Colter Shaw bước qua cửa quán cà phê Quick Byte tại Mountain View.
Đây là nơi Sophie ngồi lúc 6 giờ chiều, hôm thứ Tư – ngay trước khi mất tích.
Hôm thứ Năm, Mulliner đã dừng chân ở đây để hỏi han về con gái. Ông không gặp may, nhưng đã thuyết phục được chủ quán dán tờ rơi thông báo MẤT TÍCH lên một tấm bảng, giờ nó được ghim bên cạnh đống danh thiếp của thợ sơn, giáo viên dạy guitar và yoga, cùng ba thông báo MẤT TÍCH khác – hai con chó và một con vẹt.
Shaw đang thăm dò nơi này và ngửi mùi thơm của mỡ nóng, hành phi, thịt lợn muối xông khói và bơ (BỮA SÁNG PHỤC VỤ CẢ NGÀY).
Quán Quick Byte, mở cửa từ năm 1968, dường như đang băn khoăn giữa loại hình quán bar, nhà hàng hay quán cà phê, thế nên nó tích hợp cả ba phương án.
Nơi này cũng có thể dùng làm phòng trưng bày máy tính, vì hầu hết khách của quán đều đang cắm mặt vào laptop.
Mặt tiền quán là tấm kính dày lấm tấm vệt nước, nhìn ra con phố thương mại nhộn nhịp của Thung lũng Silicon. Các bức tường ván ốp tối màu và sàn gỗ vân nhám. Ở phía sau, những chiếc ghế đẩu không có lưng tựa đặt trước quầy bar tối mờ mờ, lúc này chẳng có ai ngồi. Không ngạc nhiên lắm, vì căn cứ theo giờ giấc – 11 giờ rưỡi trưa – chưa kể các vị khách có vẻ như không phải loại thích rượu chè, từ họ tỏa ra cái mùi của dân mê công nghệ. Rất nhiều mũ len, áo len rộng thùng thình, dép bánh mì. Phần đông là dân da trắng, tiếp đến là Đông Á và Nam Á. Có hai khách da đen, một cặp đôi. Độ tuổi trung bình ở nơi này là 25.
Các bức tường treo đầy những bức ảnh màu và đen trắng chụp máy tính cùng các món đồ tạo tác có liên quan từ thuở bình minh của công nghệ: các ống chân không, các giá kim loại cao 1,8 mét treo dây điện và các linh kiện hình vuông màu xám, máy hiện sóng và các bàn phím cồng kềnh. Các tấm chú thích phía dưới ảnh chụp trình bày lịch sử của từng thiết bị. Một trong số này là Máy phân tích của Babbage – một máy tính chạy bằng hơi nước, có tuổi đời 150 năm.
Shaw đến gần khu có tấm biển đề GỌI MÓN Ở ĐÂY. Anh chọn món trứng rán ăn kèm salsa xanh và đậu chiên, thêm cà phê có kem. Bánh mỳ ngô thay vì bánh ngô tortilla. Chàng trai trẻ gầy nhẳng đứng sau quầy trao cho anh cà phê và một cái giá dây thép, với tấm thẻ đánh số 97 gắn vào kẹp hình xoắn ốc tròn phía trên.
Shaw chọn một bàn gần cửa trước để ngồi, nhấp ngụm cà phê và quét mắt khắp nơi này.
Căn bếp không bận rộn, phục vụ đồ ăn nhanh chóng. Cô bồi bàn trẻ trung xinh xắn, xăm mình và xỏ khuyên, bưng món ăn ra bàn. Shaw ăn rất nhanh, nhoáng cái đã hết nửa đĩa. Đúng là món ăn rất ngon và anh thì đói ngấu, nhưng món trứng chỉ là cái cớ để anh ngồi ở đây.
Anh bày hết ra bàn các bức ảnh của Sophie mà cha cô đã cung cấp. Anh chụp lại chúng bằng iPhone, sau đó tự gửi email cho mình. Anh đăng nhập vào máy tính, trải qua bước bảo mật, rồi mở thư điện tử và tải các bức ảnh lên màn hình. Anh bố trí laptop sao cho ai ai, khi bước vào hay rời khỏi quán cà phê, đều trông thấy màn hình đầy ảnh chụp của cô gái.
Với cốc cà phê trong tay, anh lang thang tới bức tường treo hình các nhân vật nổi tiếng của quán, và bắt đầu đọc như một du khách tò mò. Shaw chủ yếu dùng máy tính và Internet vào việc săn thưởng, nếu vào lúc khác, hẳn anh sẽ thấy lịch sử công nghệ cao cũng thú vị đấy. Nhưng giờ anh đang tập trung theo dõi máy tính của mình qua hình ảnh phản chiếu trên tủ kính trưng bày.
Vì Shaw không có tư cách pháp lý nào, sự hiện diện của anh ở đây phụ thuộc cả vào ân huệ của cơ sở này. Thi thoảng, nếu tình huống cho phép và tình hình khẩn cấp, anh sẽ hỏi dò khắp quán. Có khi thu được một, hai đầu mối. Thường xuyên hơn thì anh sẽ bị ngó lơ, hoặc hiếm hoi thì bị mời đi chỗ khác.
Thế nên anh thường làm cái việc mình đang làm hiện giờ: Thả mồi.
Chiếc máy tính, đầy các bức hình rực rỡ của Sophie, chính là mồi câu. Khi ai đó liếc nhìn vào chỗ ảnh, Shaw sẽ quan sát họ. Có ai đặc biệt chú ý vào màn hình không? Gương mặt họ có cho thấy họ nhận ra không? Họ có lo lắng? Tò mò? Hốt hoảng? Họ có nhìn xung quanh xem cái máy tính này là của ai không?
Anh để ý thấy vài ánh mắt tò mò liếc vào màn hình laptop nhưng không đủ để dấy lên nghi ngờ.
Nghiên cứu bức tường quá năm phút sẽ thu hút sự hiếu kỳ, nên anh câu giờ bằng cách rút điện thoại ra và giả vờ gọi điện. Hành động này kéo dài thêm bốn phút nữa. Đến đây, anh đã hết trò để giả bộ và đành trở lại chỗ ngồi. Có khoảng mười lăm người đã thấy các bức ảnh và đều phản ứng lãnh đạm.
Anh ngồi xuống bên bàn, nhấp ngụm cà phê, đọc tin nhắn và email trên điện thoại. Màn hình máy tính vẫn để mở cho tất cả mọi người nhìn thấy. Không con cá nào cắn câu. Anh quay lại quầy GỌI MÓN Ở ĐÂY. Người đứng quầy lúc này là một phụ nữ khoảng tầm 30, lớn hơn cô bồi bàn đã phục vụ anh độ chục tuổi, nhưng khung xương mặt thì giống nhau. Chị em gái, chắc vậy.
Chị ta đang ra lệnh cho nhân viên, nên Shaw nghĩ đây là quản lý hoặc chủ quán.
“Tôi giúp được gì cho anh? Món trứng ngon chứ?” Một giọng nữ trầm dễ chịu.
“Nó rất ngon. Tôi có câu hỏi: Cô gái trên bảng tin kia ấy?”
“À, phải. Cha cô ấy đã tới đây tìm. Buồn thật.”
“Đúng thế. Tôi đang giúp đỡ ông ấy tìm kiếm con gái.”
Lời tuyên bố hoàn toàn đúng với sự thật. Anh thận trọng không nhắc tới chuyện tiền thưởng, trừ phi chủ đề này được xới lên.
“Anh thật tử tế.”
“Các khách hàng có nói gì về cô gái không?”
“Họ không nói gì với tôi. Để tôi hỏi nhân viên ở đây. Có lẽ ai đó sẽ biết gì đó. Tôi sẽ gọi cho anh. Anh có danh thiếp không?”
Anh trao cho chị ta một tấm.
“Cảm ơn chị. Ông ấy đang rất nóng lòng tìm cô gái.”
Người phụ nữ nói, “Sophie. Tôi luôn thích cái tên đó. Nghe rất ‘sinh viên’ nhỉ. Tờ rơi cũng ghi như thế.”
Shaw đáp, “Cô gái đang học tại Concordia. Ngành kinh doanh. Làm lập trình bán thời gian ở công ty phần mềm GenSys. Theo người cha thì cô gái làm việc rất giỏi. Còn tôi chả biết gì về chương trình phần mềm, dù có dí sát mặt vào nó.”
Colter Shaw vốn trầm tính, thế nhưng khi làm việc thì anh lại cố tính nói dông dài. Anh phát hiện rằng chuyện phiếm khiến người khác thấy thoải mái.
Người phụ nữ nói thêm, “Tôi thích cách anh gọi cô gái.”
“Là sao?”
“Cô gái. Chứ không phải cô bé. Trông cô gái trẻ trung và ai cũng nghĩ nên gọi là cô bé.” Chị ta liếc mắt về phía cô bồi bàn, yểu điệu trong quần jeans nâu rộng thùng thình và áo cánh màu kem. Chị ta gật đầu ra hiệu cho cô gái lại gần.
“Đây là con gái tôi, Madge,” chị quản lý nói.
Ồ. Không phải em gái.
“Còn tôi tên Tiffany.” Bà mẹ đọc tấm danh thiếp. “Colter.” Chị chìa tay ra và họ bắt tay nhau.
“Đó là tên anh à?” Madge hỏi.
“Ghi ngay đây này.” Tiffany búng nhẹ vào danh thiếp. “Anh ấy đang giúp tìm kiếm cô gái mất tích đó.”
Madge nói, “Ồ, là cô bé trên tờ rơi đó sao?”
Tiffany liếc mắt hài hước về phía Shaw.
Cô bé…
Madge nói, “Tôi trông thấy ảnh chụp cô bé trên máy tính của anh. Tôi đang tự hỏi anh là cảnh sát hay gì?”
“Không. Tôi chỉ giúp đỡ cha cô ấy thôi. Chúng tôi nghĩ đây là nơi cuối cùng cô gái xuất hiện trước khi biến mất.”
Gương mặt cô con gái nhăn lại. “Lạy Chúa. Anh nghĩ đã xảy ra chuyện gì?”
“Chúng tôi vẫn chưa biết.”
“Tôi sẽ hỏi han bên trong,” Tiffany nói, bà mẹ với cái tên trẻ trung. Anh nhìn chị ta tháo tờ rơi trên bảng xuống rồi biến mất vào trong bếp, có lẽ để đưa tờ rơi này cho các đầu bếp và bồi bàn xem.
Chị ta quay ra, ghim lại tờ rơi lên bảng. “Chẳng được gì. Còn một ca làm nữa. Tôi chắc chắn sẽ đưa cho họ xem.” Nghe giọng chị ta có vẻ chắc chắn, Shaw nghĩ. Anh thật may mắn khi tìm thấy một bà mẹ gần gũi với con mình. Chị ta sẽ cảm thông hơn với vị phụ huynh đang có con mất tích.
Shaw cảm ơn. “Chị không phiền nếu tôi hỏi khách hàng xem họ có thấy cô gái hay không chứ?”
Người phụ nữ tỏ vẻ lưỡng lự. Shaw ngờ rằng chị ta không muốn anh quấy rầy khách của mình với tin tức khó chịu này.
Tuy nhiên, đó không phải là lý do cho cái nhăn mặt. Tiffany nói, “Thế anh không muốn xem qua máy quay an ninh trước sao?”