Giờ là lúc cần đến các chuyên gia.
Shaw gọi cho Frank Mulliner, kể cho ông những gì anh vừa tìm ra. Người đàn ông đáp lại tin tức này bằng tiếng thở hổn hển.
“Mấy thằng chó đấy!”
Ban đầu, Shaw không hiểu. Rồi anh nhận ra Mulliner đang ám chỉ cảnh sát.
“Nếu chúng nó bắt đầu ngay từ lúc nên làm thế… Tôi sẽ gọi cho chúng đây!”
Shaw đã lường trước thảm họa: một vị phụ huynh hùng hổ. Anh đã chứng kiến điều này trước kia.
“Cứ để tôi lo cho.”
“Nhưng mà…”
“Cứ để tôi lo cho.”
Mulliner im lặng một lúc. Shaw hình dung người đàn ông siết chặt di động bẳng những ngón tay trắng bệch, run rẩy.
“Được rồi,” cha Sophie nhượng bộ. “Tôi sẽ về thẳng nhà vậy.”
Shaw đã có được tên của các thám tử mà Mulliner nói chuyện lần đầu về vụ mất tích của Sophie. Wiley và Standish của Lực lượng Đặc nhiệm Trọng án Liên kết (LĐTL), trụ sở gần Santa Clara.
Sau khi ngắt cuộc gọi với Mulliner, Shaw gọi vào số chính của LĐTL để đề nghị gặp một trong hai người họ. Sĩ quan trực, nếu đó là chức danh của cô ấy, nghiêm giọng nói rằng cả hai người họ đã ra ngoài. Shaw nói đây là việc khẩn.
“Anh nên gọi 911 đi.”
“Đây là tình tiết mới trong vụ án mà thám tử Standish và Wiley đang tham gia.”
“Vụ nào?”
Tất nhiên, chẳng có vụ nào hết.
“Cô có thể cho tôi địa chỉ được không?” Shaw hỏi.
Sau mười phút, anh tiến thẳng tới trụ sở của LĐTL.
Không thiếu các cơ quan hành pháp tại California. Lớn lên ở vùng hoang dã phía Đông của bang, gia đình Shaw từng tiếp xúc với các nhân viên kiểm lâm – Khu phức hợp nằm giáp ranh với hàng chục nghìn mẫu rừng thuộc tiểu bang và liên bang. Gia đình anh không còn lạ lẫm gì các cơ quan như cảnh sát bang, Cục điều tra California và hiếm hoi hơn là FBI. Đó là còn chưa kể cảnh sát trưởng Roy Blanche.
LĐTL là một cái tên mới mẻ với Colter Shaw. Tra cứu nhanh trên mạng, anh thấy cơ quan này phụ trách điều tra các vụ án mạng, bắt cóc, tấn công tình dục và trộm cắp có gây ra thương tích. Trong cơ quan này có một nhóm nhỏ phụ trách phòng chống ma túy.
Anh đang tới gần trụ sở: một tòa nhà to lớn nhưng thấp, mang phong cách thập niên 50, tọa lạc trên con phố West Hedding, cách văn phòng cảnh sát trưởng Hạt Santa Clara không xa. Anh lái chiếc Chevy vào bãi rồi bước dọc theo vỉa hè uốn cong, viền quanh là các cây mọng nước và cây hoa đỏ, lắng nghe dòng xe qua lại không ngớt trên Xa lộ Nimitz. Tại bàn tiếp tân, anh bước đến ô cửa sổ, phía sau có một sĩ quan tóc vàng mặc cảnh phục đang ngồi.
“Thưa anh?”
Anh biết giọng nói này. Chính là người phụ nữ trẻ vừa nhận cuộc gọi lúc nãy của anh. Cô ấy điềm tĩnh và tẻ nhạt, gương mặt thiếu linh động.
Một lần nữa, anh đề nghị được gặp hoặc thám tử Wiley hoặc Standish.
“Thám tử Standish vẫn đang ra ngoài. Để tôi xem liệu thám tử Wiley có rảnh không.”
Shaw ngồi xuống chiếc ghế nhựa màu cam có khung nhôm. Phòng chờ trông chẳng khác gì phòng mạch, thiếu mỗi mấy tờ tạp chí nữa thôi… và thêm lớp kính chống đạn bảo vệ lễ tân.
Shaw mở cái túi đựng laptop, lấy ra cuốn sổ tay bọc bìa da rồi bắt đầu viết. Viết xong, anh bước đến sĩ quan trực. Người phụ nữ ngước mắt lên.
“Cô làm ơn sao chép một bản cái này cho tôi được không? Nội dung là về cuộc điều tra mà thám tử Wiley đang tiến hành đó.”
Hoặc, anh ta sẽ sớm tiến hành thôi.
Một thoáng ngần ngừ. Cô ấy nhận cuốn sổ, làm theo đề nghị của anh rồi trả lại anh cuốn sổ kèm các bản sao.
“Cảm ơn nhiều.”
Shaw vừa ngồi xuống thì cánh cửa liền bật mở. Một người đàn ông cao lớn, tuổi ngoài 40, bước ra khu phòng chờ.
Chàng sĩ quan mặc thường phục chính là một kim tự tháp lộn ngược: đôi bờ vai rộng và vòm ngực nở nang, thử thách độ bền của cúc áo sơ mi, thu lại xuống bờ hông hẹp. Chắc hẳn anh ta có chơi bóng bầu dục hồi còn đi học. Mái tóc muối tiêu dày được chải ngược về phía sau, làm lộ ra vầng trán sân bay. Tầm vóc đô con, cộng thêm cái mũi như mỏ đại bàng và quai hàm cứng rắn, anh ta có thể đảm nhận vai thám tử trong các bộ phim trinh thám. Không phải vai chính mà là vai anh phụ tá bám dính. Vũ khí của anh ta là một khẩu Glock nằm cao cao trên hông.
Đôi mắt anh ta, có màu nâu xám, nhìn khắp người Shaw từ trên xuống dưới. “Anh muốn gặp tôi à?”
“Thám tử Wiley phải không?”
“Vâng.”
“Colter Shaw.” Anh đứng dậy và chìa tay ra, ép đối phương bắt tay. “Anh đã nhận được cuộc gọi của Frank Mulliner nhờ tìm kiếm cô con gái Sophie. Cô gái biến mất vào hôm thứ Tư. Tôi đang giúp ông ấy tìm con gái. Tôi đã tìm thấy vài thứ khẳng định rõ ràng cô gái đã bị bắt cóc.”
Một khoảng lặng. “Giúp ông ấy tìm con gái. Anh là một người bạn của gia đình sao?”
“Mulliner có treo thưởng. Đó là lý do tôi ở đây.”
“Treo thưởng?”
Wiley sẽ là một rắc rối đây.
“Anh là thám tử tư?” Viên thám tử hỏi.
“Không phải.”
“Bên BEA?”
“Cũng không phải.” Đặc vụ săn thường buộc phải tuân theo nhiều nguyên tắc rất chặt chẽ. Một lý do để không đi theo con đường đó. Ngoài ra, Shaw không ham hố việc truy đuổi những kẻ trốn hầu tòa tại bãi đỗ xe Piggly Wiggly, còng tay rồi tha lôi những cơ thể đẫm mồ hôi của họ tới bàn tiếp nhận u ám của văn phòng cảnh sát trưởng.
Shaw nói tiếp, “Việc này gấp lắm, thám tử à.”
Lại dò xét. Wiley đợi một lúc rồi nói, “Anh có mang vũ khí không?”
“Không.”
“Vào văn phòng đi. Chúng tôi phải kiểm tra sơ bộ cái túi kia trước đã.”
Shaw mở túi. Wiley dùng ngón tay gạt gạt bên trong, xoay người rồi bước qua ngưỡng cửa an ninh. Shaw đi theo anh ta vào các hành lang chức năng, qua các văn phòng và bàn làm việc được ngăn ô, chật kín khoảng 15 người cả nam lẫn nữ – số nam hơi nhỉnh hơn số nữ. Các bộ cảnh phục – màu xám từ đầu đến chân – chiếm ưu thế. Cũng có người mặc âu phục, hoặc thường phục lôi thôi của cảnh sát ngầm.
Wiley dẫn anh vào một văn phòng lớn giản dị. Trang trí tối giản. Trên cánh cửa ra vào là hai tấm biển THÁM TỬ D. WILEY và THÁM TỬ L. STANDISH. Mấy cái bàn làm việc nằm trong góc phòng, đối mặt nhau.
Wiley ngồi xuống sau bàn của mình, cái ghế kêu kẽo kẹt dưới sức nặng của anh ta, và xem qua mấy tin nhắn trên điện thoại. Shaw ngồi đối diện anh ta, trên chiếc ghế kim loại màu xám mà mặt ghế không thiết kế để vừa với mông. Cực kỳ khó chịu. Anh cho rằng Wiley xếp các nghi phạm ngồi đây trong khi tiến hành thẩm vấn kiểu thô bạo.
Viên thám tử tinh quái tiếp tục ngó lơ Shaw để chăm chú xem tin nhắn. Anh ta quay người sang gõ gì đó trên máy tính.
Shaw ngày càng mệt mỏi với cái trò chọc tức này. Anh thò tay vào túi, lấy di động của Sophie, vẫn còn đang bọc trong giấy ăn Kleenex, rồi đặt nó lên bàn của Wiley. Nó phát ra một tiếng thịch như anh đã dự tính. Shaw mở khăn giấy làm lộ ra chiếc điện thoại.
Đôi mắt hẹp của Wiley càng nheo lại thêm.
“Đó là di động của Sophie. Tôi đã tìm thấy nó tại công viên San Miguel. Ở nơi cô gái đang đạp xe ngay trước khi biến mất.”
Wiley liếc nhìn chiếc điện thoại, rồi lại nhìn Shaw, người đã giải thích về đoạn phim tại quán cà phê Quick Byte, về khả năng kẻ bắt cóc theo đuôi cô gái vào công viên và vụ va chạm giữa ô tô với xe đạp.
“Một kẻ theo đuôi à?” Câu phản hồi duy nhất của anh ta.
“Có thể. Tôi giữ một bản sao của đoạn phim, anh có thể xem bản gốc tại quán Quick Byte.”
“Trước vụ treo thưởng này, anh có quen biết Mulliner hay con gái ông ấy không?”
“Không.”
Viên thám tử ngả lưng ra ghế. Gỗ và kim loại rít lên ken két.
“Chỉ là tôi thấy hiếu kỳ về mối liên quan của anh với tất cả chuyện này thôi. Anh tên Shaw, đúng không?” Anh ta gõ gõ trên máy tính.
“Thám tử, chúng ta có thể nói về kế sinh nhai của tôi sau. Nhưng ngay bây giờ, chúng ta cần bắt đầu tìm kiếm Sophie.”
Đôi mắt Wiley nhìn vào màn hình. Có lẽ anh ta đã tìm thấy vài bài báo đề cập đến việc Shaw giúp đỡ cảnh sát tìm kiếm kẻ đào tẩu hoặc định vị người mất tích. Hoặc nhiều khả năng hơn là đang kiểm tra lý lịch của anh, nhưng không tìm thấy bất kỳ lệnh bắt hoặc lời buộc tội nào. Tất nhiên, trừ phi những thế lực ở Đại học California biết rằng anh đứng đằng sau vụ ăn trộm 400 trang tài liệu ngày hôm qua từ các hội trường học thuật thiêng liêng của họ, và giờ anh đang là đối tượng bị truy nã.
Chẳng thấy cái còng tay nào thò ra. Wiley xoay người lại. “Có thể cô gái đánh rơi nó. Không muốn quay về nhà vì ông già đã trả 800 đô cho nó. Nên cô gái đến ở nhờ nhà một người bạn.”
“Tôi đã thấy những dấu hiệu vật lộn. Một tảng đá có thể dính máu.”
“Xét nghiệm ADN phải mất ít nhất 24 tiếng đấy.”
“Không cần xác định đó là máu của Sophie. Mà nó cho thấy cô gái bị tấn công và bắt cóc.”
“Anh từng ở trong ngành hành pháp à?”
“Không. Nhưng tôi đã hỗ trợ các vụ tìm người mất tích được mười năm rồi.”
“Vì lợi nhuận à?”
“Tôi kiếm sống bằng cách cứu mạng người khác.”
Hệt như anh thôi.
“Tiền thưởng là bao nhiêu?”
“10.000 đô la.”
“Trời. Quả này bẫm ghê nhỉ.”
Shaw lấy ra gói khăn giấy thứ hai. Gói này chứa một mảnh nhựa vỡ hình tam giác từ đèn phản quang màu đỏ, mà anh tin rằng nó rơi ra từ xe đạp của Sophie.
“Tôi nhặt cả hai thứ này lên bằng khăn tay, cái này và chiếc điện thoại kia. Cho dù tỷ lệ chúng dính dấu vân tay của kẻ săn mồi là rất thấp. Tôi nghĩ rằng sau khi ngã xuống đồi, cô gái đã cố gắng gọi giúp đỡ. Khi kẻ bắt cóc đuổi theo đằng sau, cô đã ném điện thoại đi.”
“Tại sao?” Đôi mắt Wiley vẫn dán vào tập tài liệu. Anh ta lấy ra một chiếc bút chì máy và ghi chép một chút.
“Cô gái hy vọng là khi một người bạn hay cha của mình gọi đến, ai đấy sẽ tìm thấy nó và lắp ráp lại các đầu mối rằng cô bị bắt cóc.” Anh nói tiếp, “Tôi đã đánh dấu nơi tìm ra nó. Tôi có thể giúp đơn vị khám nghiệm hiện trường của anh. Anh có biết công viên San Miguel không? Phía đường Tamyen ấy?”
“Tôi không biết.”
“Nó ở gần Vịnh. Một nơi khó tìm được nhiều nhân chứng nhưng tôi đã thấy vài cơ sở kinh doanh trên đường tới công viên. Có thể một trong số họ có lắp CCTV. Và có nửa tá máy quay giao thông trên đường từ quán Quick Byte tới San Miguel. Anh có thể đánh số để kết hợp lại.”
Wiley lại ghi chép tiếp. Về vụ này hay là danh mục thực phẩm cần mua?
Viên thám tử hỏi, “Khi nào thì anh nhận được tiền?”
Shaw đứng dậy cầm, điện thoại và mảnh nhựa lên, rồi bỏ lại chúng vào trong túi. Gương mặt Wiley hiện nét ngạc nhiên. “Này anh…”
Shaw nói giọng đều đều, “Bắt cóc cũng là một tội ác cấp liên bang. FBI có văn phòng địa phương ở đây, tại Palo Alto. Tôi sẽ mang mấy cái này tới chỗ họ.” Anh dợm bước ra cửa.
“Chờ đã, chờ đã nào, sếp ơi. Bình tĩnh nào. Anh phải hiểu chứ. Anh mà hô lên ‘Bắt cóc’ là cả đống chuyện xảy ra luôn đấy. Từ tiền bạc đến đám báo chí bu như ruồi ấy. Ngồi xuống chiếc ghế dài đằng kia đi.”
Shaw dừng chân, quay người lại rồi ngồi xuống. Anh mở túi đựng máy tính, lấy ra bản sao những ghi chép của mình, trong khi chờ Wiley. Anh trao các tờ giấy cho viên thám tử.
“Chữ viết tắt FM là Frank Mulliner. SM là Sophie. Còn CS là tôi.”
Điều này quá hiển nhiên, nhưng Shaw không tin vào độ sáng dạ của Wiley lắm.
▴ Người mất tích: Sophie Mulliner, 19 tuổi
▴ Địa điểm bị bắt cóc: công viên San Miguel, Mountain View, lề đường Tamyen
▴ Bối cảnh có thể xảy ra:
• Bỏ nhà đi bụi: 3% (không có khả năng vì chiếc điện thoại di động, mảnh vỡ đèn phản quang và dấu vết vật lộn; không người bạn thân nào – trong 8 người được FM hỏi thăm – nói rằng cô gái đã làm thế).
• Có người đâm xe rồi bỏ chạy: 5% (nếu thế, tài xế chiếc xe kia hẳn sẽ không mang xác cô gái đi).
• Tự vẫn: 1% (không có tiền sử các vấn đề tâm thần, chưa từng cố tự vẫn, không có thư tuyệt mệnh, không ăn khớp với hiện trường tại công viên San Miguel).
• Bị bắt cóc/sát hại: 80%.
▪ Bạn trai cũ Kyle Butler bắt cóc: 10% (thần kinh hơi thiếu ổn định, có thể có hành vi bạo hành, có tiền sử dùng ma túy, không chấp nhận chuyện chia tay; không trả lời các cuộc gọi của CS).
▪ Bị giết trong một nghi thức gia nhập băng nhóm: 5% (MT–44 và mấy băng nhóm La-tinh hoạt động trong vùng, nhưng các thành viên thường bỏ lại công khai thi thể như là bằng chứng về thành tích giết người).
▪ Vợ cũ của FM, mẹ của Sophie, bắt cóc: <1% (Sophie không còn là trẻ con nữa, vụ ly dị đã xảy ra 7 năm trước, việc kiểm tra lý lịch tư pháp cùng lý lịch khác của người mẹ cho thấy điều này là không có khả năng).
▪ Bắt cóc đòi tiền chuộc: 10% (không có yêu cầu đòi tiền chuộc, vốn thường diễn ra trong vòng 24 giờ sau khi bị bắt cóc; người cha không giàu có).
▪ Bắt cóc để ép FM tiết lộ thông tin nhạy cảm từ một trong hai công việc của ông ấy: 5% (một việc là quản lý cấp trung ở phòng kinh doanh linh kiện ô tô; việc kia là quản lý kho, không được tiếp cận thông tin hoặc sản phẩm nhạy cảm hay có giá trị). Đáng lẽ đến giờ hung thủ phải liên hệ rồi.
▪ Bắt cóc để ép Sophie tiết lộ thông tin về công việc bán thời gian, là nhân viên lập trình tại công ty phát triển phần mềm GenSys: 5% (công việc không liên quan tới thông tin tuyệt mật hoặc các bí mật kinh doanh).
▪ Bị giết vì chứng kiến một vụ buôn bán ma túy, giữa bạn trai Kyle Butler với kẻ buôn ma túy không muốn bị nhận diện: 20% (LƯU Ý: Butler cũng đang mất tích; nạn nhân có liên quan?).
▪ Bị bắt cóc/sát hại bởi một tên tội phạm phản xã hội, kẻ bắt cóc hoặc sát nhân hàng loạt; SM bị cưỡng bức và sát hại, hoặc bị giam cầm để tra tấn và lạm dụng tình dục, cuối cùng là bị giết hại: 60%–70%.
• Động cơ không rõ: 7%.
▴ Chi tiết liên quan:
• Các thẻ tín dụng của SM không được sử dụng đã 2 ngày; FM đứng tên trên các thẻ này và có quyền tiếp cận.
• Quán cà phê Quick Byte có đoạn phim về kẻ có thể là nghi phạm đang theo dõi cô gái. Quản lý quán đã lưu lại đoạn phim gốc và tải lên Cloud. Tiffany Monroe. CS có một bản sao.
• Theo luật bảo vệ quyền riêng tư, FM không thể tiếp cận nhật ký điện thoại của con gái.
• Kẻ săn mồi có thể đã cài máy theo dõi trên xe đạp để bám đuôi cô gái.
• Nhà của Mulliner đang rao bán, không có người mua triển vọng nào để xem ngôi nhà là địa điểm bắt cóc tiềm năng.
Gương mặt cạo râu nhẵn nhụi của viên thám tử nhăn lại.
“Anh lấy cái này từ chỗ quái nào vậy sếp?”
Biệt danh này khiến Shaw bực bội nhưng anh lờ đi; vụ việc đang có tiến triển. “Thông tin ấy hả?” Anh nhún vai. “Từ cha cô gái và vài nỗ lực thu thập thông tin của tôi.”
Wiley lẩm bẩm, “Các tỷ lệ phần trăm là gì thế?”
“Tôi xếp hạng các trường hợp theo thứ tự ưu tiên. Cho tôi biết nên bắt đầu từ đâu. Tôi nhìn vào cái có khả năng xảy ra cao nhất trước. Nếu không hiệu quả thì tôi sẽ xem cái tiếp theo.”
Anh ta đọc lại lần nữa.
“Tổng không tròn 100% à?”
“Luôn tồn tại yếu tố bất ngờ – một thứ tôi chưa từng nghĩ đến. Anh sẽ cử một đội tới đó chứ, thám tử?”
“Được rồi. Chúng tôi sẽ xem xét, sếp à.” Anh ta vuốt phẳng tờ bản sao phân tích của Shaw rồi lắc đầu một cách thích thú, “Tôi giữ cái này nhé?”
“Chúng là của anh đấy.”
Shaw đặt di động và miếng vỡ đèn phản quang xuống trước mặt Wiley.
Di động của anh đang rung lên báo tin nhắn. Anh liếc nhìn vào màn hình, để ý từ Quan trọng! Anh bỏ tọt nó ngay vào túi.
“Anh sẽ cập nhật tin tức cho tôi chứ, thám tử?”
“Ồ, chắc chắn rồi, sếp. Chắc chắn rồi.”