Một xe tuần tra cảnh sát của Lực lượng Đặc nhiệm màu xanh lá và trắng, trông như ngọn hải đăng đỗ phía trước nhà Mulliner. Viên cảnh sát mặc cảnh phục ngồi sau vô lăng còn trẻ và đeo kính râm phi công. Như nhiều sĩ quan khác Shaw đã để ý trong tổng cục, mái đầu anh ta cạo sát.
Viên cảnh sát rõ ràng đã nhận được thông báo Shaw sẽ đến sớm, cùng với miêu tả về anh. Liếc mắt về phía Shaw một cái, anh ta quay lại với điện đàm hoặc máy tính hoặc – sau khi Shaw lĩnh giáo về thế giới trò chơi điện tử ngày hôm qua – có thể là trò Candy Crush, mà theo lời của Maddie Poole thì nó được xem là một trò “nông cạn”, kiểu trò chơi chỉ để giết thời gian trên điện thoại.
Mulliner cho anh vào nhà, rồi họ bước vào bếp, nơi ông pha cà phê ầm ĩ. Nhưng Shaw từ chối.
Chỉ có hai người đàn ông. Sophie vẫn còn đang ngủ. Shaw thấy một cử động dưới chân mình. Nhìn xuống, anh trông thấy Luka, con chó cưng của Fee, lẻn vào trong, uống chút nước rồi nằm phịch xuống sàn. Hai người đàn ông ngồi xuống, Mulliner vòng hai tay quanh cốc cà phê rồi nói, “Có một vụ bắt cóc khác. Tôi không được phép nói cho bất kỳ ai.”
“Chi tiết thế nào?”
Nạn nhân thứ hai tên là Henry Thompson. Ông ấy cùng bạn đời sống ở phía Nam Mountain View, Sunnyvale, cách không xa đây lắm. Thompson, 52 tuổi, mất tích vào tối muộn đêm qua, sau khi xuất hiện tại trường Đại học Stanford, nơi ông ấy phát ngôn trong một hội thảo. Một hòn đá hay viên gạch đã bay tới làm vỡ kính chắn gió xe ông ấy. Khi dừng xe lại, ông ấy bị phục kích và bắt cóc.
“Thám tử Standish nói rằng không có nhân chứng nào cả.”
“Không phải Wiley à?”
“Không, chỉ có thám tử Standish thôi.”
“Có yêu cầu đòi tiền chuộc không?”
“Tôi không nghĩ vậy. Đó là một trong những lý do mà họ cho rằng đây cũng chính là kẻ đã bắt cóc Fee,” ông đáp, rồi nói tiếp, “Giờ bạn đời của Henry Thompson đã có tên và số điện thoại của tôi nên đã gọi. Ông ta nghe giống hệt như tôi khi Fee mất tích. Gần như phát điên… anh còn nhớ nhỉ. Ông ta đã nghe nói về sự giúp đỡ của anh và đề nghị tôi liên hệ với anh. Ông ta nói sẽ thuê anh đi tìm kiếm Thompson.”
“Tôi không nhận làm thuê. Nhưng tôi sẽ nói chuyện với ông ta.”
Mulliner viết tên và số điện thoại ra một tờ giấy ghi chú: Brian Byrd.
Shaw cúi xuống để gãi đầu con chó. Tất nhiên, dù con chó không hiểu được rằng Shaw đã cứu mạng cô chủ mình, nhưng nét mặt nó dường như thể hiện lòng biết ơn: cặp mắt rực sáng và nụ cười toét vẻ hiểu biết.
“Henry Thompson,” Shaw gõ cái tên này vào Google trên điện thoại của mình. “Người nào đây?” Có rất nhiều người trùng tên như thế tại Sunnyvale.
“Ông ấy là một blogger và nhà hoạt động cho phong trào LGBT1.”
Chú thích:
1 Cộng đồng những người đồng tính luyến ái nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), song tính luyến ái (Bisexual) và người chuyển giới (Transgender).
Shaw nhấn vào đúng người anh cần. Thompson có gương mặt tròn ưa nhìn, mỉm cười trong gần hết mọi bức ảnh mà Google có. Ông ấy viết hai trang blog: một là về ngành công nghiệp máy tính, hai là về quyền lợi của giới LGBT. Shaw gửi trang web của người này cho Mack, đề nghị tìm kiếm thông tin chi tiết về ông ấy.
Câu trả lời đúng kiểu Mack, “Ừ.”
Shaw nói với Mulliner, “Cho tôi gặp Fee được không?”
Ông bỏ đi một lúc, sau đó quay lại cùng cô con gái. Cô khoác chiếc áo choàng đỏ tía và đi đôi dép trong nhà bông xù màu hồng. Cánh tay phải bị bịt kín trong lớp bó bột màu xanh nhạt. Có mấy miếng băng trên mặt ngoài cánh tay bên kia.
Đôi mắt cô trống rỗng, có quầng đỏ.
Sophie khẽ ngả người vào cái ôm nhẹ của cha.
“Anh Shaw.”
“Em thấy sao rồi? Chỗ tay gãy ấy?”
Cô nhìn cánh tay vẻ vô cảm. “Ổn ạ. Bó bột nên thấy ngứa ngáy. Cái đó mới là tệ nhất.” Cô bước đến bên tủ lạnh để rót ra chút nước cam, rồi quay lại chỗ ghế đẩu và ngồi xuống. “Họ tống anh vào xe cảnh sát. Em có nói với họ là anh đã cứu em.”
“Đừng lo. Mọi chuyện giờ ổn rồi.”
“Anh nghe tin chưa? Về việc hắn lại bắt cóc một người nữa?”
“Anh nghe rồi. Anh sẽ lại giúp cảnh sát lần nữa.”
Một điều mà cảnh sát còn chưa biết.
Shaw nói với cô, “Anh biết có thể khó khăn, nhưng em kể anh nghe chuyện đã xảy ra được không?”
Cô nhấp ngụm nước cam, rồi uống một mạch hết nửa cốc. Shaw đoán cô đang phải dùng thuốc giảm đau nên miệng khô khốc. “Được ạ.”
Shaw có mang theo một cuốn sổ tay, liền mở nó ra.
Sophie nhìn cây bút máy, một lần nữa không có biểu cảm gì.
“Hôm thứ Tư. Em đi về nhà.”
Bằng những lời ngập ngừng, Sophie giải thích rằng mình đã giận dữ.
“Về vài chuyện.”
Miệng Frank Mulliner mím chặt nhưng ông không nói gì.
Cô đạp xe tới quán Quick Byte để uống cà phê latte và ăn một chút – không nhớ nổi mình đã ăn gì – rồi gọi cho vài người bạn để kiểm tra lịch tập môn bóng vợt. Sau đó tới công viên San Miguel.
“Cứ hễ khi nào tức giận hoặc buồn bã, về chuyện gì đó, em đều tới đó để đạp xe. Để xõa tung cơn cuồng nộ. Anh hiểu ‘cuồng nộ’ theo ý em là gì không?”
Shaw hiểu.
Giọng cô nghẹn lại. “Giống như Kyle từng làm với tấm ván của anh ấy. Ở Vịnh Bán Nguyệt và Maverick.” Hàm răng nghiến chặt, cô đưa tay lên lau nước mắt.
“Em cho xe vào lề đường Tamyen để thắt chặt lại dây mũ bảo hiểm. Thế rồi cái xe này đâm sầm vào em.”
Cảnh sát hẳn cũng đã hỏi như anh, “Em có thấy nó không?” Shaw nghĩ đó là chiếc Nissan xám, cho dù anh không bao giờ dẫn dắt nhân chứng.
“Không ạ, như kiểu bùm một cái, thằng khốn ấy đâm vào em.”
Cô nằm choáng váng dưới chân đồi và nghe thấy tiếng bước chân lại gần. “Em biết đó không phải là tai nạn,” cô nói. “Lề đường thực sự rộng lắm – chẳng có lý do gì đụng trúng em, trừ phi hắn muốn thế. Và em nghe thấy tiếng bánh xe quay tròn trước khi đâm, thế nên hắn, như kiểu, đang nhắm mục tiêu ý. Em tính lấy điện thoại ra gọi 911 nhưng đã quá muộn. Em chỉ kịp ném nó đi, để họ có thể lần theo dấu và tìm thấy em. Sau đó em cố gắng ngồi dậy nhưng hắn xô em ngã. Rồi đá hoặc đánh vào lưng em, chỗ dưới thận ấy – thế nên em như bị tê liệt. Không thể ngồi dậy hoặc lăn tròn.”
“Ném điện thoại đi, thông minh đấy. Đó là cách anh tìm ra được chuyện gì đã xảy đến với em.”
Cô gật đầu. “Rồi em thấy nhói ở cổ, một mũi tiêm dưới da. Em ngất đi.”
“Bác sĩ hay cảnh sát có nói là loại thuốc gì không?”
“Em có hỏi. Họ chỉ nói là thuốc giảm đau theo đơn, hòa tan trong nước.”
“Còn gì nữa về vẻ ngoài của hắn không?”
“Em đã nói với anh chưa? Em có nói với ai đó rồi. Mặt nạ trượt tuyết xám, kính râm.”
Anh cho cô gái xem ảnh chụp màn hình từ đoạn phim an ninh tại quán Quick Byte.
“Thám tử Standish có đưa cho em xem. Không, em chưa từng thấy bất kỳ ai như thế.” Cô đứng dậy, tìm một cái đũa trong ngăn kéo rồi thọc nó vào dưới lớp bột, chọc ra chọc vào.
“Nếu em phải đoán, thì đó là đàn ông hay phụ nữ?”
“Cứ cho là đàn ông đi. Không cao. Có thể là phụ nữ nhưng nếu vậy thì phải mạnh khỏe, đủ để vác hoặc kéo lê em tới xe. Còn việc đá vào lưng em khi em đang ngã? Anh sẽ không nghĩ một người phụ nữ có thể làm thế với một phụ nữ khác.” Cô nhún vai. “Em đoán là bọn em cũng có thể xấu xa như cánh đàn ông con trai.”
“Hắn có nói gì không?”
“Không ạ. Tiếp theo, em đã thức dậy trong căn phòng đó.”
“Tả căn phòng đi.”
“Có chút ánh sáng nhưng em không thể nhìn được nhiều.” Đôi mắt cô lúc này rực sáng. “Chỉ là điều này cực kỳ lạ lùng. Em nghĩ, trong các bộ phim, khi ai đấy bị bắt cóc thì sẽ có một cái giường, một tấm chăn và một cái xô để đi tiểu vào đấy, hay cái gì đó tương tự. Ở đó có một chai nước. Nhưng không có đồ ăn. Chỉ có một chai thủy tinh to trống không, một mảnh vải, một cuộn dây câu và mấy que diêm. Căn phòng thực sự rất cũ nát. Ẩm mốc và mọi thứ. Cái chai, mảnh vải – mấy thứ này thì mới.”
Shaw lại nói rằng cô đã thông minh như thế nào, đập vỡ chai, lấy mảnh vỡ chế thành con dao thủy tinh rồi cắt xuyên qua tấm thạch cao Sheetrock.
“Em bắt đầu tìm kiếm lối ra. Các ô cửa sổ duy nhất không bị đóng ván nằm ở tầng trên cùng. Em không thể phá một ô cửa rồi trèo ra ngoài được. Nên em tìm cửa ra vào. Chúng đều bị khóa hoặc bị ghim chặt.”
Thực ra là bị bắt đinh vít, Shaw nhớ lại. Mới đây thôi. Anh kể cho hai cha con nghe rằng anh cũng đã đi tìm và chỉ thấy một cánh cửa mở – phía mặt tiền.
“Chưa đi xa được tới đó.” Cô nuốt khan. “Em nghe thấy tiếng súng và… Kyle…” Cô lặng lẽ khóc nức nở. Cha cô tới gần và quàng tay quanh người con, để cô tựa người vào ngực ông khóc một lúc.
Shaw giải thích với ông rằng Sophie đã tạo một cái bẫy bằng dây câu, và cô biết dùng một sợi dây câu khác treo cái áo ngoài và khiến nó di chuyển tới lui tạo thành cái bóng trên sàn. Để nhử kẻ bắt cóc tới gần hơn. Rồi đánh úp hắn bằng cái thùng phuy dầu.
Mulliner tròn mắt. “Thật sao?”
Cô nói bằng giọng mềm mại, “Em đã định giết chết anh… Thực ra là giết hắn. Đâm hắn. Nhưng rồi em hốt hoảng và bỏ chạy. Em xin lỗi nếu làm anh bị thương nhé.”
“Nhẽ ra anh phải đoán ra được,” Shaw nói. “Anh biết em là một chiến binh mà.”
Cô gái mỉm cười khi nghe câu này.
Shaw hỏi, “Hắn có chạm vào người em không?”
Cha cô cựa quậy, nhưng đây là câu hỏi cần phải được hỏi.
“Em không nghĩ vậy. Hắn chỉ cởi giày và tất của em. Chiếc áo gió vẫn còn chưa bị mở khóa kéo. Chữ viết tay của anh nhỏ quá. Sao anh không đánh lên máy tính hay máy tính bảng ấy? Cho nhanh hơn.”
Shaw trả lời cô gái trẻ. “Khi em viết tay, thật chậm rãi, ngôn từ sẽ thuộc về em. Em đánh máy, chúng sẽ ít thuộc về em hơn. Em đọc chúng, càng ít hơn nữa. Và khi em chỉ nghe thôi, chúng không hề thuộc về em chút nào.”
Ý tưởng này có vẻ khiến cô bối rối.
“Gần đây có ai trong quán Quick Byte cố gắng tiếp cận em không?”
“Mấy chàng tán tỉnh, anh biết đấy. Hỏi ‘Ôi, em đang đọc gì đấy?’ Hoặc ‘Món tamale thế nào?’ Việc mà mấy ông con trai hay làm ấy. Chẳng ai có vẻ lạ lùng cả.”
“Cái này là ở quán Quick Byte.” Điện thoại của Shaw hiện lên bức ảnh tờ giấy đã được ghim lên, thay thế cho tờ rơi thông báo người mất tích của Sophie. Hình ảnh gương mặt đáng sợ, cái mũ, cái cà vạt. “Còn một phiên bản nữa ở trên bức tường, bên ngoài căn phòng nơi em bị giam giữ.”
“Em không nhớ. Nơi ấy tối lắm. Đáng sợ nữa.”
“Hình ảnh này có ý nghĩa nào với cả hai người không?”
Cả hai cha con đều trả lời là không.
Mulliner hỏi, “Thực ra nó là cái gì thế?”
“Tôi không biết.” Anh đã tìm kiếm các hình ảnh gương mặt đàn ông đội mũ và đeo cà vạt. Chẳng có cái nào tương tự như thế xuất hiện.
“Thám tử Standish không hỏi em về thứ này à?”
“Không ạ,” Sophie đáp. “Bằng không, em hẳn đã nhớ.”
Tiếng nhạc chuông vang lên từ bên trong túi áo choàng của cô. Đó là nhạc chuông mặc định. Cô không có thời gian thay đổi nhạc chuông trên điện thoại mới. Chiếc điện thoại cũ nằm trong ngăn Bằng chứng và có thể đã chết hẳn rồi. Cô nhìn vào màn hình rồi trả lời.
“Mẹ à?”
Cô liếc nhìn về phía Shaw. Anh nói, “Thế là đủ với anh rồi, Fee.”
Sophie ôm chầm lấy anh rồi thì thầm, “Cảm ơn anh, cảm ơn anh…” Cô gái trẻ khẽ run rẩy, rồi hít một hơi thật sâu, bỏ đi nghe điện thoại. “Mẹ à.” Cô cầm cốc nước cam bằng tay kia rồi quay về phòng mình, Luka đi theo sau. “Con ổn mà, thật đấy… Anh ấy thật là tuyệt…”
Khóa miệng Mulliner giật giật. Ông liếc nhìn ngón tay đeo nhẫn trống trơn của Shaw.
“Cậu kết hôn rồi à?”
“Không. Chưa bao giờ.” Hiếm hoi, khi cuộc đối thoại chuyển sang chủ đề ấy, hình ảnh gương mặt dài và đẹp như nữ thần Hy Lạp của Margot Keller lại xuất hiện, viền quanh là những lợn tóc vàng sẫm mềm mại.
Trong chuỗi hình ảnh đặc biệt này, cô đang ngước mắt lên từ tấm bản đồ một khu khai quật khảo cổ. Tấm bản đồ do chính Shaw vẽ nên.
Thế rồi Mulliner trao cho anh một phong bì.
“Đây.”
Shaw không nhận lấy nó.
“Thi thoảng tôi có cho trả góp. Không tính lãi.”
“À…” Mulliner nhìn xuống phong bì. Mặt ông đỏ lựng.
Shaw nói, “1.000 đô la mỗi tháng, trong vòng mười tháng. Ông xoay được không?”
“Tôi sẽ xoay được. Bằng bất cứ giá nào, tôi sẽ xoay được.”
Shaw nhận thanh toán kiểu này tương đối thường xuyên, khiến bà quản lý Velma Bruin phân tâm. Bà có khá nhiều phiên bản của câu “Cậu làm việc của mình, Colt à. Cậu xứng đáng nhận tiền khi đã xong việc”.
Velma nói đúng, nhưng chẳng có gì sai cả nếu ta linh hoạt một tí. Điều ấy đặc biệt đúng với nhiệm vụ này. Anh đã học được về những căng thẳng tài chính ở Thung lũng Silicon.
Miền đất hứa, nơi không biết bao nhiêu người tranh đấu.