thảy mọi pháp.