Shaw đang ngồi cúi người xuống mặt bàn cà phê xước xát.
Trước mặt anh là cuốn sổ tay 32 trang, kích cỡ 13x18 phân, với các trang giấy không kẻ dòng trống trơn. Trong tay anh là cây bút máy Delta Titanio Glassia, màu đen với với ba vòng màu cam hướng về ngòi. Thi thoảng mọi người nhìn anh như muốn nói: Khoe của đúng không? Nhưng Shaw là người ghi chép không biết mệt mỏi, và cây bút Italia này – không hề rẻ, 215 đô la, nhưng không phải là món đồ xa xỉ – khiến cơ bắp của anh dễ chịu hơn nhiều so với bút bi mực nhớt, hay thậm chí là bút bi mực lỏng. Nó là công cụ tốt nhất cho công việc.
Trong phòng không chỉ có Shaw và Mulliner. Đang ngồi bên cạnh Shaw và thở hổn hển vào đùi anh, chính là lý do mà người cha chắc chắn rằng cô con gái không tự ý bỏ nhà đi: Luka.
Một con chó poodle tiêu chuẩn, lông trắng và hành xử biết điều.
“Fee sẽ không bỏ Luka mà đi đâu cả. Không thể nào. Nếu bỏ nhà đi bụi, kiểu gì con bé cũng lôi nó đi theo cùng. Hoặc ít nhất gọi về hỏi xem nó thế nào rồi.”
Trong Khu phức hợp cũng có mấy con chó, chó săn để theo dấu, chó tha mồi để tìm đồ vật – tất cả chúng đều sủa như điên nếu xuất hiện một kẻ không mời mà đến. Colter và Russell đồng tình với quan điểm của cha, rằng lũ chó là người làm công. Trái lại, cô em gái Dorion của họ khiến những con vật này bối rối, khi cho chúng diện những trang phục chính tay mình đan móc, hoặc cho chúng ngủ trên giường với mình. Giờ Shaw chấp nhận sự hiện diện của Luka ở đây như một bằng chứng, dù chưa chắc chắn, cho thấy cô gái trẻ không bỏ nhà đi bụi.
Colter Shaw hỏi han các chi tiết về vụ mất tích của Sophie, về điều cảnh sát nói khi Mulliner gọi đến, về gia đình và bạn bè.
Bằng nét chữ nhỏ nhắn thanh lịch, nằm ngang hoàn hảo trên trang giấy không dòng kẻ, Shaw viết ra tất cả các thông tin có khả năng hữu ích, tảng lờ đi những chi tiết không liên quan. Sau hỏi hết những gì có thể, anh để mặc người đàn ông giãi bày. Anh thường thu được các thông tin quan trọng nhất theo cách này, đãi cát tìm vàng từ những câu chuyện dông dài.
Mulliner bước vào bếp, một lúc sau quay ra với một nắm giấy vụn và mấy tờ giấy ghi chú có viết tên tuổi, địa chỉ và số điện thoại – bằng hai nét chữ viết tay khác nhau. Ông khẳng định đó là chữ của mình và Sophie. Các số điện thoại, các cuộc hẹn, lịch học ở lớp và lịch làm việc. Shaw chép lại chỗ thông tin. Nếu chuyện sau đó liên đới tới cảnh sát, Mulliner nên giữ lại các bản gốc.
Cha của Sophie đã làm rất tốt việc tìm kiếm con gái. Ông dán vô số tờ rơi thông báo MẤT TÍCH. Liên hệ với sếp của Sophie tại công ty phần mềm nơi cô làm việc bán thời gian, với nửa tá giáo sư của cô tại trường đại học của cô, với cả huấn luyện viên thể thao của cô nữa. Ông cũng nói chuyện với bạn bè của cô, cho dù danh sách này không dài lắm.
“Không hẳn là người cha tốt nhất,” Mullinar thừa nhận, đôi mắt cụp xuống. “Mẹ của Sophie sống ngoài bang này, như tôi đã nói. Tôi làm nhiều công việc một lúc. Tôi phải lo toan tất cả. Tôi không tham gia các sự kiện hay các trận đấu của con – nó chơi bóng vợt – dù tôi nên làm thế.” Ông vẫy tay quanh ngôi nhà bừa bộn. “Con bé không tổ chức tiệc tùng tại gia. Anh nhìn là biết. Tôi chẳng còn thời gian mà dọn dẹp. Còn việc thanh toán hóa đơn dịch vụ ư? Quên đi.”
Shaw ghi chú lại môn bóng vợt. Cô gái trẻ này có cơ bắp và có thể chạy. Có tính tranh đua nữa.
Sophie sẽ chiến đấu đến cùng – nếu cô gái có cơ hội kháng cự.
“Cô gái có hay ở lại nhà bạn bè không?”
“Giờ thì không nhiều. Chỉ thời trung học thôi. Thi thoảng. Nhưng nó luôn luôn gọi về.” Mulliner chớp chớp mắt. “Tôi quên không mời anh thứ gì. Xin lỗi nhé. Cà phê không? Hay nước?”
“Không, tôi không cần đâu.”
Như hầu hết mọi người, Mulliner không thể rời mắt khỏi những từ ngữ viết láu mà Shaw tốc ký bằng thứ mực xanh hải quân.
“Người ta dạy anh viết thế à? Ở trường sao?”
“Vâng.”
Theo cách nào đó.
Khám xét phòng cô gái chẳng mang lại thông tin gì hữu ích. Căn phòng chất đầy các sách về máy tính, các bảng mạch, quần áo đầy tủ, đồ trang điểm, áp phích các buổi hòa nhạc và một cây treo đồ trang sức. Điển hình cho lứa tuổi của cô. Shaw để ý thấy cô là một họa sĩ có tài. Các bức tranh màu nước vẽ phong cảnh, đầy táo bạo và sặc sỡ sắc màu, được xếp thành chồng trên tủ quần áo, mặt giấy khô lại và uốn quăn trên giá vẽ.
Mulliner nói rằng con gái đã mang theo laptop và điện thoại, điều này Shaw đã dự liệu trước, nhưng anh vẫn thất vọng khi thấy cô gái không có cái máy tính thứ hai để truy cập vào, cho dù việc này thường không hữu ích. Bạn hiếm khi tìm thấy một mục như: Bữa sáng muộn ngày Chủ Nhật, sau đó sẽ bỏ trốn vì ghét cụ khốt nhà mình.
Và thư tuyệt mệnh thì không bao giờ để chỗ khó tìm cả.
Shaw hỏi xin vài bức ảnh chụp cô gái, với nhiều trang phục khác nhau và được chụp ở nhiều góc độ. Anh chọn ra chục bức ảnh đẹp.
Mulliner ngồi xuống, nhưng Shaw vẫn đứng im. Không cần nhìn vào cuốn sổ tay, anh nói, “Cô gái rời nhà vào lúc 4 giờ chiều thứ Tư, hai ngày trước, sau khi từ trường học về nhà. Rồi cô ra ngoài đi xe đạp vào lúc 5 rưỡi và không quay về nữa. Ông đã treo thưởng vào sáng sớm ngày thứ Năm.”
Mulliner nghiêng đầu, xác nhận khung thời gian này.
“Người ta hiếm khi treo thưởng ngay sau một vụ mất tích không có yếu tố bạo lực.”
“Tôi chỉ… anh biết đấy. Tuyệt vọng. Tôi đã rất lo lắng.”
“Tôi cần biết tất cả mọi chuyện, ông Frank à.”
Đôi mắt xanh của Shaw nhìn xoáy vào đôi mắt của người treo thưởng.
Ngón cái và ngón trỏ bàn tay phải của Mulliner một lần nữa vò vò quả bóng golf màu cam. Đôi mắt ông dán vào đống giấy ghi chú trên bàn cà phê. Ông thu chúng lại, sắp xếp theo trật tự, rồi dừng lại. “Chúng tôi đã cãi nhau. Fee và tôi. Hôm thứ Tư. Sau khi con bé về nhà. Một vụ cãi nhau to.”
“Kể tôi nghe đi.” Shaw dịu giọng hơn so với lúc nãy. Anh ngồi xuống.
“Tôi đã làm một việc ngu ngốc. Tôi cho ngôi nhà vào danh sách hôm thứ Tư, dặn tay môi giới đừng treo biển Bán Nhà cho đến khi tôi đã nói cho Fee biết. Thế mà hắn vẫn làm, nên một đứa bạn trên phố đã nhìn thấy và gọi cho con bé. Mẹ kiếp. Lẽ ra tôi nên làm tốt hơn.” Đôi mắt ngân ngấn nước của ông ngước lên. “Tôi đã thử hết mọi cách để tránh phải dọn nhà đi. Tôi làm cùng lúc cả hai công việc. Tôi vay tiền từ gã chồng mới của vợ cũ. Thử nghĩ xem. Tôi đã làm tất cả những gì có thể nhưng vẫn không thể trụ lại nổi. Đây là căn nhà của gia đình chúng tôi! Fee đã lớn lên ở đây, thế mà tôi sắp đánh mất nó. Các khoản thuế ở hạt này ư? Lạy Chúa, cắt cổ luôn. Tôi đã tìm được nơi ở mới tại Gilroy. Một chặng đường dài về phía Nam. Nó là tất cả những gì tôi có thể chi trả được. Sophie sẽ mất hai tiếng để đi xe buýt tới trường và chỗ làm. Con bé sẽ không còn nhiều cơ hội gặp gỡ bạn bè nữa.”
Tiếng cười của ông đầy cay đắng. “Con bé nói, ‘Tuyệt, chúng ta sắp chuyển đến cái thủ phủ tỏi chết tiệt của thế giới.’ Mà đúng vậy đấy. ‘Thế mà cha chẳng thèm nói với con một câu.’ Tôi đã mất bình tĩnh. Tôi đã quát vào mặt nó. Sao nó không biết trân trọng những gì cha nó làm chứ. Tôi sẽ còn phải đi làm xa hơn nó kia. Thế là con bé túm lấy cái ba lô rồi lao ra khỏi nhà.”
Đôi mắt Mulliner thôi nhìn Shaw. “Tôi đã sợ rằng nếu kể cho anh, chắc chắn anh sẽ nghĩ con bé bỏ nhà đi bụi và không chịu giúp tôi nữa.”
Điều này trả lời cho một câu hỏi quan trọng vốn dấy lên lo ngại trong tâm trí Shaw: Tại sao lại treo thưởng sớm thế? Phải, có vẻ Mulliner đang thực sự quẫn trí. Ông đang bỏ bê việc dọn dẹp nhà cửa. Chứng tỏ những lo âu mà ông dành cho con gái là chân thành. Thế nhưng những kẻ sát nhân trong vai trò bạn đời, đối tác kinh doanh, anh chị em ruột thịt và phải rồi, cả các bậc phụ huynh nữa, thi thoảng cũng treo thưởng để tỏ ra mình vô tội. Và họ có xu hướng treo thưởng rất sớm, như Mulliner đã làm.
Không, ông không hoàn toàn vô can. Nhưng việc thừa nhận chuyện cãi vã, ăn khớp với những kết luận khác của Shaw về người đàn ông, cho thấy ông chẳng liên quan gì đến sự mất tích của cô con gái.
Lý do treo thưởng sớm hoàn toàn chính đáng: Ông không thể chịu đựng nổi ý nghĩ, rằng mình phải chịu trách nhiệm cho việc con gái rời khỏi nhà và sa vào tay của một kẻ sát nhân, hãm hiếp hay bắt cóc.
Mulliner lên tiếng, giọng u ám và hầu như không thể nghe thấy, “Nếu con bé mà có mệnh hệ gì… Tôi sẽ…” Ông ngừng lời và nuốt khan.
“Tôi sẽ giúp ông,” Shaw nói.
“Cảm ơn anh!” Một lời thì thầm. Lúc này, ông mới thực sự òa khóc đầy khổ đau. “Cha xin lỗi, cha xin lỗi, xin lỗi con…”
“Ông yên tâm đi.”
Mulliner nhìn đồng hồ đeo tay. “Chết tiệt, tôi phải đi làm rồi. Tôi không muốn đi chút nào. Nhưng tôi không thể mất công việc này được. Làm ơn gọi cho tôi nhé. Không cần biết cậu tìm thấy gì, hãy gọi ngay cho tôi.”
Shaw đậy nắp bút rồi cất vào túi áo khoác, đứng dậy, đóng cuốn sổ lại. Anh tạm biệt rồi bước ra ngoài.