Chúng tôi ở một ngôi nhà rộng trên mảnh đất hai mẫu Anh được xây bên sườn đồi dốc. Hay có lẽ nó là một ngọn núi nhỏ, dân địa phương dường như không nhất quán quan điểm về chuyện này. Tài sản của chúng tôi có một bãi cỏ, nơi chúng tôi có thể hái mâm xôi dại, một cánh rừng nơi tôi có thể đốn bao nhiêu củi tùy ý, một lạch nước nhỏ nơi bọn trẻ và Marley sẽ sớm phát hiện ra chúng có thể thỏa thích lội bùn. Có một lò sưởi, một khu vườn rộng mênh mông và một nhà thờ có tháp chuông trắng trên ngọn đồi kế bên, có thể nhìn thấy lá rụng vào mùa thu từ cửa sổ gian bếp nhà chúng tôi.
Nhà mới của chúng tôi có một người hàng xóm trông như vừa bước ra từ xưởng phim Central Casting. Ông ta bộ dạng như gấu đội lốt người, với bộ râu màu vàng cam, sống trong ngôi nhà xây bằng đá từ những năm 1790. Chủ nhật, ông ta thích ngồi ở hiên sau nhà, dùng súng trường bắn vào rừng cho vui, làm Marley phát hoảng. Ngày đầu tiên chúng tôi dọn đến, ông ta sang nhà, mang theo một chai rượu anh đào dại tự nấu cùng một rổ đầy ắp những quả mâm xôi to nhất tôi từng thấy. Ông ta tự giới thiệu mình là Digger. Đúng như cái tên, công việc của Digger là đào xới(28). Ông ta cho hay, nếu chúng tôi có cái hố nào cần đào hay đất cần xúc đi, chỉ cần ới một tiếng là ông ta sẽ sang ngay với một cái máy lớn.
- Còn nếu xe các bạn có đâm phải một con hươu, hãy gọi tôi. - Ông ta nháy mắt - Chúng ta sẽ mổ và xẻ thịt nó trước khi nhà chức trách biết.
Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng tôi đã không còn ở Boca nữa rồi.
Chỉ có duy nhất một thứ còn thiếu trong cuộc sống điền viên mới của chúng tôi. Vài phút sau khi chúng tôi đánh xe vào con đường dẫn vào nhà, Conor ngước nhìn tôi, những giọt nước mắt lăn trên má nó:
Con nghĩ phải có bút chì ở Pencilvania chứ.(29)
Với mấy nhóc nhà tôi, mới được năm và bảy tuổi, đây giống như việc người lớn nuốt lời. Nói tên tiểu bang chúng tôi đến sinh sống, cả hai đứa đều tràn trề hy vọng sẽ được đến một nơi có thể thấy những cây bút viết vàng óng như những quả mọng lủng lẳng trên các cành và bụi cây, một nơi tha hồ hái quả. Chúng đã vô cùng thất vọng khi sự thật hoàn toàn ngược lại.
Mảnh đất nhà tôi mới thiếu đồ dùng học tập làm sao. Thay vào đó là những con chồn hôi, thú có túi, chuột chũi, và thường xuân độc xum xuê dọc ven bìa rừng, bám trên những cái cây, khiến tôi chỉ cần nhìn thôi đã muốn phát ban. Một sáng, khi đang dò dẫm trong bếp với cái máy pha cà phê, tôi ngó qua cửa sổ và thấy ánh mắt nhìn chằm chằm vào lưng mình của một con hươu đực sừng tám chạc vĩ đại. Sáng hôm khác thì có cả một gia đình gà tây rừng đi quanh sân sau, kêu gộp gộp kiếm mồi. Một ngày thứ Bảy, khi Marley và tôi đi bộ xuyên qua rừng xuống dưới đồi, chúng tôi bắt gặp một người bẫy chồn đang đặt bẫy, Một tay bẫy chồn! Gần như ngay trong sân sau nhà tôi! Giới chức Bocahontas sẽ xử lý thế nào với kiểu đột nhập đó?
Sống ở vùng nông thôn thấy vừa thanh thản, vừa thú vị - và cũng pha cả một chút cô đơn. Người dân quận Pennsylvania Dutch rất lịch sự, nhưng cũng thận trọng với người ngoài. Và chúng tôi đích thị là người ngoài rồi. Sau những đám đông tụ tập và xếp hàng ở Nam Florida, lẽ ra tôi nên thấy sung sướng mê ly với vẻ tĩnh mịch nơi đây. Thay vì thế, ít nhất là trong những tháng đầu, tôi lại trầm ngâm nghĩ về quyết định của chúng tôi khi chuyển đến một nơi hình như có quá ít người muốn sống.
Trong khi đó, Marley chẳng lo lắng gì. Ngoại trừ tiếng nổ từ khẩu súng của Digger, lối sống ở miền quê mới này cực kỳ thích hợp với nó. Với một con chó thừa năng lượng hơn là khôn ngoan, có gì không thích chứ? Nó chạy quanh bãi cỏ, đâm sầm qua những bụi gai, bì bõm lội qua lạch nước. Nhiệm vụ của đời nó là đi tóm một trong vô số những con thỏ dám nghĩ vườn nhà tôi là quầy sa-lat dành riêng cho chúng. Nó phát hiện ra một con thỏ đang nhai rau diếp và lao xuống đồi truy sát, tai bay phần phật đằng sau, chạy rầm rập, sủa vang trời. Nó định rón rén như hành quân, và chưa kịp lại gần con mồi quá chục bước thì con thỏ đã chạy thục mạng vào rừng. Đúng như đặc điểm của nó, nó luôn duy trì tinh thần lạc quan rằng thành công vẫn đang ở đâu đó phía trước. Nó lùi lại, ve vẩy đuôi, kiên nhẫn đến phút chót, và năm phút sau nó lại lặp lại y hệt. May thay, nó cũng không khá khẩm hơn trong việc rình bắt mấy con chồn hôi.
Mùa thu đến, kéo theo đó là một trò chơi tinh quái mới toanh: tấn công đống lá. Ở Florida, những cái cây không rụng lá vào mùa thu. Marley sung sướng nghĩ rằng những cái lá đang cuốn tung từ trên trời xuống là một món quà dành riêng cho nó. Khi tôi cào những chiếc lá cam và vàng thành một đống khổng lồ, Marley ngồi đó, kiên nhẫn quan sát, chờ đợi thời cơ, đợi tới đúng thời điểm thích hợp để tấn công. Chỉ sau khi tôi gom đống lá thành một đống to đùng trông rất chắc chắn, nó mới lén đến gần, núp thấp người xuống. Cứ mỗi bước nhỏ, nó lại dừng lại, nâng chân trước lên, hít hít không khí như một con sư tử trong vườn quốc gia Serengeti rình rập một con linh dương lơ đãng. Sau đó, ngay khi tôi dựa vào cái cào cỏ để ngắm nhìn thành quả do đích thân mình làm ra, nó lao tới, lấy đà nhảy liên tiếp băng qua bãi cỏ, còn vài bước cuối cùng thì bay lên và rơi đánh thụp vào giữa đống lá. Nó gầm gừ, lăn lộn, đập, cào bới, đớp. Và vì những lý do mà tôi cũng không rõ, nó điên cuồng đuổi theo cái đuôi của nó, không ngừng lại cho đến khi đống lá được xếp gọn gàng của tôi lại tung tóe trên bãi cỏ. Sau đó nó ngồi xuống giữa thành quả của nó, những mảnh vụn còn lại của đám lá dính chặt vào lông. Nó nhìn tôi một cách tự mãn, như thể sự đóng góp của nó là một phần không thể thiếu của quá trình gom lá.
Chúng tôi cứ ngỡ lễ Giáng Sinh đầu tiên của chúng tôi ở Pennsylvania sẽ toàn màu trắng. Jenny và tôi đã phải thương thuyết với Patrick và Conor rằng rời ngôi nhà và bạn bè ở Florida là tốt nhất. Một trong những điều kiện nổi bật nhất là lời hứa về tuyết. Không quan trọng là tuyết loại nào, nhưng có nhiều, mịn, những bông tuyết trong bưu thiếp, loại tuyết rơi từ trên trời xuống với những bông rất lớn, chất thành đống, và chắc chắn có thể nặn người tuyết. Tuyết ngày Giáng Sinh còn tuyệt vời hơn cả, là Chén Thánh của mùa đông phương Bắc. Chúng tôi cố tình làm chúng hoa mắt với hình ảnh buổi sáng Giáng Sinh đi bộ trên một vùng đất trắng xóa, chỉ trừ vết xe kéo của cỗ xe tuần lộc ngoài cửa sổ, như trong một tấm thiếp Currier and Ives.
Tuần trước ngày lễ lớn, ba đứa cùng nhau ngồi bên cửa sổ hàng giờ liền, mắt dán chặt vào bầu trời u ám như thể chúng có thể khiến bầu trời mở ra và tuôn xuống hàng đống tuyết.
- Nào, tuyết ơi! - Bọn trẻ hát.
Chúng chưa bao giờ nhìn thấy tuyết, Jenny và tôi thì chưa được nhìn trong một phần tư quãng đời vừa qua. Chúng tôi muốn có tuyết, nhưng những đám mây đen kia cũng chẳng chịu bỏ cuộc. Vài ngày trước Giáng Sinh, cả gia đình chui vào ô tô, đi đến một cánh đồng cách nửa dặm nơi chúng tôi chặt một cây vân sam, ngồi xe cỏ rong chơi và uống rượu táo cay xung quanh đống lửa. Đó là một kiểu kì nghỉ cổ điển kiểu miền Bắc chúng tôi đã bỏ lỡ ở Florida, nhưng vẫn thiếu một thứ. Những bông tuyết chết tiệt ở đâu không biết!? Jenny và tôi bắt đầu hối tiếc vì đã thiếu thận trọng, thổi phồng chuyện cơn mưa tuyết đầu tiên chắc chắn sẽ xảy ra. Khi chúng tôi kéo theo cái cây vừa mới cắt về nhà, mùi thơm ngọt của nhựa cây lan tỏa trong xe, bọn trẻ phàn nàn về chuyện bị lừa. Đầu tiên là không có những cây bút chì, bây giờ thì không có tuyết; bố mẹ chúng còn dối chúng điều gì nữa?
Sáng Giáng Sinh có một xe trượt băng mới toanh ở dưới gốc cây và đồ nghề trượt tuyết đủ để thực hiện một chuyến du ngoạn tới tận Nam Cực. Nhưng khung cảnh bên ngoài cửa sổ vẫn chỉ là những ngả đường trống trơn, những bụi cỏ im lìm, và những ruộng ngô ngả màu nâu. Tôi nhóm lò sưởi, bảo bọn trẻ cứ kiên nhẫn. Khi nào tuyết đến thì nó sẽ đến.
Năm Mới đến rồi mà tuyết vẫn chẳng thấy đâu. Kể cả Marley cũng thấy bồn chồn, cứ đi đi lại lại, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, khe khẽ rên rỉ, như thể nó cũng bị bán đứng vì lời hứa cuội của chúng tôi. Bọn trẻ quay trở lại trường sau kì nghỉ, và vẫn chẳng có gì. Ở bàn ăn sáng chúng ủ rũ nhìn tôi, người cha đã lừa dối chúng. Tôi bắt đầu đưa ra những lời xin lỗi không thỏa đáng, tựa như:
- Có thể những cô bé cậu bé ở nơi khác cần tuyết hơn chúng ta.
- Vâng đúng rồi bố ạ. - Patrick nói.
Bước sang tuần thứ ba của năm mới, tuyết cuối cùng cũng cứu tôi thoát khỏi ăn năn về tội lỗi của mình. Nó đến trong đêm, sau khi cả nhà đã ngủ. Patrick là người đầu tiên lên tiếng báo động, chạy vào phòng chúng tôi lúc bình minh, giật mạnh mở toang mành che.
- Trông kìa! Trông kìa! - Nó la lên - Nó đây rồi!
Jenny và tôi ngồi dậy trên giường để nhìn thấy minh chứng của chúng tôi. Một lớp màu trắng phủ trên những sườn đồi, những đồng ngô, những cây thông và những mái nhà, trải dài đến tận chân trời.
- Đương nhiên rồi, nó đây! - Tôi tỏ vẻ thờ ơ - Bố đã nói gì nhỉ?
Tuyết sâu gần ba chục phân và vẫn tiếp tục rơi. Ngay sau đó, Conor và Colleen chạy bịch bịch xuống phòng lớn, mút tay, những cái khăn kéo lê đằng sau. Marley đã dậy, vươn vai, đập đuôi vào mọi thứ, ra chiều thích thú lắm. Tôi quay lại phía Jenny nói:
- Anh nghĩ quay lại ngủ không phải một lựa chọn đâu.
Khi cô ấy thừa nhận đúng là không nên ngủ tiếp, tôi quay sang bọn trẻ, hét lên:
- Được rồi, lũ thỏ tuyết, mặc quần áo vào thôi!
Nửa giờ sau chúng tôi mới vật lộn xong với những cái khóa kéo, quần tất, xà cạp, mũ trùm đầu và găng tay. Xong xuôi, bọn trẻ trông như những xác ướp còn gian bếp nhà tôi thì như khán đài Thế Vận Hội Mùa Đông. Và đua tài trong Cuộc Thi Gã Ngốc Trượt Đồi, Giải Chó Mở Rộng, là... Chó Marley. Tôi mở cửa. Chưa ai kịp bước ra ngoài, Marley đã phóng qua chúng tôi, xô ngã cả Colleen được nai nịt quần áo kỹ càng. Ngay khi những ngón chân của nó chạm vào thứ màu trắng kì lạ - Ah, ướt! ah, lạnh! - ý nghĩ thứ hai lóe lên trong đầu nó và nó cố gắng thử đột ngột quay lại. Ai từng lái xe trên tuyết đều biết, bất ngờ hãm phanh rồi quay ngoắt 180 độ không bao giờ là một ý hay.
Marley phanh gấp một cái, thân sau tiếp tục trượt ra đằng trước. Nó ngã đập mạng sườn xuống rồi ngay sau đó đứng lên được, vừa kịp để lộn nhào một cái lên hiên trước rồi cắm đầu vào đống tuyết. Vài giây sau nó xuất hiện trở lại, trông nó như một cái bánh rán khổng lồ phủ đầy bột. Trừ cái mũi đen và hai con mắt màu nâu, cả người nó trắng toát. Con Chó Tuyết Abominable. Marley không biết cái gì đã làm nên cái chất xa lạ này. Nó đớp thử, cọ mặt vào tuyết. Rồi như một bàn tay vô hình từ trên trời thò xuống, thọc mạnh vào nó với một mũi thuốc kích thích khổng lồ, nó tăng tốc độ tối đa, chạy vòng quanh sân với những bước nhảy dài, cứ được vài mét lại lăn lộn, bổ nhào ra đất. Chơi với tuyết cũng vui y như đột kích bãi rác nhà hàng xóm vậy.
Để theo dấu vết của Marley trên tuyết cần phải hiểu thấu tâm tính hư hỏng của nó trước tiên. Đường đi của nó đầy những khúc lắt léo bất ngờ, những chỗ rẽ hay quay ngược lại đằng sau, những vòng tròn méo mó và những đường hình số tám, những đường xoắn ốc và những đường zíc-zắc, như thể nó đang theo đuổi vài thuật toán kì quái chỉ mình nó hiểu. Ngay lập tức bọn trẻ đi theo nó, xoay tròn và lộn nhào, nô đùa vui vẻ. Tuyết bám đầy mọi nếp gấp trên áo khoác ngoài của chúng. Jenny đi ra với bánh mì nướng phết bơ, những cốc ca cao nóng hổi, kèm một thông báo: hôm nay không phải đến trường. Tôi biết tôi sẽ không đời nào để chiếc Nissan nhỏ dẫn động hai bánh của tôi ra ngoài đường quá sớm, nữa là lên xuống những con đường núi ngập tuyết kia. Thế là tôi tuyên bố tôi cũng có một ngày nghỉ làm vì tuyết.
Tôi gạt tuyết ra khỏi cái vòng tròn bằng đá tôi làm vào mùa thu vừa rồi để đốt lửa trại ở sân sau. Tôi có ngay một đống lửa cháy lách tách. Bọn trẻ ngồi trên xe trượt tuyết, gào thét, trượt xuống dưới đồi, qua đống lửa trại và đến rìa rừng, Marley đuổi theo sau chúng. Tôi quay sang Jenny hỏi:
- Nếu một năm trước có người nói với em rằng các con em đang trượt tuyết ngay cửa sau nhà chúng, em có tin họ không?
- Không đời nào. - Cô ấy đáp, sau đó vo tròn và ném một quả bóng tuyết vào ngực tôi.
Tuyết vương trên tóc cô ấy, đôi má ửng hồng, hơi thở cô ấy tựa như những đám mây lơ lửng trên đầu.
- Lại đây và hôn anh đi. - Tôi dịu dàng.
Sau đó, khi bọn trẻ sưởi ấm bằng lửa, tôi quyết định thử chạy trên chiếc xe trượt tuyết, điều mà tôi lâu lắm chưa làm kể từ khi còn niên thiếu.
- Muốn đi cùng anh không? - Tôi hỏi Jenny.
- Xin lỗi, Jean Claude(30), anh tự đi đi. - Cô ấy đáp.
Tôi kéo chiếc xe trượt tuyết lên đỉnh đồi và ngả mình nằm lên nó, chống hai khuỷu tay, chân rúc vào mũi xe. Tôi bắt đầu lúc lắc để dịch chuyển. Chẳng mấy khi Marley có cơ hội được nhìn xuống tôi, và tư thế nằm của tôi như vậy chẳng khác nào một lời mời gọi. Nó rón rén tới gần, hít ngửi mặt tôi.
- Mày muốn gì thế? - Tôi hỏi, và đó là tất cả lời chào mừng nó cần.
Nó trèo, cưỡi lên và áp vào ngực tôi.
- Tránh xa tao ra, đồ ngu! - Tôi gào lên.
Nhưng quá muộn rồi. Chúng tôi đã trôi về phía trước, tốc độ tăng lên khi chúng tôi bắt đầu trượt xuống.
- Chúc thượng lộ bình an! - Jenny hét đằng sau chúng tôi.
Chúng tôi trượt xuống, tuyết rơi. Marley đè chặt lên người, liếm láp khắp mặt tôi khi cả hai lao nhanh xuống dốc. Với tổng cân nặng kết hợp, chúng tôi có đà hơn nhiều so với bọn trẻ, và chúng tôi đã vượt qua điểm xe trượt của bọn trẻ chậm lại khi tới đó.
- Bám chắc lấy, Marley! - Tôi thét lên - Chúng ta sắp bay vào rừng!
Chúng tôi vụt qua một cây óc chó to, sau đó giữa hai hàng cây anh đào dại, thật kỳ lạ chúng tôi tránh được tất cả các chướng ngại vật cứng rồi mới đâm sầm vào bụi cây, những bụi gai kéo mạnh chúng tôi. Tôi bất chợt nhận ra rằng ngay trước mặt chỉ còn cách bờ sông vài bước, và nó không bị đóng băng. Tôi cố gắng dùng chân để phanh, nhưng chúng lại bị mắc kẹt. Bờ sông thì dốc, gần như dựng đứng. Vậy là tiêu rồi. Tôi chỉ kịp ôm choàng lấy Marley, nhắm tịt mắt lại, hét toáng lên:
- Aaaaaaaaa!
Xe trượt tuyết của chúng tôi liệng trên bờ sông và rơi xuống dưới. Tôi cảm thấy mình như đang ở một trong những khoảnh khắc của bộ phim hoạt hình kinh điển, ngừng lại trong không trung một giây nhưng dài tưởng chừng vô tận trước khi rơi xuống và bị thương thê thảm. Chỉ có trong bộ phim hoạt hình này tôi mới được gắn chặt với một con chó tha mồi Labrador điên dở mép đầy nước dãi. Chúng tôi bấu chặt lấy nhau khi hạ cánh xuống bờ sông phủ tuyết đánh bụp một cái, và với nửa người đã ra khỏi xe, chúng tôi trượt xuống rìa nước. Tôi mở mắt ra thử kiểm tra tình trạng của mình. Tôi có thể ngọ nguậy mấy ngón chân, ngón tay, quay cổ; không gãy cái gì. Marley đã dậy và nhảy chồm chồm quanh tôi, háo hức mong được làm lại lần nữa. Tôi đứng dậy rên rỉ, phủi quần áo, lẩm bẩm:
- Mình đã quá già cho những thứ này.
Rồi những tháng tới đây, rõ ràng Marley cũng sẽ như vậy.
Gần cuối của mùa đông đầu tiên ở Pennsylvania tôi bắt đầu để ý thấy Marley vừa bước qua tuổi trung niên và sang tuổi nghỉ hưu. Nó sẽ được chín tuổi vào tháng Mười hai này. Nó sẽ chậm chạp hơn một chút. Tuy nhiên nó vẫn sở hữu nguồn năng lượng được-bơm-thuốc-kích-thích, không thể kiềm chế như nó từng có trong trận tuyết rơi đầu tiên. Nhưng bây giờ năng lượng của nó đã ít hơn, tần suất thưa hơn. Nó tạm bằng lòng với việc ngủ gà gật gần như cả ngày. Trong những chuyến đi dạo thì nó mệt trước cả tôi. Lần đầu tiên có chuyện như thế kể từ khi chúng tôi biết nhau. Một ngày cuối đông, nhiệt độ tăng lên trên mức đóng băng. Trong không khí thoang thoảng mùi hương mùa xuân ấm áp. Tôi dẫn nó xuống dưới đồi nhà tôi rồi leo lên một ngọn đồi kế bên, thậm chí còn dốc hơn đồi nhà tôi. Nhà thờ trắng được xây dựng trên đỉnh ngọn đồi đó. Bên cạnh là một nghĩa trang cũ, nơi những cựu chiến binh của Cuộc Nội Chiến an nghỉ. Đó là một cuộc dạo chơi quen thuộc. Mới mùa thu trước nó còn chạy trước tôi mà không cần tốn sức, cho dù đường đi có dốc thế nào. Vậy mà lúc này, nó đang rớt lại đằng sau. Tôi dỗ ngọt nó suốt, gọi to những lời khuyến khích, nhưng trông nó như một món đồ chơi chầm chậm sắp hết pin. Marley không đủ sức leo tới đỉnh. Tôi dừng lại để nó nghỉ ngơi trước khi tiếp tục, một việc mà tôi chưa từng làm trước đây.
- Mày không định lấy lòng tao đấy chứ hả? - Tôi hỏi, cúi người xuống vuốt ve mặt nó với đôi bàn tay đeo găng.
Nó nhìn tôi, đôi mắt sáng lên, cái mũi ướt, gần như không quan tâm năng lượng của nó đang yếu đi. Nó tỏ vẻ hài lòng, nhưng vẻ kiệt sức cũng hiện rõ trên mặt, như thể cuộc sống không thể tốt hơn lúc này, được ngồi bên vệ đường ở miền quê vào một ngày cuối đông khô lạnh, có chủ ngồi bên cạnh.
- Nếu mày nghĩ tao sẽ bế mày - Tôi nói - Thì hãy quên chuyện đó đi.
Ánh mặt trời chiếu lên mình nó. Và tôi để ý khuôn mặt vàng nâu của nó đã sạm đi nhiều như thế nào. Bởi vì lông nó quá sáng, trông khó phát hiện, nhưng không thể phủ nhận được. Mõm và trán nó đã chuyển từ màu nâu sẫm sang trắng. Chúng tôi đã không thực sự nhận ra nó, con chó con-mãi-mãi-là-chó-con của chúng tôi đã trở thành một công dân cao tuổi.
Điều đó không nói lên rằng nó cư xử đúng mực hơn. Marley vẫn có khả năng làm hết những trò hề cũ của nó, có điều với nhịp độ chậm hơn. Nó vẫn ăn trộm đồ ăn trên đĩa thức ăn của bọn trẻ. Nó vẫn lấy mũi ẩn nhẹ để mở nắp thùng rác ở bếp và lục lọi bên trong. Nó vẫn rất hăm hở. Vẫn nuốt chửng một đống các vật dụng trong nhà. Vẫn uống hết nước trong bồn tắm và vẫn nhỏ dãi bừa bãi. Khi bầu trời tối sầm lại, sấm nổ đùng đùng, nó vẫn hốt hoảng và nếu ở một mình, nó sẽ quay ra phá phách. Một hôm chúng tôi về nhà thì thấy Marley ướt đẫm mồ hôi còn cái đệm của Conor thì méo xẹo.
Qua nhiều năm, chúng tôi trở nên thản nhiên với các thiệt hại. Bây giờ thì ít hơn vì chúng tôi đã tránh xa những cơn bão quen thuộc hàng ngày ở Florida. Trong đời một con chó, một vài mẩu vữa sẽ bị tróc, một vài cái đệm sẽ bị chọc thủng, vài cái thảm trải sàn sẽ bị xé vụn. Giống như mọi mối quan hệ, điều này cũng có giá của nó. Đó là cái giá chúng tôi chấp nhận trả cho niềm vui, trò giải trí, sự bảo vệ lẫn tình bạn mà nó mang lại cho chúng tôi. Chúng tôi có thể mua một cái du thuyền nhỏ với những khoản chúng tôi đã phải chi trả cho Marley và tất cả những gì nó phá hoại. Nhưng đổi lại, bao nhiêu cái du thuyền sẽ đứng cửa chờ bạn trở về cả ngày? Bao nhiêu cái có thể sống với những khoảnh khắc chúng trèo vào lòng bạn hoặc lao xuống đồi với bạn trên một cái xe trượt tuyết, rồi liếm mặt bạn?
Marley đã có được vị trí trong gia đình chúng tôi. Như một ông chú lắm mưu mẹo nhưng lại được yêu mến, nó chính là nó. Nó sẽ không bao giờ là Lassie, Benji hay Old Yeller(31). Nó chẳng bao giờ đến được hội thi Westminster hay thậm chí là hội chợ của hạt. Giờ chúng tôi đã hiểu điều đó. Chúng tôi cho phép nó là nó, và yêu nó nhiều hơn vì thế.
- Mày đúng là một ông già. - Tôi tóm lấy cổ nó nói, bên vệ đường, vào cái ngày cuối đông ấy.
Mục tiêu của chúng tôi, nghĩa trang, vẫn còn một quãng đường dốc phải trèo ở phía trước. Nhưng còn trong cuộc đời, tôi luận ra rằng, đích đến không quan trọng bằng đường đi. Tôi khuỵu một chân xuống, lấy tay vuốt ve người nói:
- Chúng ta ngồi lại đây một chút nhé.
Khi nó đã sẵn sàng, chúng tôi quay trở lại xuống đồi và về nhà.