Phòng họp chỉ còn hai người. Tôn Thân đặt nhẹ chén nước trước cô Oanh, giáo viên dạy văn lớp 7 của anh:
– Bây giờ, tôi xin nghe chị.
– Vẫn em Hùng “thủ lĩnh”, anh ạ. – Giọng Oanh chưa hết bực. – Mà tiết này là tiết thao giảng, có toàn bộ tổ văn dự. Đầu giờ êm êm. Giữa tiết, nó bắt đầu “mở máy”: “Tiền sưu khác tiền thuế thế nào?”, “Đã có lý trưởng sao lại còn lý cựu?”. May mà tôi đã tìm đọc khá nhiều sách về cái thời ông Ngô Tất Tố viết Tắt đèn nên trả lời rành rọt câu thứ nhất – mất đứt 2 phút. Câu thứ hai, tôi bảo: “Em đọc trước bài sau là tốt, nhưng đừng thắc mắc vội”. Nó cụt hứng, ngồi xuống. Tưởng đã thoát, ai ngờ... Đến đoạn chị Dậu dứt ruột bán con, cái Tý bị mua với giá không bằng con chó... Lớp lặng đi, có em gái mắt đã hoe hoe. Nhìn mấy cô cùng tổ gật gù, tôi biết chỗ khó nhất của bài mình đã thành công. Đùng một cái, nó đứng phắt lên, phá tan cái “không khí văn học” vừa mới thấm vào đám học sinh bằng câu hỏi: “Thưa cô, đôi hoa tai vàng thằng Nghị Quế làm ‘văn tự man’ ấy, nặng ba đồng cân tức là bao nhiêu gam ạ?”. Trời ơi, không trả lời không được, vì tiết dạy đã đăng ký đề tài “phát huy trí lực học sinh”. Nhùng nhằng đổi lạng ta, lạng tây xong thì vừa kẻng! “Cháy” mất phần tổng kết...
Oanh ngồi thừ. Tôn Thân biết tính chị. Giận thì nói thế, chứ chị giảng văn rất sâu, mà lại tận tụy với học sinh chẳng kém ai. Anh nhỏ nhẹ:
– Thôi thì “con dại cái mang”, tôi thay mặt học trò nhận thiếu sót. Nhưng mà chị Oanh ạ, – Thân trở nên sôi nổi, – Hùng là một đứa trẻ thông minh của khóa 2 này đấy. Đưa Hùng ra khỏi lớp năng khiếu như chị đề nghị ban nãy, thì e làm thui chột một “mầm toán”. Ở khóa 1, cũng có một trường hợp để vuột mất một “năng khiếu” rất quý. Dạo đó chị chưa về. Tôi nhớ mãi cái phiên họp căng thẳng ấy...
Đấy là buổi họp xét kết quả đợt “Khảo sát học sinh năng khiếu toán”. Và sự gay cấn bắt đầu từ trường hợp Vũ Đình Hòa.
Lập luận của Phan Hải được nhiều người ủng hộ chắc như đinh đóng cột: “Xét về bài thi: trình bày cẩu thả, thiếu các bước cơ bản dù hướng độc đáo, kết quả đúng, theo ba- rem cũng chỉ điểm 4. Xét về người: nó chậm chạp, ở lớp cạy răng mới được một lời. Không thể có một tài năng lớn trong cái vỏ lù rù ấy. Này, anh Thân phát hiện ra ‘năng khiếu toán’ của cậu Hòa vào dịp nào đấy?”.
Trước câu hỏi pha ít nhiều mỉa mai, Thân vẫn nhẹ nhàng: “Ở đâu à? Ở... sân bóng”. Phòng họp ồ lên cười.
– Nhưng đúng thế. – Thân nhớ như in cái trận chung kết nảy lửa ấy, trong một pha phản công chớp nhoáng, cậu trung phong đội 7C tung chân làm một cú vô-lê tuyệt đẹp. Bóng xé gió bay vào... khung thành đội năng khiếu bỏ trống. Mọi người sửng sốt, nhìn quanh: thủ môn Vũ Đình Hòa đang lúi húi ngồi gạch gạch, xóa xóa trên nền cát sau cầu môn. Thì ra, vì chợt nghĩ được lời giải một bài toán đã “ám ảnh” mấy hôm, Hòa quên phắt trận đấu.
Tôn Thân bắt đầu chú ý đến cậu học sinh rất mê bóng đá nhưng toán thì lại còn mê hơn ấy. Đến hôm lớp làm một bài dựng hình bằng ê-ke. Tất cả chỉ sử dụng góc vuông của thước. Hòa lại đề xuất một lời giải rất đơn giản nhờ... dùng góc nhọn. Rồi một lần Thân vừa nêu cách giải một bài tập hóc búa, đám học sinh đang xuýt xoa thán phục thì Hòa bật dậy: “Thầy biện luận thế chưa đủ ạ!”, và anh đã vui vẻ mời em lên bảng trình bày. Hòa là thế: Nghĩ được cách hay, phải bạn thúc, thầy gọi mới đứng lên nhưng thấy bạn sai liền mạnh dạn góp ý ngay.
Lại còn lần thầy Thân phát hiện bài làm của Hòa có lúc sử dụng kiến thức, phương pháp lớp trên nên đến tận nhà để thẩm tra xem có ai “gà bài’’ không. Ông bố, bà mẹ – hai xã viên hợp tác xã tranh nhau kể:
– Từ ngày được học thầy cháu nó mê toán quá! Đi xếp hàng lãnh gạo cũng lẩm nhẩm bài toán...
– Nhà đông anh em, nhưng mấy đứa lớn đi bộ đội công nhân cả. Nó cạy cục mượn sách toán, đọc say hơn cả tiểu thuyết trinh thám.
Cứ thế Thân không nhớ mình đã kể chuyện gì về Hòa, xong anh rút hồ sơ tài liệu trong cặp ra để minh họa cho nhận xét: “Hòa còn nhiều nhược điểm nhưng có sự nhạy cảm khác thường về toán và đặc biệt không bao giờ chịu đi đường mòn. Nếu được tiếp tục rèn luyện sẽ trở thành một học sinh xuất sắc...”. Cuối cùng, mọi người phải đồng ý hủy bỏ cái dự kiến “Đưa Vũ Đình Hòa ra khối phổ thông thường”.
Kể đến đây, Thân nhấp một hớp nước.
– Chị ạ, sau đó mới thật sự là “cuộc vật lộn” giữa thầy và trò. Hòa có tư duy toán học nhanh lạ lùng nhưng cũng vì thế lắm khi vội vàng hay gặp khó khăn khi ghi lại cách làm, bèn làm tắt, bỏ bước. Nhiều lần Hòa trình bày xong lời giải, cả lớp la ó: “Sai rồi! Sai rồi!”. Chỉ có tôi hiểu, mà phải rất tỉnh táo mới bắt kịp những nét độc đáo vụt qua như tia chớp. Thầy phải giảng lại từng bước, thật chậm, cả lớp mới vỡ lẽ. Chị hỏi phải như thế nào mới rèn được cậu ta à? Thấy Hòa mê toán, tôi mời em đến chơi: “Cả tủ sách đầy ắp đây! Em chọn lấy vài cuốn. Chú ý học kiểu trình bày trong sách Hòa à”. Tôi còn bàn với giáo viên văn cùng thầy cô các bộ môn khác hỗ trợ bồi dưỡng năng lực diễn đạt cho em. Một lần, tôi nhờ: “Thầy bận quá, tuần này lại có buổi ngoại khóa ‘quỹ tích’, em giúp hội nhé”. Hòa giãy nảy. Nhưng khi biết được thầy vạch hộ đề cương, chỉ rõ các cuốn sách cần đọc, các bài tập cần làm thì cậu ta yên tâm. “Đầu xuôi đuôi lọt” thêm lần thứ hai, thứ ba... Hòa trở thành diễn giả chính trong các giờ toán học từ khi nào không hay.
Thắng một bước, tôi tiến lên “gõ” vào bài làm: tất cả sơ sót do “nghĩ tắt”, thiếu giải thích cụ thể tôi đều thẳng tay bớt điểm. Do bị trừ đầu trừ đuôi, có bài Hòa chỉ bằng điểm các học sinh yếu. Giờ trả bài, nhìn cậu ta mặt dài ra, nhiều lúc cũng thấy tội tội. Ở mỗi bài, tôi đều đính kèm lời giải mẫu, theo đúng kiểu “tư duy Vũ Đình Hòa”, đâu đến lần thứ 12, 13 thì em “đầu hàng”. Lần sau em sẽ hết sức cố gắng, thầy đừng phải mất công làm bài mẫu nữa... với “tầm cỡ Vũ Đình Hòa” tôi không bao giờ bằng lòng với cách giải thông thường, có tối tôi kéo em đến nhà: làm toán tay đôi. Mê mải thế nào, lúc thầy trò chui vào chăn thì xe điện chuyến sớm nhất Hàng Bông đã leng keng gõ chuông...
Công phu là thế mà đến kỳ thi học sinh giỏi toán lớp 7 toàn miền bắc, trong khi các bạn trong lớp đạt giải nhất, giải nhì thì Vũ Đình Hòa – niềm hy vọng của đội tuyển – lại tuột xuống nhà khuyến khích. Lại bao tiếng xì xầm “ông Thân không đánh giá đúng năng lực học sinh – phương trình vô nghiệm!”.
Tôi tìm hiểu thì biết bài thi hình em chỉ được điểm 5 do chép sai đề. Điều tra mới ngã ngửa người: Hòa đọc sách nhiều nên bị cận thị nặng. Trong năm, thầy phân công ngồi bàn cuối kèm các bạn nói chuyện riêng. Hòa chỉ nghe giảng mà nhớ được nên thầy hỏi đâu nói đấy – chẳng ai biết Hòa cận! Khi tôi hỏi sao không chịu đeo kính? Cậu ta đỏ mặt: “Em sợ... khác các bạn!”. Thế là thêm một mùa hè làm việc cật lực! Kỳ thi tuyển vào lớp chuyên toán trường đại học sư phạm Hà Nội với cặp kính đúng độ, Hòa đạt điểm tuyệt đối 20/20. Điểm số đó, cho đến bây giờ cũng chưa có học sinh nào đạt tới.
Phải nửa năm sau mùa hè 1974, cô giáo Oanh mới biết thêm thành tích mới của Vũ Đình Hòa: giải nhì cuộc thi vô địch toán quốc tế lần thứ 16! Nhưng ngần ấy chuyện do Tôn Thân kể hình như đã đủ sức thuyết phục. Giọng cô Oanh dịu hẳn: “Thôi được, về cái cậu Hùng biết đâu chả là một bông hồng có gai. Để tôi xem xem...”. Tôn Thân thở phào.
Xong sự cố về Hùng chưa hết. Chỉ hai hôm sau đã có người tìm Thân để mắng vốn. Là bác Mẫn, giáo viên bộ môn vật lý. Có điều lần này, thầy Tôn Thân vừa nhắc chuyện Hòa thì bác ấy đã gạt phắt: “Không có Vũ Đình Hòa thứ hai đâu! Chỉ có thủ lĩnh Hùng tôi không tài nào chịu nổi!”.