• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Màn chơi tử thần
  3. Trang 79

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 78
  • 79
  • 80
  • More pages
  • 82
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 78
  • 79
  • 80
  • More pages
  • 82
  • Sau

75

“Ngồi xuống đi, Shaw. Cứ tự nhiên như ở nhà nhé.”

Vẫn giọng nói đó. Cao. Vui vẻ. Tự tin. Rõ ràng là khẩu âm Minnesota hoặc Dakota.

Shaw cố gắng suy luận mọi chuyện, rồi bỏ cuộc.

Anh ngồi xuống.

Gặm Nhấm chỉ tay về phía cái bàn. “Mở khóa điện thoại của mày rồi đặt nó xuống. Cảm ơn nhìu.”

Shaw làm theo.

Người đàn ông cầm điện thoại lên, bàn tay đi đôi găng đen bằng vải, với các tấm đệm ngón tay nhạt màu, mà hắn sử dụng để quét qua màn hình iPhone. Đôi mắt hắn thoắt chuyển từ màn hình điện thoại sang Shaw – lên, xuống, rất nhanh.

Đúng, Jimmy Foyle là kẻ đã bám theo Shaw tại công viên San Miguel và mang đến các bức vẽ đáng sợ của Kẻ Thì Thầm. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là không còn kẻ nào khác cũng đang theo dõi anh.

Không bao giờ thu hẹp phạm vi tập trung quá mức.

Gặm Nhấm hỏi, “Cuộc gọi tới cuối cùng này, là ai gọi vậy?”

Câu hỏi dễ khám phá. “Lực lượng Đặc nhiệm Trọng án Liên kết. Thung lũng Silicon.”

“Chà chà, dính vào đấy thì không hay ho gì đâu, mày không hỉu sao.”

“Không liên quan gì đến ông. Đó là về vụ bắt cóc mà tôi tham gia phá án.”

Gặm Nhấm gật gù. Hắn lướt qua nhật ký cuộc gọi, chắc chắn để ý mốc thời gian, cho thấy Shaw đã ngắt máy trước khi Gặm Nhấm xuất hiện với khẩu súng Ý xịn xò. Gặm Nhấm bỏ điện thoại xuống.

“Vũ khí của tôi đâu?” Shaw hỏi.

“Cất trong túi tao này. Cái món bé bỏng xinh xắn ấy. Cả khẩu Python nữa. Dưới gầm giường. Thông minh đấy. Khẩu súng đẹp đẽ kia nữa, cái mẫu mã ấy, tao chắc chắn mày đánh giá nó rất cao.”

Anh thấy bối rối, phải. Nhưng Shaw đã hiểu ra một chuyện: Người đàn ông này không ở đây để trả đũa vụ Shaw đã ngăn cản hắn đốt lửa trại tại Oakland. Nỗ lực phóng hỏa ấy chỉ nhằm mục đích đánh lạc hướng để Gặm Nhấm có thể đột nhập vào xe Winnebago của Shaw.

Trong lúc đối đầu, có khả năng đúng là hắn đã buột miệng nói ra mấy từ, “Hẳn là mày phải làm vậy rồi Shaw.”

Câu hỏi tiếp theo – hắn muốn cái gì trong xe cắm trại này? – vẫn chưa thể trả lời.

Dưới ánh sáng bên trong xe cắm trại, Shaw có thể thấy rõ gương mặt rỗ chằng rỗ chịt của người đàn ông hơn hôm kia. Anh cũng để ý tới vết sẹo một bên cổ hắn, ở gần đúng vị trí như vết sẹo trên cổ Shaw. Rõ ràng vết thương của Gặm Nhấm từng nghiêm trọng hơn. Vết sẹo trông như bị một viên đạn làm biến dạng: hơi nóng từ viên đạn vừa làm lõm da vừa thiêu cháy nó.

Hắn quá chuyên nghiệp nên không thèm giơ khẩu súng ngắn về phía Shaw. Một người nhanh nhẹn có thể gạt khẩu súng sang bên bằng một tay, còn tay kia tung đòn. Shaw đã từng làm thế nhiều hơn một lần. Không, Gặm Nhấm luôn giữ thứ vũ khí đen bóng ấy gần người mình, nòng súng nhằm thẳng phía trước.

Shaw nói, “Đêm qua, ông đã đột nhập vào đây, với dụng cụ hút vết lõm và xà beng. Cẩu thả. Để trông giống như thằng cha nghiện hút nào đó đã làm. Đêm nay ông tinh tế hơn chút.”

Gặm Nhấm đã khéo léo phá dùng dụng cụ cạy các ổ khóa đã được sửa lại. Shaw, người thi thoảng vẫn đột nhập vào các địa điểm an ninh nghiêm ngặt, cảm thấy ấn tượng.

Lần đầu tiên, Gặm Nhấm đã kiếm tìm thứ mà hắn muốn, nhưng không thấy. Hắn đã hoàn thành việc thăm dò, tìm ra két sắt an toàn – mà sẽ cần thiết bị hạng nặng để có thể dịch chuyển hoặc mở ra – và vị trí cất giấu các món vũ khí. Sau đó đợi đến tối nay để đích thân quay lại – náu mình cho đến khi Maddie Poole đã bỏ đi.

Gặm Nhấm thọc tay trái vào túi và lấy ra một cặp còng tay xủng xoảng. Hắn ném về phía Shaw, anh để kệ nó rơi xuống sàn nhà.

Ngừng một lát.

“Này này, phải thiết lập vài quy tắc chứ nhỉ?”

Shaw đáp, “Không còng tay. Tôi không biết võ karate. Ông lấy được hết vũ khí của tôi rồi. Tôi biết phóng dao, nhưng trong xe cắm trại chỉ có dao làm bếp hiệu Sabatier, mà chúng cân bằng tệ lắm.”

“Quy tắc, mày không hỉu sao. Giữ cho mày được an toàn và tâm trí tao được thanh thản. Giờ thì, thưa quý ngài, tao đã giết mất vài mạng rồi, cho dù phần lớn là vì tự vệ. Cái chết chẳng có ích gì cho ai hết… Từ đó là gì nhỉ? Cái chết đem đến tác dụng phụ. Nó thu hút sự chú ý, khiến cuộc sống của tao trở nên phức tạp. Tao không cần điều đó. Thế tao có định giết mày không? Không. Trừ phi, thật tự nhiên, mày làm điều gì đó khiến tao phải giết mày.

Tao có làm tổn thương người khác. Tao thích làm người khác đau đớn. Và tao sẽ làm họ đau đớn tới mức thay đổi. Mãi mãi. Người đàn ông yêu nghệ thuật, tao khiến anh ta mù lòa. Người phụ nữ yêu âm nhạc, tao làm tổn thương đôi tai cô ta. Mày có thể thấy chuyện này đang đi về đâu. Bọn tao biết về mày, Shaw à. Mày sẽ không thích thú lắm chuyện ngồi xe lăn cho đến hết đời đâu, mày không hỉu sao.”

Shaw nhìn chằm chằm người đàn ông mảnh khảnh, mặt anh không hề biến sắc, trong khi quả tim bỗng đập thình thịch trong lồng ngực, miệng khô khốc.

Không bao giờ để kẻ săn mồi đánh thấy rằng con sợ…

“Đây là một khẩu súng cỡ đạn 40 li. Viên đạn to kiểu cũ. Mà tao đoán mày rất quen thuộc.”

Đúng vậy.

“Khuỷu tay, khuỷu chân, rồi tới đầu gối. Rồi rõ là sẽ chẳng còn vị trí nào để sửa chữa nữa. Và tao có thứ này, khiến khẩu súng nhả đạn khẽ khàng như một tiếng ho. Một mảnh nữa vào mồm mày để chặn những tiếng thét. Nên tự còng tay mình vào đi. Tao không muốn phải lo lắng về mày, Shaw à. Còng tay hay khuỷu tay nào?” Hắn lấy ra từ trong túi một nắm vải hóa dẻo màu đen. Một dạng vải giảm thanh chăng?

Shaw nhặt cặp còng tay lên rồi tự còng tay mình.

“Giờ chúng ta sẽ cùng bắt tay vào việc, sau đó tao sẽ rời đi. Có phải cái phong bì nằm trong két sắt ở phòng ngủ không?”

“Cái gì cơ…?”

Hắn kiên nhẫn, “Tao biết mày không định tỏ ra – nói thế nào nhỉ – e thẹn. Mày chỉ đang không hiểu. Tao muốn cái phong bì mà ông bạn Eugene Young của cha mày đã giấu ở kho lưu trữ Khoa Xã hội học tại Berkeley. Thứ mà mày đã đánh cắp hai ngày trước.”

Shaw cố gắng nhưng không thể hiểu nổi cách mà chuyện này đột ngột chuyển hướng.

“Không, không, tao không muốn nghe cái câu ‘Tôi không hiểu ông đang nói gì’. Bọn tao biết mày đã gọi tới nhà riêng của Young, nhưng không biết rằng gã ta đã chết. Giờ mày có vẻ mặt mới hay ho làm sao, Shaw à. Mày thường tỏ ra lạnh như tiền ấy. Câu trả lời cho câu hỏi của mày là: Bọn tao đã nghe lén đường dây nhà gã ta.”

Chúng đã theo dõi đồng nghiệp của cha anh, và giờ là góa phụ của ông ấy, suốt 15 năm ư? Điều này đi kèm với ý thức bị xâm phạm đến phát bệnh. Chúng còn theo dõi cả anh nữa.

Vì lý do quái gì nhỉ?

Gặm Nhấm nói, “Mày đã phát hiện ra cái phong bì. Xem qua đống đồ cũ của cha già kính yêu, có thể là thế. Nó đã dẫn mày đến với kho lưu trữ Khoa Xã hội học, nơi mày đã ‘mượn tạm’ nó.” Gương mặt hắn siết lại thành một nụ cười giống chuột. “Khoa Xã hội học. Lạy chúa tôi. Một trong số rất ít nơi mà bọn tao không nhìn tới. Vì tại sao bọn tao lại phải nhìn tới nó? Cha mày chẳng bao giờ quan tâm đến chủ đề đó.”

“Tôi…”

“Nhớ lại đi, mày không hỉu sao. Đừng trưng cái vẻ mặt bối rối ấy ra đây.”

Làm sao Gặm Nhấm biết được về vụ trộm tại Berkeley? Shaw ngẫm lại. Anh đã nói với bà vợ góa của Young rằng mình đang ở lại bãi đỗ RV tại Oakland. Hẳn rất dễ truy dấu anh tới chỗ Carole. Gặm Nhấm đã bám theo Shaw tới Berkeley. Shaw đã không hề nhận ra hắn đang bám đuôi. Vì một quy tắc khi lái xe mô tô là chỉ được nhìn về phía trước và sang hai bên, không ngoái lại đằng sau, trừ khi gặp phải ánh đèn pha.

Tuy nhiên, các logic này phai nhạt dần khỏi suy nghĩ của Shaw. Quan trọng hơn là cụm từ bọn tao, những tài liệu bí ẩn và màn nghe lén điện thoại suốt 15 năm. Shaw nhận ra cha mình có thể không điên loạn hay hoang tưởng như vẻ bề ngoài.

Không bao giờ gạt bỏ một âm mưu quá nhanh…

Shaw lại nghĩ tới lá thư Eugene Young đã viết cho cha mình. Anh hỏi Gặm Nhấm, “Vậy bây giờ Braxton đang ở đâu?”

Trúng phóc. Một nếp nhăn trên phần da xanh xao giữa hai mắt Gặm Nhấm. “Mày biết gì về bà ấy?”

Chà, mới biết thêm một điều mà mới vài giây trước anh còn chưa biết.

Bà ấy…

Môi người đàn ông khẽ mím chặt. Hắn đã bị gài. Hắn không nói gì về quý bà Braxton nữa, bất kể mụ ta có thể là ai.

“Két an toàn. Xem có gì bên trong nào.”

“Chỉ là một cái bẫy. Nó trống trơn.” Cái còng tay đã làm phá sản chiến thuật của Shaw: Tước vũ khí kẻ xâm nhập khi hắn thò tay vào và bị gãy một ngón tay. Anh nghĩ rằng thật mỉa mai làm sao, nếu xét đến cái biệt danh mình đặt cho kẻ xâm nhập. Cái bẫy này rất lớn, vốn dành cho lũ chuột.

“Tao đoán nhé. Đây có thể là bẫy nghịch đảo. Không có nghĩa lý lắm nhưng mày hiểu ý tao rồi đấy.”

Shaw mở nó ra.

Hồi nãy Gặm Nhấm đã lấy ra một cây đèn pin halogen nhỏ, giờ hắn dùng nó để dòm vào trong két. Hắn có vẻ bị ấn tượng trước cái bẫy phỉnh phờ này.

Quay lại căn bếp nhỏ. “Cái phong bì đâu rồi? Hay chúng ta nên bắt đầu với cơn đau. Tùy thuộc cả vào mày.”

“Ví của tôi.”

“Ví ư… Nằm xuống sàn. Úp mặt xuống.”

Shaw làm theo và cảm thấy người đàn ông đặt thứ gì đó mềm mại trên khoeo chân anh, rồi đè mạnh xuống.

“Vũ khí đấy.”

Shaw đã đoán ra. Hẳn nó phải là một miếng vải ma thuật thực sự nếu nó có thể giảm thanh cho một khẩu súng ngắn .40.

Người đàn ông lấy ví ra, lật Shaw nằm ngửa rồi đứng dậy.

“Phía sau bằng lái ấy.”

Gặm Nhấm lần mò. “Phiếu biên nhận của một bưu điện FedEx ở Alameda?”

“Đúng nó đấy. Họ có bản gốc các tài liệu của cha tôi, kèm hai bản sao.”

Nó nằm trong trung tâm mua sắm bao gồm cả nhà hàng Salvador hôm kia, với cà phê từ Potrero Grande. Sau khi rồi đi, trên đường tới nhà của Frank Mulliner, anh đã mang bản thảo đi sao chép làm hai bộ. Anh đã quyết định để lại chúng ở đấy trong vài ngày, phòng trường hợp cảnh sát tìm đến theo yêu cầu của Khoa Xã hội học. Khả năng từ chối hợp lý1.

Chú thích:

1 Khả năng chối bỏ việc mình từng tham gia vào bất kỳ hoạt động bất hợp pháp hoặc phi đạo đức nào, bởi vì thiếu bằng chứng rõ ràng để chứng minh.

“Còn bản sao nào khác không?”

“Tôi chỉ có hai bản thôi.”

Rời mắt khỏi Shaw chỉ một giây, Gặm Nhấm rút điện thoại ra gọi một cuộc, giải thích với ai đấy ở đầu bên kia về bưu điện FexEx. Hắn đọc con số trên phiếu biên nhận. Rồi ngắt máy.

“Giờ nó đóng cửa rồi,” Shaw nói.

Gặm Nhấm mỉm cười. Hắn giữ im lặng trong lúc gửi một tin nhắn, có lẽ là cho ai đó khác. Đôi mắt dò xét Shaw như thể, chỉ cần nhãng đi một giây thôi, tù nhân của hắn có thể ngóc đầu tấn công như một con rắn.

Cuối cùng, Shaw không thể đợi được hơn nữa. Anh lên tiếng, “Ngày 5 tháng Mười. Vào 15 năm trước.”

Gặm Nhấm ngừng lại, ngước lên khỏi điện thoại, mắt không hề giật giật chút nào vì ngạc nhiên. Tông giọng không còn cao vút như dây vĩ cầm kéo căng khi hắn đáp, “Bọn tao không giết chết cha mày, Shaw à.”

Trái tim Shaw đập dồn như trống trận, vì những lý do chả liên quan gì tới việc anh đang nhìn xuống nòng khẩu súng lục cỡ lớn.

“Rõ ràng là tất cả chuyện này giống như một nồi súp bí ẩn đối với mày. Cứ nên để nguyên như thế. Nói mày nghe điều này nhé: Cái chết của Ashton là một… rắc rối… đối với bọn tao. Nó khiến bọn tao tức giận y hệt như mày vậy… Được rồi. So sánh thế cũng không công bằng… Nhưng mày hiểu ý tao rồi đấy.”

Gặm Nhấm lại gửi thêm tin nhắn.

Shaw thấy lòng nặng trĩu. Trái tim anh chùng xuống. Vì điều này có nghĩa là cơn ác mộng của anh đã trở thành sự thực: Anh trai Russell chính là kẻ đã giết cha. Anh nhắm mắt lại một chốc. Anh có thể nghe thấy giọng nói của anh trai, như thể con người cao gầy ấy đang ở trong phòng cùng cả hai.

Ông ấy đã dạy cho chúng ta cách sinh tồn. Giờ chúng ta phải sống sót khỏi ông ấy…

Russell đã phạm tội giết người để giải thoát cho các em – và cả mẹ mình nữa. Bà và Ashton đã bên nhau như hình với bóng kể từ lần đầu họ gặp nhau vào 40 năm trước, ở Ansel Adams Wilderness tại Pacific Crest, một Đường mòn Thắng cảnh Quốc gia trải dài từ biên giới Mexico tới Canada. Thế nhưng, khi tâm trí trở nên mơ hồ, khoảng một năm trước ngày ông mất, Ashton ngày càng nghi ngờ cả vợ mình nữa, thi thoảng lại nghĩ rằng bà có dự phần vào một âm mưu nào đó.

Thế nếu việc giải thoát mẹ cùng các em mình không phải là động cơ duy nhất thì sao? Shaw từ lâu cũng tự hỏi, phải chăng còn một động cơ đen tối hơn. Phải chăng nỗi phẫn uất của Russell cuối cùng đã vượt quá ngưỡng chịu đựng? Dorie và Colter hẵng còn quá nhỏ khi gia đình họ chuyển nhà. Cả hai không còn nhớ được nhiều, nếu họ còn nhớ chút gì, về cuộc sống chốn văn minh. Russell lúc ấy đã 10 tuổi, đã có thời gian trải nghiệm Vùng Vịnh San Francisco náo nhiệt và tuyệt diệu. Anh ấy đã kết giao nhiều bạn bè. Thế rồi đột nhiên anh ấy bị đày ải đến vùng hoang dã.

Tức giận suốt những tháng năm đó, chẳng bao giờ thổ lộ ra, nỗi phẫn uất dần dà hình thành.

Russell là người thích ẩn dật…

Gặm Nhấm hạ điện thoại xuống.

“Dù sao đi nữa, đó là một tai nạn.”

Shaw tập trung nghe.

“Cha mày ấy. Bọn tao những muốn lão còn sống, Braxton lại muốn lão chết – nhưng chưa được, phải chờ đến khi bà ấy có được thứ mình muốn đã. Bà ấy đã cử một người tới để, à thì, nói chuyện với lão về chỗ tài liệu.”

Nói chuyện. Nghĩa là tra tấn.

“Theo như bọn tao ráp nối được sau đó, cha mày đã biết người của Braxton đang trên đường đến Khu phức hợp. Ashton đã cố tình để lộ ít thông tin để nhử gã đi, định bụng sẽ thủ tiêu gã ở đâu đó trong rừng. Cuộc phục kích thất bại. Họ đánh nhau. Cha mày ngã xuống dưới.

Đó là lần thứ hai người của Braxton làm hỏng việc, nên gã không còn được hít thở bầu không khí này nữa – nếu điều đó mang lại chút an ủi nào cho mày.” Nói rồi, Gặm Nhấm nghiêng đầu và nở một nụ cười mơ hồ. “Lần đầu thì gã đã bị thằng nhóc nào đấy đá đít ra khỏi khu đất. Một đứa trẻ vị thành niên. Thằng nhóc đã chơi gã một vố bằng khẩu súng lục cũ nào đó… Thánh thần ơi, có phải mày không đấy Shaw?”

Gia đình mày đúng là bước thẳng ra từ phim Deliverance nhỉ?

Thợ săn… Đó là việc gã đang làm ở đó, đi săn cha anh. Mọi người đều tin rằng, thần trí Ashton Shaw đã rối loạn tới nỗi ông tự sáng tạo ra những gián điệp và thế lực chống lại mình.

Hóa ra Ashton Shaw đã luôn luôn đúng.

Ôi, anh Russell…

Chưa lúc nào Colter Shaw cảm nhận sự vắng mặt của anh trai rõ ràng hơn lúc này. Anh ấy đang ở đâu?

Tại sao anh ấy lại biến mất?

Anh hỏi, “Ông biết nhiều chuyện đấy. Thế còn anh trai Russell của tôi thì sao? Anh ấy đâu rồi?”

“Mất dấu thằng đó nhiều năm trước rồi. Tại châu Âu.”

Hải ngoại… Điều này khiến Shaw ngạc nhiên. Rồi anh tự hỏi tại sao mình lại ngạc nhiên, vì anh ấy đã không hề liên hệ kể từ sau đám tang. Paris thì có gì khó tin hơn khu dân cư Tenderloin ở San Francisco, hay một cư xá tại Thành phố Kansas đâu.

“Tất cả chuyện này là gì?”

Gặm Nhấm đáp, “Tao nói với mày rồi. Không phải chuyện của mày, mày không hỉu sao.”

“Chuyện của tôi là Braxton. Có phải tai nạn hay không, bà ta cũng phải chịu trách nhiệm.”

“Không, đó cũng không phải chuyện của mày nốt. Tin tao đi, mày không muốn vơ nó vào người đâu.”

Shaw tự hỏi mấy vết rỗ trên mặt hắn từ đâu mà ra. Mụn trứng cá tuổi dậy thì? Chứng bệnh nào đó mà hắn mắc sau này? Gặm Nhấm có tầm vóc mảnh khảnh, cách liếc mắt liên hồi của quân nhân hoặc lính đánh thuê. Có thể là bị bỏng khí ga chăng?

Điện thoại của Gặm Nhấm rung chuông. Hắn đưa điện thoại lên tai.

“Phải… Được rồi. Quay lại chỗ cũ.”

Trò lừa đảo FedEx rõ ràng đã thành công.

Hắn ngắt máy. “Được rồi.” Hắn thu lại miếng giảm thanh màu đen, bước về phía đầu kia xe cắm trại, cất khẩu Beretta đi. “Tao sẽ để lại chìa khóa mở còng dưới gầm xe cho mày, còn khẩu Glock và khẩu Colt ở trong thùng rác cạnh lối vào cửa trước. Đừng cố tìm kiếm bọn tao. Vì lợi ích của chính mày thôi, mày không hỉu sao.”