Đội thiếu niên tiền phong lớp 7A chúng tôi tổ chức đại hội ngay trong ngày chủ nhật đầu tiên của năm học.
Sáng sớm, thằng Mạnh đến nhà tôi. Thấy ống sáo trên vách, nó lấy xuống nghịch, chúm môi thổi phù phù như thổi lửa. Tôi bèn giật lấy, thổi cho nó nghe một bài. Thằng Mạnh tấm tắc khen hay và bảo hôm nay thế nào nó cũng giới thiệu tôi thổi sáo cho cả đội nghe. Tôi bằng lòng, nhưng nhờ thằng Mạnh cầm hộ ống sáo vì tôi ngượng.
Trường chúng tôi còn nghèo, văn phòng nhà trường đặt trong một ngôi nhà lá, các phòng học đều là nhà lá, nơi ăn ở và làm việc của các thầy giáo cũng là nhà lá nốt. Năm ngoái, trường vừa mới xây được một tòa nhà gạch, các thầy, các cô dành cho đội thiếu niên làm câu lạc bộ. Ngôi nhà đặt trên đỉnh đồi, có năm gian, trông vừa gọn vừa xinh, tường quét vôi xanh mát dịu dàng, mái ngói đỏ tươi rực lên dưới ánh nắng sớm.
Chúng tôi đến vừa kịp dự giờ vui chơi. Cái Loan bảo tôi:
- Bạn Việt thi đấu bóng bàn nhé!
Rồi nó nhoẻn miệng cười, mở nắp bút máy, ghi ngay tên tôi vào danh sách. Thằng Mạnh cũng đòi ghi tên. Cái Loan bèn xếp Việt với Mạnh vào một cặp.
Bàn bóng sơn xanh đậm đà, đặt ngay gian giữa. Trò chơi này hẳn là thu hút được nhiều người xem nhất. Bọn chúng đứng xúm xít hai bên bàn. Hàng chục đôi mắt long lanh đảo qua đảo lại, thích thú hướng theo quả bóng nhựa nảy lách tách trên mặt bàn. Trong vòng đấu loại đầu tiên, tôi gặp thằng Mạnh. Thấy nó thấp bé, tay ngắn, tôi bèn đánh cứ một quả ngắn lại xen một quả dài. Quả ngắn rơi sát lưới, Mạnh ta phải tì bụng vào mép bàn để với bóng lên, chưa kịp lùi lại thì tôi đánh tiếp quả dài thọc vào tận nách, thế là cu cậu cứng cựa! Tôi hạ thằng Mạnh liền hai ván một cách dễ dàng. Trận đấu kết thúc, thằng Mạnh tiến lại bắt tay tôi và cười khì khì:
- Tớ mới tập mà thua thế cũng còn ít đấy!
Sang vòng hai, bắt đầu gay go. Tôi bắt thăm trúng ngay số 4, phải vào đấu với cái Loan số 3. Cái Loan hăm hở xắn tay áo lên tận khuỷu, hất hai dải đuôi sam ra sau lưng rồi cầm lấy vợt cao su chơi thử vài quả. Nhìn lối di chuyển nhanh nhẹn và cách cắt bóng thành thạo của nó, tôi đã gờm. Vào ván, tôi thận trọng giao bóng thật hiểm hóc. Quả bóng xoay tròn, bay chếch vòng cung, rơi sát mép bàn. Cái Loan lúng túng vớt bóng lên cao. Tôi thừa dịp vụt mạnh, dứt điểm. Thằng Mạnh khoái trá reo to:
- Giỏi! Giỏi! Một - Không! Hoan hô cây vợt mới!


Tôi mỉm cười, khéo léo giao quả thứ hai. Nhưng cái Loan không giữ thế phòng ngự nữa. Quả bóng rơi chéo vào mép trái bàn, nảy lên vừa tầm, cái Loan vụt ngay, ôi chao, quả vụt trái bất ngờ của nó sao mà lợi hại thế! Cái cổ tay tròn tròn khẽ xoay và bàn tay rám nắng của nó vừa vẫy ngược một cái, quả bóng trắng đã đập chát xuống bàn, lao như tên bắn lên mặt tôi. Tôi luống cuống bước giật lùi, giơ ngang vợt đỡ hú họa. Muộn rồi! Quả bóng vụt qua tai tôi, nảy ra xa. Bọn đứng xem vỗ tay rào rào.
Ba quả tiếp đó, cũng vẫn quả vụt trái bắt tôi chạy dài nhặt bóng. Gáy tôi nóng ran. Tôi nghĩ: Phải phản công lập tức! Cái Loan vừa giao bóng xong, tôi quật lại ngay. Quả bóng chạm cạnh vợt, bay lên mái nhà. Thằng Mạnh cười như nắc nẻ:
- Ô hô! Đánh chỉ thiên! Năm - Một! Không gò thì thua mất, anh bạn ơi!
Giá như lúc ấy, tôi kiềm chế được mình thì không đến nỗi thua đậm. Thầy Quang cũng đã có lần dặn chúng tôi rằng hễ gặp đối thủ trội hơn, ngay từ đầu đã áp đảo mình thì phải hết sức bình tĩnh, phát huy tinh thần quyết thắng để tìm cách xoay chuyển tình thế, vì trong các cuộc thi đấu, không chỉ có sức khỏe, tài năng và kỹ thuật quyết định hơn thua, mà chính đạo đức là yếu tố vô cùng quan trọng đối với thắng lợi cuối cùng. Nhưng tôi đâu nhớ đến lời thầy. Như chú gà chọi say đòn, tôi vụt lia lịa, bóng thấp cũng vụt, bóng xoáy cũng vụt, quả bóng không may hết lao trượt ra ngoài lại rúc đầu vào lưới. Ván thứ nhất kết thúc với tỷ số 21 - 4. Tôi định đổi bàn thì thằng Cao tiến lại:
- Thôi, cậu Việt ra đi! Đừng bắt cặp chúng tớ đợi nữa. Thua dưới năm thì chả cần đánh ván thứ hai đâu!
Nó giật phắt cái vợt trên tay tôi. Tôi chưa nghe ai nói cái luật bóng bàn như vậy, nhưng tôi cũng không giằng lại. Tôi không xem đánh bóng bàn nữa, bỏ sang chầu rìa đám cờ đâm, bụng bảo dạ rằng bóng bàn là cái thứ trò chơi nhạt nhẽo, yếu ớt, vô vị nhất trong các thứ trò chơi trên đời.
Chúng tôi vui chơi đến khoảng 8 giờ. Cái Loan giật giải “Vô địch bóng bàn toàn đội”. Giải thưởng là một gói kẹo to bọc giấy bóng, bên ngoài thắt nơ đỏ cẩn thận. Cái Loan mở ngay gói kẹo ra, thết chúng tôi. Chẳng ai khách sáo cả. Chúng nó xúm ngay vào. “Mình không ăn, bọn nó lại tưởng là mình thua, mình tự ái!”. Nghĩ vậy, tôi cũng nhón một cái. Kẹo dứa Phú thọ vừa thơm vừa ngọt. Tôi định làm theo thằng Mạnh, lấy thêm một cái nữa, nhưng chúng nó đã chia nhau hết nhẵn. Ăn kẹo xong là vào họp.
Lớp 7A chúng tôi sàn sàn lứa tuổi mười ba, bốn mươi tám học sinh cũng là bốn mươi tám đội viên thiếu niên tiền phong, cô Mùi giáo viên chủ nhiệm lại là chị phụ trách. Nhưng chị phụ trách không làm thay chúng tôi đâu nhé. Mọi công việc cần thiết, ban trù bị đại hội đã bàn bạc kỹ lưỡng với chị phụ trách. Bắt đầu vào họp, đoàn chủ tịch do chúng tôi cử ra tự điều khiển lấy đại hội. Chị phụ trách ngồi cùng hàng ghế với các đại biểu: Cô Vân thay mặt ban chấp hành chi đoàn thanh niên lao động và thầy Lưu, hiệu trưởng, thay mặt hội đồng nhà trường đến dự.
Năm học này, đội thiếu niên tiền phong lớp 7A vẫn mang tên Lý Tự Trọng. Bốn phân đội đồng thời là bốn tổ học tập để tiện họp hành, theo dõi giúp đỡ nhau. Tổ trưởng tổ 1 là cái Quế, tính tình thẳng thắn, công việc xốc vác và rất bạo mồm bạo miệng. Thằng Vĩnh tính nóng như lửa nhưng lao động và công tác rất hăng hái, làm tổ trưởng tổ 2. Tổ trưởng tổ 3 là thằng Dục, lầm lì, ít nói nhưng nói câu nào cũng chắc như đanh đóng cột. Thằng Chiến là tổ trưởng tổ 4 chúng tôi. Cuộc họp hôm nay, phần quan trọng nhất là chính thức bầu ban chỉ huy đội và thông qua đề án công tác năm học 1962 - 1963.
Bỏ phiếu bầu ban chỉ huy đội xong, chúng tôi cử ba bạn: Chiến, Quế và Vĩnh đi kiểm phiếu. Trong khi ban kiểm phiếu làm việc, chúng tôi say sưa hát hết bài này đến bài khác. Bài hát được hát nhiều lần nhất chính là bài ca ngợi người thanh niên anh hùng mà đội chúng tôi mang tên: “Muôn đời sau Lý Tự Trọng còn như ngôi sao mai lấp lánh trên trời cao...”. Tôi lên thổi một bài sáo, được đại hội hoan hô nhiệt liệt.
Ban kiểm phiếu trở lại phòng họp, hân hoan báo tin: phiếu tập trung cao độ, chứng tò sự nhất trí và sự lựa chọn thận trọng của đại hội. Những đội viên được cử vào ban chỉ huy đội kỳ này đều rất xứng đáng. Ban chỉ huy mới cùng chị phụ trách ra ngoài hội ý một lúc rồi trở vào báo cáo cho đại hội biết sự phân công mới.
Tôi ngồi ngây ra khi nghe công bố rằng cái Loan giữ chức đội trưởng. Sao không cử thằng Long, nó làm lớp trưởng sao không làm đội trưởng luôn? Chính tôi cũng bỏ phiếu cho cái Loan nhưng cứ ngỡ rằng toàn đội có vẻn vẹn mười hai đứa con gái thì cái Loan chỉ nên làm đến đội phó thôi!
Thằng Mạnh bảo tôi lên thổi một bài sáo chào mừng ban chỉ huy mới, nhưng tôi gạt phắt. Tôi nhớ đến chuyện chia ghế hôm vừa rồi. Đầu năm học, nhà trường giao cho lớp 7A mười hai cái bàn mới nguyên. Nhưng bọn tôi phải nhận toàn ghế cũ, trong đó có ba cái thảm hại nhất, chân cứ rão ra, oặt à oặt ẹo. Ghế vác đến cửa lớp, tôi nhanh tay tranh lấy một cái tươm nhất, vác thẳng về bàn mình, vạch phấn lên đánh dấu luôn. Cái Loan là lớp phó phụ trách học tập, không đòi lại ghế, chỉ bảo khẽ tôi: “Sao bạn Việt làm thế! Tập thể chúng mình thu xếp với nhau chứ!”. Nó ghé tai bọn con gái, thì thầm những gì ấy, rồi rủ nhau khiêng luôn ba cái ghế long chân về ba dãy bàn đầu lớp. Bọn con trai chúng tôi đứng ngớ người ra một lúc rồi chia nhau mang ghế về các tổ. Bàn tôi có cái ghế vững nhất, nhưng không hiểu vì sao, tôi ngồi lên vẫn không thấy thú lắm. Bây giờ nhớ lại chuyện ấy, hai cái bực nhỏ cộng lại thành một cái bực to! Tôi bèn bảo thằng Mạnh:
- Tớ với cậu, ta làm một bài thơ đi.
- Thơ ấy à? Để làm gì?
- Cho cái Loan một vố mới được! Con gái sợ chuột mà cũng làm đội trưởng! Tớ nghĩ được cái đầu đề rất hay: Gan thỏ.
- Ừ, thì làm.
Thằng Mạnh thấy hay hay, cũng bằng lòng. Cu cậu chả thích làm thơ lắm mà. Bên trên, cái Loan đang thay mặt ban chỉ huy đội trình bày đề án công tác. Tôi ngồi dưới khe khẽ rút một mảnh giấy nháp, hí hoáy ghi câu đầu: Đội ta có một cô nàng. Hai đứa gật gù: mở đầu như thế thật đạt, vừa gọn gàng vừa tự nhiên! Nhưng đến đó thì không nghĩ thêm được nữa. Không phải chúng tôi kém đâu! Người ta bảo rằng phải làm thơ ở chỗ yên tĩnh, thế mà bỗng dưng chung quanh chúng tôi, chúng nó nhộn nhạo hẳn lên. Hai đứa chúng tôi bèn ngẩng đầu và lập tức quên phắt bài thơ dang dở một câu đầu.
Cái Loan đứng trên bục đoàn chủ tịch, hai tay nâng cao một tấm bìa cứng to bằng nửa mặt bàn. Tấm bìa kẻ khung xanh đỏ đẹp lắm, góc phải vẽ một quyển sách mở rộng, góc trái là hình ảnh một con ngựa hồng có cánh trắng đang phi nước đại, phóng đến bốn chữ đỏ chói kẻ nổi bật đầu bảng: “Đi thăm Bắc Lý”.
Bốn sợi dây đồng vàng óng căng dọc, cách đều nhau, trông như những sợi dây đàn. Có bốn mũi tên nhỏ cắt bằng sắt tây sơn vàng, tím, đỏ, xanh mắc vào bốn sợi dây ấy.
Cái Loan vừa chỉ vào từng mũi tên vừa giới thiệu tấm bảng. Vì không theo dõi từ đầu, tôi chỉ hiểu láng máng rằng bốn mũi tên tượng trưng cho phong trào thi đua học tập của bốn phân đội trong đợt thi đua “Đi thăm Bắc Lý”*.
* Trường THCS Bắc Lý nay thuộc xã Bắc Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; một thời là lá cờ đầu của ngành giáo dục toàn miền Bắc (BT).
Bảng chia làm 186 bậc, tượng trưng cho khoảng cách 186 cây số từ trường Lâm Thao về trường Bắc Lý. Cứ được một điểm 4, mũi tên nhích lên một bậc, được một điểm 5 thì vọt lên ba bậc. Ngược lại, mắc một điểm 2 phải thụt lùi một cây số, mắc một điểm 1 thì phải thụt liền năm cây số (bị điểm 1 thì tệ thật, tụt năm bậc là đáng đời lắm!). Phân đội nào về đến Bắc Lý đầu tiên sẽ được giữ cờ luân lưu “Thi đua học tập khá nhất”.
Mũi tên của phân đội 4 chúng tôi màu xanh thẫm, trông nổi lắm, hình như lại to hơn ba mũi tên kia một chút, thú quá. Tôi kéo áo thằng Chiến:
- ‘‘Mũi tên xanh’’ sẽ bắn tới đích trước, cậu nhỉ?
Chiến gạt tay tôi ra. Nó càu nhàu:
- Đừng vội! Coi chừng tụt hậu, chúng nó cười vào mũi ấy!
- Phân đội trưởng mà yếu bóng vía thế!
- Thôi im! Làm ồn, mất điểm thi đua bây giờ!
Thế là tôi cụt hứng.
Phần cuối cùng của bản đề án - sinh hoạt câu lạc bộ, sinh hoạt văn nghệ, thể thao - được thảo luận rôm rả nhất. Năm nay, đội Lý Tự Trọng sẽ lập đội bóng đá để thi đấu với các đội bạn. Mỗi học kỳ tổ chức một lần cắm trại và hai lần liên hoan văn nghệ. Đặc biệt, năm nay liên đội toàn trường sẽ dựa vào sức đội viên, lập một phòng đọc sách. Ban chỉ huy và chị phụ trách kêu gọi tất cả đội viên đội Lý Tự Trọng hãy sốt sắng xây dựng tủ sách chung. Cái Loan nói thêm rằng mỗi đội viên giữ riêng vài ba quyển sách ở nhà thì người nào cũng chỉ được đọc vẻn vẹn những quyển của mình, có khi lại vứt vạ vứt vật hoài phí đi. Tốt hơn hết là tập trung lại, mỗi người vài cuốn, chưa kể cả liên đội gần năm trăm đội viên, chỉ tính riêng đội ta gần năm chục người cùng góp được một số sách kha khá.
Cái Loan vừa nói đến chỗ ấy, thằng Mạnh ngồi dưới nói tướng lên:
- Cũng chỉ bằng tủ sách riêng của bạn Việt thôi, các bạn ạ!
Tôi véo thằng Mạnh một cái rõ đau. Nó xuýt xoa mãi. Cho chừa cái thói hay hớt. Cũng may, hình như không ai chú ý đến lời thằng Mạnh, vì vừa lúc đó, cô giáo đứng lên dặn thêm cả đội:
- Các em nhớ lấy phương châm tự nguyện. Chúng ta cố gắng tìm, xin, mua, có nhiều góp nhiều, có ít góp ít, chứ không bắt buộc đâu nhé. Các em đồng ý chưa?
- Đồng ý!
Toàn đội đáp rập đều một lượt.
Cuộc họp bế mạc. Các phân đội khác lục tục về, chỉ thằng Chiến còn giữ phân đội 4 lại bàn luôn việc xây dựng tủ sách. Phân đội chúng tôi có mười hai đội viên, nhưng chỉ có mỗi một đứa con gái. Tên nó là Cúc. Thật không có tên nào hợp hơn. Nó có vóc người nhỏ nhắn như một khóm cúc, gương mặt tươi tắn như một đóa cúc, và đôi mắt thì vừa mảnh vừa dài y như hai chiếc lá cúc! Không biết sao mà cái Cúc rụt rè đến thế! Cánh con trai ngồi tụm trên ba ghế, còn cái Cúc rón rén lùi xuống ngồi một mình trên chiếc ghế dưới cùng.
Thằng Chiến kêu gọi đội viên xung phong góp sách. Nó giục:
- Nào, mỗi bạn định ủng hộ mấy quyển, lên tiếng đi.
Tôi ngồi nép vào một góc, đợi chúng nó phát biểu trước.
Thằng Mạnh giơ tay đầu tiên. Nó xung phong góp cả bộ “Tây du” vừa mua dạo hè. Cả phân đội vỗ tay bồm bộp. Tôi trố mắt nhìn nó, quên cả vỗ tay. Nhiều đứa xung phong theo, có đứa ủng hộ một quyển, có đứa hai ba quyển. Thằng Cao xin khất. Nó bảo chiều nay nó về tìm hôm sau nộp sách rồi ghi tên luôn. Thằng Chiến cũng bằng lòng. Trông như nó sốt ruột muốn về, chốc chốc lại nhìn bóng nắng ngoài hiên. Nó quay lại sau, giục:
- Bạn Cúc thế nào?
Cái Cúc nhỏ nhẹ:
- Tôi góp hai quyển: “Tắt đèn” và “Đời dũng cảm” của Kim Đồng. Tôi về tìm, có thì mang thêm.
- Tốt. - Thằng Chiến quay sang tôi. - Còn bạn Việt nữa, nói luôn đi.
Thằng Mạnh nháy mắt:
- Ái chà! Cả một tủ cơ mà!
Nó lại cười, nhe những cái răng khấp khểnh, trông đến ghét. Tôi gắt:
- Bận gì đến mày!
- Ồ! Tớ khen đấy chứ!
- Ông chả thiết! Mày biết tao ủng hộ mấy quyển mà khen? Thế tao không ủng hộ nữa, mày làm gì tao nào?
Bị dồn mãi, thằng Mạnh phát khùng:
- Mày có hàng trăm quyển, không nộp cũng không xong với chúng tao!
- Này, tao không non gan đâu mà dọa. Cô giáo đã bảo tùy tinh thần tự nguyện, mày nhớ chứ? Đằng này chúng mày ép như ép bánh chưng ấy!
Thằng Chiến xen vào giữa hai đứa:
- Ơ... ơ... sao lại cãi nhau? Thôi xin cả hai “ông”! Bạn Việt đừng nóng! Bạn định ủng hộ mấy quyển nào?
Tôi nói xẵng:
- Tớ còn tìm đã.
- Ừ, tùy đấy. Hôm nào mang đến nhé.
Thằng Chiến đứng lên. Tôi vội nhắc:
- Này, còn chuyện thi đua Bắc Lý nữa chứ. “Mũi tên xanh” của phân đội mình thế nào, ta bàn đi.
Thằng Chiến xua tay:
- Thôi, để bữa khác. Hôm nay muộn quá rồi.
Bọn thằng Cao, thằng Mạnh đã ùa ra đến cửa. Tôi cũng cầm ống sáo đứng dậy, đi theo. Chỉ còn thằng Chiến và cái Cúc ở lại sau cùng, lúi húi đóng cửa câu lạc bộ. Tôi định nán lại giúp chúng nó một tay, nhưng bụng đã đói cồn cào. Tôi bèn bỏ về thẳng.
Mâm cơm đã để sẵn trên bàn, nhưng tôi không vồ vập mở lồng bàn ngay như mọi ngày. Tôi vẫn chưa hết bực mình về chuyện mấy quyển sách. Tôi bèn treo ống sáo lên vách, mở cái tủ nhố, khệ nệ bê cả mấy chồng sách lên bàn.
Tôi nhấc một quyển lên, ngắm bìa, ngắm gáy, nhìn giá tiền, lật xem loáng qua vài trang rồi thở dài đặt sang bên. Tủ sách của tôi, tôi nhớ rõ lai lịch từng cuốn. Những quyển sách Kim Đồng mong mỏng này là những quyển đầu tiên, cha tôi cho tôi tiền mua từ năm tôi còn học lớp 3. Hai tập Đảo giấu vàng bà tôi thưởng năm tôi thi đậu vào cấp 2. Quyển Thép đã tôi thế đấy là của chị Mai mua năm kia để kỷ niệm ngày chị ấy vào Đoàn. Mấy chục quyển sách tôi được nhà trường tặng thưởng, tôi xếp làm một chồng riêng. À, cuốn Bí mật ở miếu Ba cô này có một lai lịch thú vị lắm. Lần ấy, cha tôi cho tiền mua bút chì màu vẽ bản đồ. Tôi ra phố, thấy hiệu sách mở cửa, liền ghé vào. Ôi chao, sao kỳ này về lắm sách mới thế, lại toàn những sách hay! Tôi đứng dán mắt vào cuốn Bí mật miếu Ba cô. Riêng cái tên sách đọc lên cũng đủ mê mẩn rồi: “Bí mật”, “miếu Ba cô”, hẳn là cuốn sách đầy những chuyện mạo hiểm ly kỳ! Lại còn cái bìa nữa: con chó bông nhác trông qua đã biết là chó săn chính cống! Tôi định bụng vào xem qua, thế mà dùng dằng mãi không nỡ quay lưng. Cuối cùng, tắc lưỡi một cái, tôi bỏ ra ba hào mua luôn cuốn sách mình mê nhất. Trong túi còn lại hai hào, chẳng đủ tiền mua bút chì màu. Tôi bèn tắc lưỡi cái nữa, mua nốt quyển truyện tranh Tên gián điệp số 18. Thế là tủ sách được thêm hai cuốn! Nhưng bài tập vẽ bản đồ kỳ ấy, tôi chỉ được điểm 3 vì thiếu bút chì màu.
Thấy tôi giở hết quyển này đến quyển khác, bà tôi nhắc:
- Ăn đi không cơm nguội mất, cháu.
- Cháu tìm cái này đã.
- Mất sách à?
- Không ạ. Cháu chọn mấy quyển nộp cho đội.
- Ai cũng phải góp à?
- Vâng... à không. Cô giáo bảo tùy... nhưng bọn thằng Chiến bắt cháu nộp...
Tôi lại cúi xuống, lúi húi chọn. Tức quá, sách của tôi toàn sách tốt, quyển dày thì đắt tiền, quyển mỏng lại là sách hay. Sách mình nâng niu thế này, nộp vào đội, canh chung không ai bỏ muối, chúng nó lại chả quăng quật cho kỳ rách nát ấy à! Mới nghĩ thế đã thấy buốt ruột!
Bà tôi lại hỏi:
- Chúng nó bắt cháu nộp quyển gì?
- Quyển gì cũng được ạ.
- Thế phỏng? Để bà xem...
Bà tôi lật đật vào buồng, thoáng cái đã quay ra, mang theo ba cuốn sách mỏng, bìa vàng vàng phủ đầy bụi. Tôi đón ngay lấy, giở vội ra xem. A ha, tốt quá! “Màn ảnh Phú Thọ” tháng 6, 7, 8, mỗi cuốn hai mươi bốn trang, có truyện phim, có ca dao, lại có cả tranh ảnh minh họa nữa chứ!
Tôi nắm lấy cánh tay của bà nội:
- Được rồi bà ạ.
Bà tôi cười móm mém:
- Thôi, rửa tay rồi đi ăn cơm. Nguội cả rồi còn gì. Bà hâm đã.
Tôi chạy vội ra chum. Bà tôi bưng nồi cá, lập cập xuống bếp.

Từ tháng 12 năm 1961, sau ngày phát động phong trào thi đua “Hai tốt”, tổ mộc đã dựng lên ở cạnh cổng trường một tấm bảng gỗ sơn xanh. Đầu bảng nổi lên dòng chữ trắng: “Tự giác xây dựng trường thân yêu”. Một đường kẻ đỏ chia bảng làm hai ô. Nhà trường cần gì, thiếu gì, các thầy giáo ghi vào ô trên. Những học sinh tự giác ủng hộ sẽ tự tay ghi ở ô dưới. Sáng kiến lập bảng này được học sinh toàn trường hưởng ứng sôi nổi lắm, bọn thằng Chiến khoe với tôi như thế.
Sau ngày khai trường, tấm bảng “Tự giác” được quét sơn và kẻ chữ lại. Sáng nay, lúc đến trường, tôi đọc thấy lời kêu gọi sau đây: Vườn địa lý cần hai trăm viên gạch cũ để xây nền và hai cái gầu cũ bằng sắt tây để làm con quay gió.
Buổi trưa, tan học, nhìn lên bảng, tôi đã thấy những dòng phấn trắng ghi ở ô dưới:
- Lớp 7A chúng em xin góp đủ số gạch xây nên vườn địa lý. (Tôi nhận đúng nét chữ của thằng Long. Lớp trưởng của chúng tôi nhanh nhảu, được việc thật!)
- Vũ Thị Lân 7C ủng hộ một cái gầu.
- Thưa các thầy, thưa các cô, em tên là Đắc, học sinh lớp 5D. Em không có gầu, em muốn góp vào vườn địa lý một cái thùng sắt tây thủng mất đáy rồi, có được không ạ?
Ở đội Lý Tự Trọng chúng tôi, việc xây dựng tủ sách cũng làm theo cách ấy. Quyển sổ “Việc tốt” của đội để sẵn trên bàn cô giáo. Đội viên nào ủng hộ sách, cứ việc đặt lên bàn rồi tự tay ghi vào sổ.
Đúng ngày toàn đội góp sách, tôi lảng vảng đứng ngoài cổng, đợi trống gọi mới cắp cặp vào lớp. Chúng nó đã có mặt đông đủ. Hai chồng sách cao xếp trên bàn cô giáo. Mới liếc qua, tôi đã biết chớ có dại đưa mấy cuốn sách mỏng dính ra trước hàng trăm con mắt tò mò. Tôi bèn về chỗ, giả vờ giở vở ra xem lại bài. Thằng Chiến giục tôi:
- Cậu lên nộp sách đi.
- Ừ... chốc nữa. À, đằng ấy ủng hộ mấy quyển?
- Tớ chỉ tìm được hai quyển, tập thơ Nhật ký trong tù của Bác với quyển truyện Người thông minh. Phân đội ta nộp hết rồi, chỉ còn mỗi mình cậu. Lên đi.
- Được rồi, được rồi... Tớ xem lại bài sử đã...
Tôi cứ khất lần như thế cho đến hết tiết thứ hai, toàn trường tập thể dục giữa giờ. Cả lớp kéo nhau ra sân. Tôi vờ cúi xuống lúi húi soạn vở, ngồi nán lại trong lớp. May quá, không đứa nào chú ý. Lớp vắng tanh. Tôi cẩn thận khép hết cửa lại, rồi cầm ba cuốn sách, rón rén bước lên chiếc bục đất.
Tiếng còi điều khiển thể dục của thầy Quang đã nhịp nhàng vang lên ngoài sân. Tôị cúi lom khom, hối hả lật quyển sổ “Việc tốt”. Mắt tôi lướt nhanh trên những nét chữ khác nhau: “Phan Mạnh: 8 tập Tây du; Hoàng Đỉnh Long: 5 cuốn Kim Đồng; Trần Xuân Dục: tiểu thuyết Trước giờ nổ súng; Nguyễn Thị Loan...”. Ái chà! Tôi cúi sát xuống, tưởng mình hoa mắt trông lầm. Đằng sau ba chữ Nguyễn Thị Loan là một dãy tên sách chạy dài. Chả lẽ nó góp cả hai chục quyển sách mà nó vẫn bảo rằng nó rất quý? Nhìn lại ba cuốn Màn ảnh Phú Thọ trên tay, ngần ngừ. Chúng nó biết, chúng nó cười ê mặt. Hay cầm về đổi quyển khác? Không được! Cuối giờ học đã tổng kết rồi. À, phải. Không ghi tên nữa là xong chứ gì! Tôi nhét vội quyển Màn ảnh Phú Thọ vào giữa chồng sách phía trong rồi bước xuống bục.
Đúng lúc ấy, kẹt một tiếng, cánh cửa lớp hé ra. Giật mình đánh thót. Nhưng không phải cô giáo. Một cái đầu nho nhỏ ngơ ngác ló vào. A, một thằng bé chỉ đứng đến vai tôi là cùng. Nó bước vào, cầm trên tay một cuốn sổ nhỏ và cái bút chì đen ngắn thun lủn. Đã trấn tĩnh, tôi hỏi với giọng hách dịch:
- Chú bé tìm ai?
Thằng bé nghếch mặt lên hỏi lại:
- Anh tên là gì?
- Tớ ấy à? Tên Việt, họ Trần!
Thằng bé hí hoáy ghi sổ. Tôi tiến lại gần nó:
- Ghi tên anh mày làm gì hả chú bé?
Đường hoàng gài bút chì lên túi áo, thằng bé nói rất chững chạc:
- Anh Việt trốn giờ thể dục nhé!
- Á à! Mặc tao!
- Mặc thế nào! Lớp 5A chúng em trực tuần, em phải kiểm soát các anh chứ!
Tôi giật mình cái nữa. Thôi chết, chạm trán bọn trực tuần rồi. Trong những giờ tập hát, đọc báo, tập thể dục, trực tuần thường lảng vảng ngoài hiên kiểm soát. Hôm nay chúng nó xộc vào tận lớp mới tai hại chứ. Làm thế nào bây giờ? Nếu như gặp một cậu trực tuần lơn lớn, như các cậu 7D chẳng hạn, tôi sẽ ngồi thụp xuống, nhăn mặt rên rỉ kêu đau bụng rồi khẩn khoản xin dầu xoa, thế nào cũng thoát, vì có ai bắt buộc một học sinh đau bụng ra sân tập thể dục? Nhưng đằng này, trước mặt tôi chỉ là một chú bé con. Van xin nó thì nhục lắm. Tôi bèn dọa:
- Đừng dại trêu vào tay anh mày! Biết điều thì cút sớm!
Thằng bé cũng không vừa. Nó vênh mặt, chỉ băng vải đỏ trên cánh tay:
- Anh không có quyền đuổi trực tuần!
Ái chà! Gan cóc tía! Cậv thế trực tuần à! Trực tuần thì trực, ông cũng phải dọa cho một mẻ mới được! Tôi bèn trợn mắt, vung nắm đấm lên, làm ra vẻ sắp nện thật sự. Dáng điệu hung hãn của tôi làm chú bé hoảng sợ. Nó cầm sổ luống cuống lùi dần, lùi dần, rồi bất thần, ngoắt người nhảy vọt ra thềm, va vào cửa đánh sầm. Tôi không đuổi, chỉ đứng ôm bụng cười ngặt nghẽo:
- Ha ha! Trực tuần chạy như vịt!
Từ lúc nhét vội mấy quyển sách lên bàn cô giáo, tôi chẳng còn dám nhìn thẳng vào mặt bọn thằng Chiến. Tiết thứ ba hôm đó học ngoại ngữ. Tôi bồn chồn như ngồi trên đống lửa. Mỗi lần cô giáo quay mặt về phía bàn, tôi lại giật mình tưởng như cô đã nhìn thấy ba cuốn sách ố vàng của tôi nằm một cách vụng trộm giữa chồng sách cao. Tôi phập phồng nghĩ đến những phút đáng sợ sắp đến, khi cô giáo dõng dạc đọc danh sách những người tự nguyện tham gia xây dựng tủ sách của đội. Không nghe thấy tên tôi, bọn thằng Chiến làm rầm lên cho xem. Liệu cô giáo có biết tôi nhét trộm ba quyển Màn ảnh Phú Thọ vào đó không? Biết thừa đi chứ! Cứ tra sổ là lòi ra ngay! Việc làm của tôi thật ngốc nghếch, dại khờ!
Luẩn quẩn với những ý nghĩ rối rắm ấy, suốt giờ ngữ pháp, tôi chỉ nghe lõm bõm, rời rạc từng đoạn.
Dạy xong phần “Các loại danh từ”, cô giáo dừng lại, nhìn đồng hồ đeo tay:
- Còn mười phút nữa. Các em làm một bài tập ngắn nhé.
Chúng nó lật vở lào xào. Nhiều đứa hối hả xem lại bài. Tôi cũng cuống quýt mở cặp tìm giấy. Tay tôi run bắn lên. Tôi oán cô giáo vô cùng. Sao bỗng dưng cô bày ra cách kiểm tra cuối giờ không báo trước thế này, mà lại kiểm tra đúng vào hôm nay!
Chưa hôm nào tôi làm bài với tâm trạng lo sợ như hôm ấy. Nhoáng cái đã hết giờ. Tôi mới viết được vẻn vẹn năm dòng, không buồn xem lại nữa, nhờ thằng San ngồi ở đầu bàn nộp quách cho xong. Phen này cầm chắc điểm 2!
Những giây phút tôi nơm nớp chờ đợi, cuối cùng rồi cũng đến. Cô giáo hớn hở báo cho chúng tôi biết toàn đội góp được một trăm bảy mươi hai quyển sách. Cô tuyên dương chín đội viên ủng hộ nhiều nhất và ủng hộ những cuốn có giá trị nhất. Chúng nó bốc lên, vỗ tay như phá, bàn tay đứa nào cũng đỏ dừ. Tôi phải gượng gạo vỗ theo vài cái.
Cuối cùng, cô giáo hỏi:
- À, có em nào ủng hộ ba cuốn Màn ảnh Phú Thọ mà không thấy ghi tên?
Cả lớp nhìn nhau. Tiếng rì rầm nổi lên. Tôi cúi mặt. Nếu được phép chui tọt xuống gầm bàn mà ngồi có lẽ còn dễ chịu hơn ngồi ghế nhiều.
Thấy không ai nhận, cô giáo bèn giơ ba quyển sách lên. Chúng nó cười rộ. Tiếng cười hô hố ha há nghe cứ như chọc vào lỗ tai. Cô giáo hỏi thêm lượt nữa. Thằng Chiến ngoảnh lại hỏi tôi: “Cậu góp quyển gì, Việt?”. Không thể im lặng được nữa, tôi đứng dậy, mặt đỏ chín, hai mắt mở to nhưng chẳng nhìn vào đâu hết. Tôi nói, giọng khàn khàn, nghe xa lạ như tiếng một người nào khác:
- Thưa cô... của em ạ.
Trán cô giáo thoáng cau lại, nhưng giãn ra ngay. Hai mắt cô mở to nhìn tôi:
- Của Việt ư?
- Vâng ạ.
Tôi cúi gằm, nghe rõ cô nói thong thả từng tiếng:
- Em góp mấy quyển ấy cũng được thôi. Quý ở tinh thần ấy chứ!
Tôi đứng trân, nghe những lời khen gượng gạo, y như đang chịu một hình phạt nặng nề. Chẳng thà cô mắng xối xả vào mặt còn dễ chịu hơn. Bọn con gái ở mấy bàn đầu quay lại nhìn tôi chằm chằm. Da mặt tôi có lẽ dày thêm ra trước những tia mắt xoi mói ấy.
Những việc xảy ra sau đó, tôi không đủ tỉnh táo để nhớ rành rọt từng chi tiết. Đại khái là vừa hết giờ, tôi đã chuồn vội ra trước. Tôi lần ra sau hè, đứng nép dưới một gốc xà cừ. Mãi đến lúc chung quanh thật im ắng, biết chắc chắn bọn thằng Chiến đi xa rồi, tôi mới lủi thủi ra về, ướt sũng vì một trận mưa rào đột ngột và dữ dội đầu mùa thu.
Trong buổi tập trung toàn trường cuối tuần, tôi lại bị ban chấp hành chi đoàn thanh niên lao động phê bình về cái tội “dọa đánh trực tuần”. Việc ấy trở thành một đầu đề hài hước để mấy thằng bạn tinh quái ở lớp 7A chế giễu tôi mấy ngày liền, sau đó cô giáo nhắc, chúng nó mới thôi. Trong cuộc họp cuối tuần của phân đội 4, tôi cũng bị kiểm điểm đến nơi đến chốn. Chúng nó góp ý cho tôi thế nào, tôi chẳng dại kể tỉ mỉ ra đây, ngượng lắm!

Nhưng chính hôm khánh thành tủ sách toàn liên đội, nỗi khổ tâm của tôi mới lên đến cực điểm. Cả liên đội góp được một ngàn năm trăm sáu mươi tám cuốn. Ngay cả trong giấc mơ, tôi cũng không dám ao ước một tủ sách khổng lồ như thế! Sách nằm đầy hai tủ kính, xếp riêng từng loại: nào sách kỹ thuật, nào sách văn nghệ, nào thơ, nào truyện, nào kịch... cố đọc cho hết các bản mục lục cũng mất trọn buổi! Ban chỉ huy liên đội thảo ra một bản nội quy tủ sách gồm 10 điều khoản đòi hỏi người đọc phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt, giữ cho sách khỏi mất mát, hư hỏng. Mỗi đội đựợc cử một đội viên lên tham gia quản lý tủ sách. Không rõ cô giáo có bàn bạc gì với ban chỉ huy đội Lý Tự Trọng hay không mà cái Loan lại đề nghị cử tôi. Nó bảo: “Bạn Việt quý sách lắm, nhất định sẽ biết cách sử dụng và bảo vệ tủ sách của liên đội ta”. Được làm cái chân quản lý tủ sách, đối với tôi, còn gì vui sướng hơn. Tôi nghĩ rằng mình có thể nhịn ăn suốt ngày ngồi đọc sách! Nhưng giữa lúc cái Loan nêu ý kiến ấy ra, tôi thoáng thấy có đứa cười nụ. Thế là tôi chối phắt. Ban chỉ huy đội phải hội ý lại và quyết định cử cái Quế.
Ngày tủ sách bắt đầu mở cửa thực là một ngày hội của toàn liên đội. Lũ bạn tôi tíu tít rủ nhau vào câu lạc bộ, mách nhau mượn những cuốn sách hay. Tôi cố hòa vào niềm vui chung, vẻ mặt của tôi vẫn sượng sùng, cử chỉ của tôi vẫn ngượng ngập. Tôi lượn qua lượn lại, thèm thuồng ngắm nghía những cuốn truyện cổ nước ngoài xếp sát vào nhau, phô ra những cái gáy dày dặn. Nhưng tôi cứ chần chừ, chưa dám mượn ngay.
Cái Quế đứng ngay bên tủ, thấy ai vào cũng “mời bạn đọc kỹ nội quy đã rồi hãy chọn sách, ghi phiếu!”. Nó giúp thằng Mạnh tìm bằng được cuốn sách ưng ý nhất, rồi sau đó bắt bẻ luôn: “Này, sách quý mà sao lại cuộn tròn thế hử? Rách tờ nào là phải dán đền đấy ông tướng ạ! Đọc lại nội quy rồi hãy về!”. Lúc cánh thằng Mạnh ra hết, cái Quế gọi tôi vào tận nơi, vừa cười vừa bảo:
- Mượn cuốn nào thì ghi phiếu đi! Lượn mãi!
- Ừ, tớ xem xem đã.
- Xem gì nữa! Thích quyển nào cứ mượn phứt! Ngượng làm quái gì!
- Ô hay! Bận gì đến tớ mà tớ ngượng...
- À, đấy là tớ nói thật. Có lỗi thì sửa lỗi, đội viên thiếu niên chúng mình...
Tôi vội nói lấp:
- Lần sau tớ mượn nhé. Ở nhà tớ còn một cuốn dày...
Rồi tôi hấp tấp đi ra, bụng nghĩ: “Con gái đâu mà mồm năm miệng mười! Quế ra quế, chạm phải là cay chảy nước mắt nước mũi!”.
Tôi từ câu lạc bộ ra về, trên tay chả có một cuốn sách nào, trong lòng day dứt. Buồn bực. Ân hận. Rồi tôi lẩn thẩn nghĩ rằng giá như việc góp sách làm lại từ đầu thì tôi sẽ chọn trong tủ sách của mình, mang ngay đến lớp ba cuốn sách thật hay, một cuốn mong mỏng, một cuốn hơi dày, còn cuốn thứ ba thì dày cộp. Thật đấy!