CHỦ NHẬT, NGÀY 9 THÁNG 6
“Chúng tôi gọi đó là một tai nạn. Chẳng còn điều gì hợp lý hơn.”
Colter Shaw tỉnh ngủ, đang nằm trên cái giường bừa bộn của Maddie Poole, đôi mắt anh nhìn cái quạt trần thiết kế theo kiểu lá cọ, một cánh bị võng xuống, và cho dù căn phòng nóng nực nhưng anh không nghĩ bật thiết bị này lên là ý hay.
Tai nạn…
Maddie không nằm trên giường cũng như không ở trong phòng khách, chém giết hoặc đả thương mấy con quái ngoài hành tinh. Căn nhà rộng lớn kêu cót két, những âm thanh xuất phát từ kết cấu hạ tầng, không phải do người cư trú gây ra.
Rõ ràng người phụ nữ này đã xem cái phần “không bao giờ có hậu” ấy là nghiêm túc.
Đồng hồ chỉ gần 4 giờ sáng.
Giấc ngủ là một ảo ảnh. Anh tự hỏi có phải mình gặp ác mộng không. Có thể. Có khả năng. Bởi vì anh không ngừng nghe thấy giọng nói của Roy Blanche, cảnh sát trưởng thành phố White Sulfur Springs.
“Chúng tôi gọi đó là một tai nạn. Chẳng còn điều gì hợp lý hơn.”
Đây cũng là ý kiến của điều tra viên từ hạt, liên quan tới cái chết của Ashton Shaw. Ông bị mất thăng bằng và lăn xuống sườn phía Đông của Rặng Echo, rơi từ độ cao hơn 30 mét xuống lòng con lạch khô nơi Colter tìm ra ông, vào buổi sáng trời đỏ hồng ấy, ngày 5 tháng Mười, 15 năm trước. Cậu thiếu niên đã đu dây trượt xuống nhanh hết sức, với hy vọng còn có thể cứu được cha. Vào lúc ấy, cậu chưa biết rằng, một người rơi xuống từ độ cao như thế sẽ đạt vận tốc khoảng 100 kilômét/giờ. Bất kỳ cú rơi nào trên 70 hoặc 80 kilômét/giờ đều là chí mạng.
Cái chết đã xảy ra khoảng sáu tiếng trước – lúc 1 giờ sáng.
Cảnh sát trưởng Blanche tìm thấy một thảm lá ướt mà có thể đã trơn bóng vì sương sớm. Dẫm một chân lên thảm lá này, cùng với độ dốc này, Ashton hẳn đã bị trượt chân.
Tia sáng lấp lánh mà Colter đã nhìn thấy là mặt trời đang chiếu gay gắt xuống hộp khóa nòng mạ crôm của khẩu súng săn Benelli Pacific Flyway. Nó đang nằm trên mặt đất, cách mép núi 3 mét, nơi nó đã văng ra sau khi Ashton cuống cuồng bám chặt vào các cành cây gần đó để chặn đứng cú ngã.
Một khả năng khác trong tâm trí mọi người nhưng không ai dám nói ra: tự sát.
Cho dù với Colter, cả hai giả thiết đều có lỗ hổng. Tai nạn ư? 20%. Tự sát ư? 1%.
Ashton là người theo chủ nghĩa sinh tồn ưa thích những hoạt động ngoài trời, và các điều kiện như thảm lá trơn trượt chỉ là một biến số nữa để ông thêm vào phương trình tính toán trên bước hành trình, như thể đo đạc độ tin cậy của lớp băng trên mặt hồ, hay độ mới của dấu vuốt một con gấu và kích cỡ của sinh vật ấy.
Về giả thiết tự sát, bản năng cốt lõi của Ashton Shaw là sinh tồn, và Colter không thể hình dung ra nổi bất kỳ vũ trụ nào mà ở đó cha cậu lại chấm dứt mạng sống của ông. Các vấn đề tâm thần ư? Chắc rồi. Thế nhưng dù có điên cỡ nào, thì căn cơ bệnh của cha cậu là chứng đa nghi tới mức hoang tưởng – nghĩa là, tất nhiên, ông có xu hướng tự bảo vệ mình khỏi những mối đe dọa. Ông còn mang theo khẩu súng săn sử dụng loại đạn 12 gauge. Nếu muốn chấm dứt cuộc đời, thế thì tại sao không dùng món vũ khí mà ông yêu nhất, như Hemingway ấy? Tại sao phải đâm đầu xuống dưới và hy vọng cú rơi sẽ kết liễu mình? Colter đã thảo luận chuyện này với mẹ. Bà cũng chắc chắn như con trai mình rằng cái chết này không phải là tự sát.
Vậy, một vụ tai nạn.
Với cả thế giới là thế.
Nhưng với Colter Shaw thì không, cậu tin tưởng – khoảng 80% – rằng cha cậu đã bị sát hại. Hung thủ chính là Nhân vật thứ hai, kẻ đã bám theo Ashton từ khu nhà trước khi bị truy đuổi ngược lại – sau cú lừa thông minh bằng ca nô của Ashton tại Hồ Trăng Non. Hai người đã đụng độ trên đỉnh Rặng Echo. Đã có ẩu đả. Kẻ sát nhân đã xô Ashton xuống vách đá dẫn đến cái chết của ông.
Thế nhưng Colter không nói gì với cảnh sát, hay với bất kỳ ai, kể cả với mẹ.
Lý do ư? Đơn giản thôi. Vì cậu tin rằng Nhân vật thứ hai này là người anh trai Russell.
Ashton hẳn là đã bám theo cái bóng đen dọc khu đất lổn nhổn đá trên đỉnh núi, hình ảnh cái đầu ruồi của vũ khí gã mang theo trên lưng. Ông hẳn rất muốn biết gã là ai. Russell hẳn đã quay người lại và khiến Ashton Shaw sốc khi trông thấy đứa con trai cả. Quá sửng sốt, ông hẳn đã hạ súng xuống.
Đó hẳn là khi Russell chụp lấy súng, quẳng nó đi rồi xô cha mình xuống vách đá.
Không thể tưởng tượng nổi. Tại sao một người con trai lại làm thế?
Colter Shaw có câu trả lời.
Khoảng một tháng trước khi cha cậu mất, Mary Dove vắng nhà; em gái bà bị ốm, bà phải tới Seattle giúp cậu em rể và mấy đứa cháu trai cháu gái trong khi Emilia nằm viện. Nhận thức rất rõ những rắc rối của ông chồng, bà đã đề nghị Russell lái xe tới Khu phức hợp từ L.A., nơi anh ấy đang vừa theo học sau đại học ở UCLA vừa làm việc, để trông chừng lũ em trong khi bà đi vắng. Lúc đó Colter 16 tuổi, Dorion lên 13.
Anh trai của Colter, khi ấy 22 tuổi, hãnh diện với bộ râu đã mọc đủ rậm và mái tóc đen nuôi dài – trông hệt như nhà thám hiểm mà anh ấy được đặt tên theo – nhưng lại ăn mặc bảnh bao theo lối thành thị: quần dài, áo sơ mi và áo khoác thể thao. Khi đến nơi, anh ấy cùng Colter vụng về ôm chầm lấy nhau. Trầm tính như mọi khi, Russell đánh trống lảng trước những câu hỏi về cuộc sống cá nhân.
Một buổi tối, Ashton nhìn ra ngoài cửa sổ rồi nói với cô con gái, “Đêm lễ tốt nghiệp, Dorion. Thung lũng Crow. Mặc đồ vào đi.”
Con bé cứng người lại.
Colter nghĩ: Cô bé không còn là “Cúc áo nhỏ xinh” nữa. Trong tâm trí Ashton, con gái ông giờ là một người trưởng thành rồi.
“Ash, con đã quyết định rồi. Con không muốn đi,” Dorion đáp trả bằng giọng đều đều.
“Con làm được mà,” Ashton bình tĩnh nói.
“Không,” Russell xen vào.
“Suỵt,” cha của họ thì thầm, xua tay bảo con trai mình im lặng. “Ghi nhớ lấy lời ta. Khi chúng tới, sẽ chẳng ích lợi gì khi nói rằng ‘Con không muốn’ cả. Con sẽ phải bơi, con sẽ phải chạy, con sẽ phải chiến đấu. Con sẽ phải leo trèo.”
Lễ tốt nghiệp là một nghi lễ trưởng thành mà Ashton đã quy định: một cuộc leo núi, vào ban đêm, trèo lên mặt núi đá dốc đứng, cao 150 foot so với Thung lũng Crow.
Ashton nói, “Các anh trai của con đều làm được rồi.”
Đó không phải là vấn đề. Khi họ mới 13 tuổi, Colter và Russell đã muốn leo trèo. Nhưng em gái họ thì không.
Colter cũng hiểu rằng Ashton chỉ đề xuất điều này khi Mary Dove vắng nhà. Bà ủng hộ chồng mình, che chở cho ông. Nhưng ngoài việc làm vợ, bà còn là bác sĩ tâm thần cho chồng nữa. Nghĩa là có những chuyện ông không thể tiến hành nếu có mặt bà.
“Tối nay trăng tròn kìa. Không có gió, không có băng tuyết. Con bé cứng rắn hệt như mấy đứa vậy.” Ông bắt đầu kéo Dorion đứng dậy. “Lấy dây thừng và đồ nghề đi. Thay đồ vào.”
Russell đứng lên, gỡ tay cha khỏi cánh tay em gái rồi thấp giọng nói, “Không.”
Chuyện xảy ra tiếp theo tự nó in hằn trong trí nhớ Colter.
Cha của họ đẩy Russell sang một bên, rồi lại túm chặt lấy cánh tay Dorion. Đã học đến nơi đến chốn, nên nhanh như chớp, cậu con trai cả đánh mạnh lòng bàn tay vào ngực cha. Người đàn ông loạng choạng lùi về phía sau, choáng váng. Rồi ông vươn tay về phía con dao chạm khắc trên bàn.
Tất cả mọi người như hóa đá. Một khắc sau, Ashton bỏ bàn tay khỏi con dao. Ông lầm bầm, “Được rồi. Không leo trèo. Bây giờ thôi. Bây giờ thôi.” Rồi bước về phía phòng làm việc, lên lớp cho đám khán thính giả vô hình. Ông đóng chặt cửa lại sau lưng mình.
Theo sau đó là sự câm lặng bỏng rát.
“Ông ấy lạ quá.” Dorion nhìn về phía phòng làm việc. Đôi mắt con bé bình thản như đôi bàn tay nó. Biến cố ảnh hưởng đến nó có vẻ nhẹ hơn nhiều so với hai ông anh.
Russell lầm bầm, “Ông ấy đã dạy cho chúng ta cách sinh tồn. Giờ chúng ta phải sống sót khỏi ông ấy.”
Đúng hai tuần sau đó, Mary Dove đánh thức đứa con thứ dậy trước bình minh.
Colter. Ash mất tích rồi. Mẹ cần con…
Phải, Colter nghi ngờ Russell đã giết chết cha họ. Đó là suy đoán căn cứ theo hoàn cảnh duy nhất. Giả thiết lại càng gần với giả thuyết hơn, nếu không muốn nói là chắc chắn, tại đám tang của cha họ.
Mary Dove đã thu xếp một buổi lễ khiêm nhường ba ngày sau khi chồng mất, có sự tham dự của gia đình thân thiết và những đồng nghiệp từ hồi trước khi hai vợ chồng còn giảng dạy tại Berkeley.
Russell đã bay về L.A. sau khi mẹ họ quay về từ bệnh viện, nơi em gái bà đang nằm điều trị. Rồi anh ấy trở lại Khu phức hợp để dự đám tang. Vào lúc cả gia đình cùng tụ họp ăn sáng trước lễ tưởng niệm, Colter đã nghe thấy một đoạn trao đổi ngắn.
Một người họ hàng đã hỏi có phải Russell bay từ L.A đến. không và anh ấy bảo không, anh ấy đã lái xe đến. Sau đó anh ấy có nhắc tới tuyến đường.
Colter thực sự đã thở hổn hển, một phản ứng không có ai khác nhận ra. Vì tuyến đường mà Russell vừa mô tả gần đây đã đóng lại vì xảy ra lở đá; nhưng nó vẫn còn thông xe vào ngày Ashton bị sát hại. Thế tức là Russell đã có mặt ở vùng này được vài ngày. Anh ấy đã lái xe lên đây từ trước, ẩn náu ở nơi nào đó gần đấy, có thể là vì bản tính thích ẩn dật mà anh ấy không gặp gỡ gia đình. Có thể là nhằm mục đích giết cha họ vào giờ khắc lạnh giá buổi sáng ngày 5 tháng Mười, để cứu cô em gái khỏi bất kỳ “lễ tốt nghiệp” điên rồ và nguy hiểm nào.
Còn vì một lý do khác nữa: Giải thoát cha khỏi nỗi bất hạnh của chính ông.
Cần thức ăn hay chỗ trốn, vì tự vệ, hoặc ban cái chết nhân đạo.
Tại đám tang, Colter quyết tâm sẽ đợi chờ và đối mặt với anh trai sau. Cái để sau ấy chẳng bao giờ đến, vì Russell đã đột ngột bỏ đi sau buổi lễ và biến mất dạng kể từ đó.
Ý nghĩ về tội giết cha ám ảnh Colter suốt bao nhiêu năm, một vết thương không bao giờ lành trong tâm hồn. Nhưng rồi, một tháng trước, lại xuất hiện hy vọng nào đó rằng, sau cùng, anh trai anh có thể không phải là hung thủ.
Anh đang ở nhà mình tại Florida, lục lọi một hộp đựng những bức ảnh cũ mà mẹ đã gửi. Anh đã tìm thấy một lá thư đề gửi cho Ashton nhưng không ghi địa chỉ gửi thư trả lời. Dấu bưu điện là ở Berkeley, ngày gửi là ba hôm sau khi ông mất. Lá thư này đã thu hút sự chú ý của Shaw.
Ash:
E là tôi phải cho anh biết rằng Braxton vẫn còn sống! Có thể đang tiến thẳng về phương bắc. Hãy CẨN THẬN. Tôi đã giải thích với mọi người rằng bên trong phong bì là chìa khóa dẫn đến nơi anh đã cất giấu tất cả.
Tôi để nó vào trong 22-R, tầng 3.
Chúng ta sẽ làm được chuyện này, Ash. Chúa phù hộ anh.
– Eugene
Anh có thể luận ra được gì từ lá thư này?
Một kết luận rằng Ashton – thực sự là “mọi người” trong thư của Eugene – đang gặp nguy hiểm.
Còn Braxton là ai?
Lo chuyện trước mắt đã. Tìm Eugene. Mẹ Colter đã nói rằng Ashton có một người bạn tại Đại học California–Berkeley mang cái tên đó, một giáo sư đồng nghiệp, nhưng bà không thể nhớ nổi họ ông ấy là gì. Bà cũng chưa từng nghe nói tới cái tên Braxton.
Cuộc tìm kiếm nhân sự ở UC Berkeley 15 năm trước của Shaw đã phát hiện ra giáo sư Eugene Young, một nhà Vật lý học, người đã mất trong một vụ đụng xe hai năm sau khi Ashton qua đời. Bản thân cái chết này cũng có vẻ đáng ngờ: lái xe lao xuống vách núi gần Yosemite trong điều kiện đường sá an toàn. Shaw đã truy lùng bà vợ góa của Young, người đã tái hôn. Shaw đã gọi cho bà ấy, giải thích mình là ai và nói thêm rằng anh đang biên soạn tài liệu về cha mình. Liệu bà có thứ gì – thư từ hay các tài liệu khác – liên quan đến Ashton không? Bà ấy đáp rằng mình đã vứt bỏ tất cả tài liệu cá nhân của người chồng quá cố trong suốt những năm tháng qua rồi. Shaw để lại số điện thoại cho bà ấy, dặn rằng anh sẽ có mặt tại một bãi đỗ xe RV ở Oakland trong vài ngày tới, phòng trường hợp bà ấy nhớ ra điều gì đó.
Sau đó Colter Shaw đi làm việc mà anh giỏi nhất: Truy dấu. Eugene Young là một giáo sư trong khuôn viên Đại học California và ông ấy đã cất giấu thứ gì đó tại một nơi được gọi là 22-R. Shaw đã phải mất hai ngày mới biết được chỉ tại kho lưu trữ của Khoa Xã hội học của trường, nằm trên tầng ba, mới có Phòng 22, với một giá sách chữ R.
Đó là nơi, ba ngày trước, anh đã tìm thấy – và ăn trộm – cái phong bì kỳ diệu đó.
Bài thi đã chấm điểm 5/25…
Nếu có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy có ai đó ngoài Russell Shaw đã sát hại Ashton – người tên Braxton này hoặc đồng bọn – thì nó hẳn phải nằm ở chồng tư liệu mã hóa trong cái phong bì này.
Giờ, trên giường của Maddie, anh nghe thấy những lời của cảnh sát trưởng Blanche.
Chúng tôi gọi đó là một tai nạn. Chẳng còn điều gì hợp lý hơn…
Ngoại trừ, cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm, Colter Shaw nhận ra còn có một điều hợp lý hơn.
Braxton vẫn còn sống!
Điều hòa không khí ngoài cửa sổ của Maddie ngày càng ồn ã hơn. Shaw nhận ra mình không thể quay lại với giấc ngủ, nên anh ngồi dậy mặc quần áo. Mở thêm chai nước nữa rồi bước ra bên ngoài, kéo then cửa sao cho cửa sẽ không khóa lại sau lưng mình. Anh ngồi xuống một cái ghế xếp nhựa màu cam, món đồ nội thất duy nhất trên không gian hàng hiên có thể đủ chỗ cho hai chục cái ghế như thế. Anh nhấp ngụm nước. Trên điện thoại, anh mò kênh tin địa phương xem có tiến triển nào trong vụ Henry Thompson không. Khi đợi chờ tin tức được tải, anh trông thấy một tin khác có vẻ quen thuộc… Ồ, đúng rồi. Đó là tin về tay nghị sĩ bị buộc tội gửi tin nhắn gạ tình cho các nam sinh; lần đầu tiên anh nghe tin này là trên buổi phát sóng tin tức trong trò Prime Mission của Tony Knight. Tay chính trị gia, một đại biểu từ Utah, tên là Richard Boyd, đã tự sát, để lại lá thư tuyệt mệnh phân bua rằng mình vô tội và mô tả cuộc đời ông ta đã tan nát như thế nào vì những tin đồn. Câu chuyện này không chỉ dừng lại ở một cái chết bi thảm. Ghế của ông ta ở Quốc hội có thể ảnh hưởng đến sự cân bằng của đảng phái trong phiên bầu cử sắp tới.
Cha của Shaw rất thích thú các hoạt động chính trị, nhưng gen đó từ ông không được truyền lại cho Colter.
Chẳng có điều gì trong bản tin nói về Henry Thompson, thế nên anh tắt kênh rồi cất điện thoại đi.
Con phố tĩnh lặng, không tiếng côn trùng hay cú kêu. Anh nghe thấy âm thanh dòng xe cộ ầm ì từ con đường cao tốc, vài tiếng còi. Trong khi có nửa tá sân bay ở gần đây, giờ là thời điểm không có chuyến bay.
Anh nhìn về phía đại lộ và trông thấy một ngôi nhà đang trong quá trình bị phá dỡ, và kế bên nó là một bãi đất trống mới bị san phẳng. Tấm biển ở cả hai sân trước đều ghi “NGÔI NHÀ TƯƠNG LAI CỦA SILICONVILLE!”
Shaw thích thú nghĩ rằng người đàn ông tóc xoăn mơ mộng Marty Avon, yêu thích các món đồ chơi, lại tham gia vào một dự án nghiêm túc như phát triển bất động sản. Shaw đoán rằng ông ta ưa thiết kế và xây dựng mô hình của Siliconville trong sảnh Destiny hơn nhiều so với xây dựng một Siliconville thực tế.
Uống hết chai nước, Shaw quay bước vào nhà. Anh tiến tới chỗ màn hình máy tính 30 inch của Maddie, trên đó một quả bóng ba chiều chậm rãi nảy qua lại trên màn hình, sắc màu của nó đang thay đổi từ tím sang đỏ rồi vàng và xanh lá, tất cả đều mang sắc độ đậm.
Anh liếc nhìn bàn làm việc của cô – mọi thứ Maddie Pool sở hữu đều dâng hiến cho nghệ thuật và khoa học của trò chơi điện tử: các hộp nhựa trong đựng đĩa CD và DVD, các bảng mạch, các thẻ RAM, ổ đĩa, chuột và máy chơi game. Các bộ trò chơi ở khắp nơi. Rồi dây cáp, dây cáp và lại dây cáp. Anh cầm lên một vài cuốn sách của cô, lật qua vài trang. Cụm từ Lối chơi xuất hiện trong hầu hết các tựa sách. Và ở vài cuốn là Mẹo gian lận rồi Cách phá đảo. Anh xem qua cuốn Hướng dẫn tối hậu cho trò Fortnite, nhớ lại gian hàng của công ty tại Hội thảo C3. Tính phức tạp của các hướng dẫn thực sự gây choáng ngợp. Anh vừa định đặt nó về chỗ cũ thì chợt cứng người lại.
Có một tập sách nhỏ nằm bên dưới cuốn hướng dẫn trò Fortnite. Trống ngực đập thình thịch, anh nhặt nó lên và lật qua vài trang. Có nhiều đoạn được đánh dấu hoa thị và khoanh tròn. Còn cả những ghi chú bên lề, nhắc đến dao găm, súng, đuốc và mũi tên. Tựa sách là:
HƯỚNG DẪN TƯƠNG TÁC VỚI TRÒ CHƠI, TẬP 12
KẺ THÌ THẦM
Trò chơi mà Maddie Poole từng tuyên bố rằng mình không bao giờ chơi và chẳng biết gì về nó.