Colter Shaw đứng trên lối đi hẹp bên trong không gian sản xuất tối lờ mờ như hang động. Anh cúi đầu xuống, lắng nghe.
Những âm thanh vang vọng từ khắp mọi nơi. Tiếng bước chân? Tiếng nước chảy nhỏ giọt? Tiếng kết cấu lâu năm đang lún xuống? Và rồi tiếng các động cơ phản lực rầm rầm trên đầu. Nhà máy nằm dọc theo lối cuối cùng vào sân bay San Francisco. Tiếng rú đầy sức mạnh trong phút chốc khiến anh không nghe được âm thanh gì nữa.
Như tiếng ai đó đang bước tới sau lưng.
Shaw tìm thấy một cánh cửa không bị đóng vít Sheetrock. Anh mở nó ra rồi nhanh chóng bước vào trong, đóng cửa lại sau lưng. Anh trèo lên lối đi hẹp tầng ba để có thể nhìn được toàn cảnh không gian bên dưới.
Anh không thấy cả Sophie lẫn X đâu cả. Phải chăng kẻ bắt cóc vẫn ở đây? Hẳn là hắn đã đoán rằng Shaw sẽ gọi cứu trợ. Nhưng hắn cũng có thể mạo hiểm nán lại vài phút để tìm kiếm và giết chết Shaw, người có thể có thông tin buộc tội nào đó, như biển số xe của hắn. Sophie Mulliner tất nhiên cũng sẽ phải chết.
Anh leo các đợt cầu thang kim loại xuống tầng trệt, mê cung mà anh đã quan sát từ trên cao, một mạng lưới các văn phòng, trạm máy, khối bê tông và máy móc, có lẽ vẫn còn ở đây vì công nghệ đã biến các thiết bị này trở nên lỗi thời, thậm chí còn chẳng đáng phân mảnh.
TẬP ĐOÀN AGW - TẦNG TRỆT

1. K.B.
2. Bãi bốc dỡ hàng hóa
3. Phòng có Năm món đồ
4. Cửa mở
Tất cả trở nên hư ảo trong bóng tối ảm đạm. Shaw cũng thấy chóng mặt; anh dự đoán, nguyên nhân là do cái mùi hăng hăng của dầu diesel, dầu mỡ và hằng hà sa số ổ mốc lấp đầy không khí.
Anh nhận ra ô cửa sổ mà Sophie đã đập vỡ – bên cạnh một lối đi hẹp khác trên tầng bốn – nhưng ở đó chẳng có chỗ trốn nào hết. Cô gái đã chạy đi nấp vào đâu đó tại tầng chính. Shaw bắt đầu đi qua tầng đó, len lỏi qua các khối bê tông, thùng rác, máy móc và trạm máy. Anh đi qua dãy phòng – THIẾT KẾ ROTOR II, GIÁM SÁT THIẾT KẾ KỸ THUẬT, PHÒNG LIÊN LẠC CHIẾN TRANH. Shaw tạm dừng bên cạnh mỗi phòng, lắng nghe – tiếng thở, tiếng chân lạo xạo, tiếng vọng thay đổi khi một người chiếm dụng không gian trong phòng.
Không, chúng trống trơn.
Nhưng một văn phòng không giống các văn phòng khác. Cửa ra vào đóng kín và cũng bị đóng vít Sheetrock như các cửa bên ngoài. Shaw dừng lại. Trên bức tường gần đó là một bức vẽ thô vụng – một phiên bản của gương mặt đáng sợ trên tờ giấy tại quán cà phê Quick Byte. Điều này giải thích cho câu hỏi kẻ nào đã ghim nó lên.
Anh quay lại với văn phòng có cánh cửa bị đóng vít. Một cái lỗ nham nhở, khoảng 60x60 phân, đã bị đục xuyên qua tường, từ bên trong; các mảnh vữa và bụi rụng xuống mặt sàn bên ngoài. Shaw cúi xuống và để ý thấy các dấu chân nhỏ hiện trên lớp bột trắng – của Sophie chăng? Cô gái không đi giày hay tất, hoặc đi chân trần. Có vẻ như cô đã lấy giẻ bọc đôi bàn chân mình.
Anh lại lắng nghe, áp tai vào cái lỗ nham nhở, vừa đủ to cho một người chui qua.
Kẻ bắt cóc có thể đã giấu Sophie ở đây, và bằng cách nào đó mà cô bé xoay xở tự gỡ được băng dính – chắc chắn hắn đã dùng thứ này – rồi tìm thấy thứ gì đó để đục tường. Có thể cô đã cố gắng thoát ra khỏi tòa nhà nhưng không tìm thấy cánh cửa nào chưa bị đóng đinh vít.
Anh đang suy tính bước tiếp theo thì nghe thấy tiếng cạch nhẹ về bên phải, sau đó là âm thanh nghe giống tiếng càu nhàu nhỏ, như thể ai đó tức giận với chính mình vì đã để lộ bản thân. Nó xuất phát từ phía cuối một hành lang gần đó, giữa các bức tường kim loại dài đầy các ống nước và ống dẫn. Một tấm biển đề ĐỪNG PHÁ LUẬT: MŨ CỨNG HOẶC TIỀN PHẠT. CHỌN ĐI!
Cuối hành lang là những cái giá đựng các thùng phuy dầu có dung tích 200 lít và các đống gỗ xẻ.
Âm thanh càu nhàu một lần nữa vang lên.
Sophie hay là X?
Thế rồi, khi đôi mắt ngày càng nhạy hơn trong ánh sáng lờ mờ, anh có thể nhìn ra một cái bóng trên sàn nhà máy, phía cuối hành lang. Nó di chuyển khẽ khàng, là bóng của ai đấy đang đứng đúng chỗ khuất tầm nhìn, về bên trái tại điểm giao giữa các lối đi.
Shaw không thể từ bỏ lợi thế. Anh chậm rãi bước đến góc và bước vòng qua thật nhanh. Nếu cái bóng này là của X, anh phải túm chặt bàn tay cầm súng và hạ hắn. Anh biết một số cách quật ngã đối thủ xuống sàn khiến hắn không thể đứng dậy ngay được.
Anh di chuyển tới gần hơn. 6 mét. 3 mét. 1 mét.
Cái bóng khẽ dịch chuyển tới lui.
Thêm một bước nữa.
Và Shaw bước thẳng vào cái bẫy.
Một sợi dây giăng ngang dưới chân làm bẫy. Anh ngã xuống rất nhanh và mạnh, giơ hai tay lên vừa kịp lúc. Động tác hít đất đau đớn cứu cằm anh khỏi bị vỡ. Anh đứng dậy, cúi người xuống, thấy một chiếc áo thun dài tay đang treo trên cái móc. Buộc vào nó là một mảnh dây câu.
Thế tức là…
Anh còn chưa kịp đứng dậy hẳn, thì một thùng phuy dầu lăn xuống từ trên giá và rớt đánh rầm xuống vai anh. Cái thùng rỗng nhưng cú va chạm khiến anh ngã lộn nhào. Anh nghe thấy một giọng nói, của Sophie, thét lên, “Thằng khốn! Mày đã giết anh ấy!”
Cô gái trẻ tiến đến chỗ anh, mái tóc rối tung, đôi mắt mở to, chiếc áo thun bẩn thỉu. Thứ trong tay cô hình như là một con dao làm từ mảnh kính vỡ, với một mảnh vải quấn xung quanh cán cầm.
Shaw vận sức hất cái thùng sang bên – nó nảy ầm ầm trên sàn bê tông. Âm thanh ấy cộng với tiếng thét, không ít thì nhiều X sẽ biết họ đang ở đâu.
“Sophie!” Shaw thì thầm, đứng thẳng dậy. “Không sao đâu! Đừng nói gì hết.”
Lòng can đảm tan biến, cô gái quay lưng bỏ chạy.
“Chờ đã,” anh thì thầm gọi.
Cô biến mất vào căn phòng khác, đóng sầm cánh cửa kim loại sau lưng. Shaw bám theo, chỉ cách 9 mét. Anh bám sát lối cô đi để không dính bẫy nữa. Anh đưa tay lên đẩy cửa và thấy mình trong phòng nồi hơi hoặc luyện kim. Các nồi than xếp hàng trên tường, vài nồi vẫn đầy phân nửa. Bụi tro và bồ hóng ở khắp nơi.
Có ánh đèn ở phía cuối một hàng dài các lò đốt.
Shaw lần theo bước chân của cô gái, tiến về phía chùm sáng mát lạnh, với nguồn sáng được thả xuống từ độ cao 30 mét trên đầu anh; Shaw đứng ở bệ của ống khói cao. Không để tâm mấy tới môi trường, trong những ngày làm việc của nhà máy, các lò đốt hẳn đã phun khói ra khắp phía Nam khu Vịnh. Ở giữa bệ là một cái hố có bề ngang 4 mét, chứa đầy chất thải màu nâu xám, chắc là tro và bụi than xa xưa trộn với nước mưa.
Shaw đang tìm kiếm dấu chân của Sophie.
Chúng chỉ đơn giản là đã biến mất.
Rồi anh đã hiểu tại sao. Được gắn vào bên trong vách của ống khói là các thanh ngang hình chữ nhật, như các ghim dập cỡ lớn vậy, nhô ra khoảng 20 phân từ mặt tường gạch: một cái thang cho các công nhân gan dạ lên tới đỉnh để thay thế bóng đèn cảnh báo máy bay, anh đoán vậy.
Cô gái đã leo được 9 mét và vẫn tiếp tục lên cao. Ngã từ trên đó xuống, chắc chắn cô sẽ chết hoặc bị liệt.
“Sophie, anh là bạn của cha em. Anh đang tìm kiếm em.” Shaw nhìn thấy một chớp sáng, liền nhảy lùi lại khi cô ném xuống đầu anh thứ gì đó.
Đúng như anh đoán – con dao tự làm – sượt qua người anh chỉ một tí, vỡ vụn dưới chân anh. Anh liếc mắt về phía lối vào phòng lò đốt. Không thấy kẻ bắt cóc đâu. Chưa thấy.
Giọng cô gái run rẩy và cô đang khóc.
“Mày đã giết anh ấy! Tao đã trông thấy mày!”
“Anh đã ở đó. Nhưng phát súng là từ kẻ đã bắt cóc em.”
“Nói dối!”
“Chúng ta phải im lặng! Hắn vẫn có thể ở quanh đây.” Shaw đang nói bằng tiếng thì thầm khàn khàn. Anh nhớ ra cái biệt danh mà người cha gọi con. “Fee! Làm ơn đi.”
Cô gái dừng lại.
Shaw nói thêm, “Luka. Luka là con chó poodle của em. Lông trắng, cỡ tiêu chuẩn.”
“Làm sao mày biết…?” Giọng cô lạc đi.
“Hồi còn bé, em tự gọi mình là Fee. Cha em đã treo thưởng cho ai tìm thấy em. Đó là việc anh đang làm đây.”
“Ông ấy đã làm thế sao?”
“Anh đã tới nhà em. Alta Vista Drive. Luka ngồi bên cạnh anh trên cái sô pha bọc vải màu vàng kim. Lớp vải bọc xấu xí lắm rồi. Phía trước chiếc bàn cà phê bị gãy một chân.”
“Vòng cổ con Luka màu gì?”
“Màu xanh đính đá thạch anh trắng,” Shaw đáp, rồi nói thêm, “Hoặc có thể là kim cương.”
Gương mặt cô gái suy tư. Rồi nở nụ cười yếu ớt.
“Ông ấy đã treo thưởng à?”
“Xuống đây đi, Fee. Chúng ta phải trốn đi.”
Cô lưỡng lự một lúc.
Sophie bắt đầu trèo xuống. Shaw thấy chân cô đang run rẩy. Vì độ cao.
Thêm nhiều thanh ngang nữa. Khi còn cách sàn gạch 4 mét nữa, Sophie bỏ tay phải khỏi thanh ngang và quệt lòng bàn tay vào hông, lau mồ hôi.
Nhưng tay phải cô chưa kịp nắm lại thanh ngang, thì bàn tay trái bỗng trượt khỏi thanh đang nắm. Thét lên một tiếng, cô tuyệt vọng nhào tới cố nắm lại thanh ngang nhưng bị hụt. Cô ngã ngửa về phía sau, cắm đầu xuống đúng chỗ nền gạch nơi con dao lúc nãy vỡ tan thành những mảnh vụn sắc lẹm.