1.Chỉ một đêm ấy thôi mà hai mươi năm lùi xa Hàm vẫn không thể nào quên. Thuốc ngủ gây thiếp đi thì thôi, chứ trằn trọc, Hàm lại nhớ cái đêm mãn cuộc năm bảy lăm ở Sài Gòn. Bảy nghìn đêm rất nhiều lận đận ở xứ người không nhớ, sao lại chỉ nhớ một đêm đã xa xôi? Anh đã vật lộn sống đến ngày hôm nay đâu chỉ một đêm. Có lúc Hàm tự hỏi mình như thế. Vậy mà một đêm ấy với anh lại là tất cả. Một đêm hỗn loạn, ảo tưởng, điên rồ và bạo lực. Một đêm tưởng trút bỏ hết để chạy đi, mà rồi thời gian lắng lại thì đêm ấy, ở nhà phố bờ sông hóa ra chứa đựng tất cả đau đớn mà anh phải chịu, hạnh phúc mà anh có thể có, càng chạy xa, càng mất mát. Một đêm khi chạy trốn không hẹn ngày về, mà bây giờ anh tự nguyện quay trở lại với người đàn bà cũng chỉ ân ái một đêm chiến tranh vội vã trên bờ sông Sài Gòn gió thổi ràn rạt trong bãi lau hoang nhập nhoạng đom đóm và tiếng dế rả rích.
Một đêm là cả cuộc đời.
Bây giờ là bảy nghìn đêm sau cái đêm đáng nhớ ấy, Hàm quyết định quay về.
Chuyến đi của anh có vẻ đường đột với vài người bạn ở thành phố sa mạc Lamcaster, nhưng với anh không phải không có chuẩn bị. Thực sự anh đã âm thầm lo liệu cho chuyến đi này từ lâu, cả về tiền bạc và tinh thần sẵn sàng quỳ gối trước Tư để xin bỏ qua cho anh những lầm lẫn từ hai mươi ba năm trước, khi anh còn là sĩ quan biệt động của quân đội Sài Gòn, một trong số ít đã tử thủ đến phút cuối cùng, trước khi Quân giải phóng tràn ngập thành phố.
Anh viết thư gửi về cho cô em gái nói về chuyện riêng cần dàn xếp trong chuyến về thăm nhà sắp tới. Cô bác trong gia đình đều sống dưới đồng bằng, ruột rà ở thành phố chỉ còn cô. Ngày anh ném bỏ tất cả để chạy di tản, cô em đang học piano năm cuối Nhạc viện Quốc gia Sài Gòn, ở với má. Anh gượng dậy trên võng, nắm chặt tay em, bảo: “Bỏ hết, dắt má theo anh. Sài Gòn không còn là đất sống của nhà ta nữa”. Cô em không những không nghe mà còn khuyên anh nên ở lại với má, với em, cả với ba sắp trở về. Anh gạt tay em gái, rồi giục hai tên lính khiêng anh đi. Bấy giờ má ngồi chết lặng ở góc phòng. Nay ba má đã mất, cô em gái là bến đỗ anh về quê, đồng thời là mối liên lạc của anh với người đàn bà mà nhiều năm anh không nói với ai. Anh đã phụ bạc người ấy, từ chối cái thai người ấy đang mang, ném bỏ người ấy ở lại giữa thành phố trong lúc cuộc chiến sắp kết thúc, nhưng hỗn loạn, mù mịt. Nay nghĩ lại, anh nhiều lần qua em gái gửi thư cho cô ngàn lần xin lỗi, ngàn lần ân hận xin được chắp nối lại tình xưa, bù đắp lại những gì em đã khổ đau, anh đã lỡ để mất. Nhưng Tư im lặng. Lần đầu mới đây Tư có thư gửi anh, chỉ mấy dòng: “Xin anh để mẹ con tôi được yên”. Anh thật sự nản lòng, định bỏ chuyến về quê sau mấy dòng hồi đáp lạnh lẽo. Nhưng em gái lại trách, anh vẫn như ngày xưa, nóng vội và đơn giản. Người đàn bà còn giận, là người ta còn thương. Người ta yêu thương lặng lẽ và giãn cách để xét đoán chứ đâu ồn ào vồ vập như đàn ông. Anh lại thấy le lói niềm tin chắp nối mối tình anh đánh mất, không còn so đo gì nữa, anh quyết định trở về.
Jena - Cô gái Mỹ gõ cửa khi anh đang thu xếp va-li.
“Sao anh không nói chuyện về Việt Nam với em?”.
“Thì bây giờ anh nói”.
“Em cùng đi với anh” - Jena nói dứt khoát.
Jena là bạn gái của Hàm ở thành phố cổ hoang Lamcastes. Cô có chồng, một người đàn ông bản địa, “chiếc xe bò cục mịch”, cô nhận xét về đức lang quân như vậy và chỉ đôi khi mới đến với Hàm, giống như ở nhà lâu buồn chán thì đi píc-ních. Lamcaster ít người Việt, Hàm cảm thấy lạc lõng mỗi khi ra phố. Vì thế ngoài công việc hằng ngày buộc phải ra đường để lái xe vận tải cho một xưởng làm giày, còn lại anh ở lì trong nhà với số thực phẩm tuần đi siêu thị một lần. Tin tức thành phố đến với anh qua Jena. Hai người không hứa hẹn điều gì ngoài tình bạn, mặc dù vẫn thường bước quá giới hạn. Tính Jena quả quyết, đã nói thì làm, ít khi hai lời. Hàm không muốn Jena đi cùng chuyến này vì sẽ rất rắc rối. Anh chỉ có thể trì hoãn Jena bằng cách nói ra sự thật của chuyến trở về. Không có sự hòa hoãn nào tốt hơn với phụ nữ là nói thật với họ. Jena cũng vậy.
“Chuyến này vì anh có những chuyện gia đình…”.
“Chuyện về cô em gái? Em sẽ nói với chồng em cùng đứng ra bảo lãnh để cô em gái sang sống với anh”.
“Cô em gái của anh không có ý định sang đây. Việc của anh là với một người đàn bà…”.
“Anh chưa bao giờ nói với em về người đàn bà này”.
“Thì bây giờ anh nói. Người ấy…”.
Jena đặt tay lên miệng Hàm:
“Thôi, anh khỏi phải nói. Đàn ông thường có những người đàn bà bí mật. Nhìn vào mắt anh, em biết, anh đang bối rối. Em không phải cha xứ để anh xưng tội. Làm tình với em đi, rồi anh đi một mình, hiểu chưa?”.
Hai người lại đánh vật trên chiếc giường cá nhân rồi Hàm mới được rảnh rỗi gặp Huy vừa từ Cali xuống Lamcaster mấy hôm nay. Anh chàng có sự vụ làm ăn gì đó ở đây mà anh không tiện hỏi.
Anh và Huy biết nhau vì trước khi lưu lạc sang Cali họ đều từng là sĩ quan chỉ huy đại đội biệt động quân, lính chọn của quân lực Sài Gòn. Huy khá nổi tiếng về gan góc trận mạc, từng được gắn Lục quân Huân chương đệ nhị hạng, là đại đội phó đại đội biệt động quân chốt giữ trên ngọn đồi 51 Quảng Trị, nhưng bị Quân giải phóng tiến công, vỡ trận phải tháo chạy vào cửa Thuận An chờ tàu hốt vào Đà Nẵng, theo kế hoạch triệt thoái Vùng một chiến thuật của tổng thống Thiệu. Loanh quanh trên bãi biển đầy lính cướp phá suốt một đêm, Huy bị mấy cô du kích Thuận An đi dẹp loạn tóm sống. Gần chục năm sau mới được đặt chân lên đất Mỹ, Huy viết vội hồi ký Tháng ba gãy súng cho bõ tức vì thua trận, xuất bản ở Mỹ, bán cho bà con người Việt, chủ yếu ở quận Cam. Hàm đọc, quý tính bộc trực đôi khi văng mạng kiểu lính tráng biệt động của Huy, nhưng anh lại không đồng tình với việc Huy cho rằng quân Sài Gòn thất trận năm bảy lăm là do “gãy súng” mà không được Mỹ tiếp viện nên không chống lại được cuộc Tổng tiến công mạnh mẽ của Quân giải phóng. Hàm bảo Huy, tháng ba năm bảy lăm, vũ khí và phương tiện chiến tranh của quân đội Sài Gòn, từ lục quân, thủy quân, dù và biệt động đến thiết xa và không quân còn đủ trang bị tận chân răng, đánh nhau mấy năm nữa vẫn dư dả. Cái thiếu là dũng khí và mưu lược quân sự từ lính đến quan, từ bộ tham mưu đến tổng tư lệnh. Quân giải phóng mới đánh một trận mà cha con đã ôm đầu tháo chạy khỏi cao nguyên Trung phần và Vùng một chiến thuật. Thiệu lệnh rút bỏ Huế, Đà Nẵng tưởng chạy đến Phan Rang thì trụ lại lập phòng tuyến cầm cự, nhưng rồi lại chạy tiếp. Người ta thì tính chuyện xông tới, còn mình thì chỉ lo tháo chạy. Ấy là chưa kể họ tiến đến đâu, dân chúng chào đón họ đến đó. Vậy thì mình còn đánh cho ai, đánh nhau để làm gì? Tổng thống Thiệu hăng hái nhất trong đám mặt to của Sài Gòn, muốn sinh tử với Quân giải phóng, nhưng thấp hơn đối thủ mấy cái đầu, ra các lệnh lãng xẹt. Bỏ cao nguyên là cái ngu đầu tiên. Rồi triệt thoái khỏi Vùng một chiến thuật là cái ngu tiếp theo. Rồi dọc duyên hải miền Trung đến Phan Thiết cũng bỏ nốt. Tổng thống Thiệu cố gượng dậy lập phòng thủ Xuân Lộc giữ lấy Sài Gòn, tung cả chục vạn lính vào đây cũng chỉ để kìm chân đối phương cho quan chức và tướng lĩnh lo việc di tản chứ chống làm sao được đà tiến của các binh đoàn Quân giải phóng. Hăng hái chống Cộng là Thiệu bị bãi, buộc phải trao quyền cho Trần Văn Hương. Minh lớn - một kiểu người nấp bóng chờ thời nhảy ra tiếp quản phủ Đầu Rồng. Minh lớn chờ mở sòng bài chính trị, lập chính phủ liên hiệp kiếm chút thanh danh ở phút tàn cuộc, chứ đâu lên tổng thống để tổ chức chống lại cuộc tiến công của phía bên kia. Anh lính giải phóng đầu tiên chạm mặt Minh lớn, tuyên bố thẳng thừng, các anh không còn gì bàn giao, chỉ có đầu hàng. Thua vì hèn, dốt, dở ẹc, chứ đâu vì gãy súng…
Hàm và Huy trái ngược nhau về nguyên nhân thua cuộc. Ở bên này đám người di tản năm bảy lăm vẫn thường ngược nhau về “thắng - thua” rồi ôm hận ra vẻ yêu nước lắm, nhưng đâu có phải. Họ chửi bên thắng để lấy lòng Mỹ, mong Mỹ nuôi, nhưng người Mỹ đã đổi khác. Người như phó tổng thống Kỳ nói trắng phớ, người ta mạnh, người ta phải, người ta thắng là hợp lẽ, còn hằm hè cái nỗi gì. Huy cũng cay cú không chấp nhận thua cuộc, thề sống để bụng, chết đem theo chứ không mở mắt mà nhìn Sài Gòn hoa lệ nhảy múa trong tay họ. Hàm thì ngược lại, càng ngày nỗi buồn thua cuộc càng nguôi ngoai, tìm đường về lại quê hương.
Với lại Hàm còn nặng lòng với đời tư ở quê nhà.
Nghe Hàm nói bay về Sài Gòn trên chuyến bay của hãng hàng không Japan Ailines, Huy ngồi uống gần hết ly cà phê, mới vươn người về phía người đối diện:
“Cuối cùng, sau kế đánh bài chuồn, ông chọn kế quay đầu quy phục. Kế này xem ra ông trung tá biệt động quân chỉ là thằng ngã ngựa, phủi áo đứng dậy, cười trừ với kẻ đi sau mình vượt qua”.
Hàm đẩy bao thuốc Salem về phía Huy:
“Họ không còn xem ta là kẻ ngã ngựa. Họ cũng đâu cần ai quy phục!”.
“Vậy họ cần gì, ông Hàm?”.
“Họ cần hòa hợp”.
“Họ là đấu tranh” - Huy vung tay - “Suốt đời với họ đấu tranh. Mở mắt, nhắm mắt đều đấu tranh chứ đâu cần hòa hợp và hợp tác với đám người vong quốc? Ta cho rằng kẻ thắng vẫn muốn chưa nguội cơn say, thích cười ngạo khi thấy kẻ thua phủ phục dưới chân”.
Sắp chia tay nhau, đâu phải lúc tranh luận.
Hàm nhẹ nhàng bảo Huy:
“Bây giờ họ mạnh hơn ta nghĩ. Họ cần trên dưới hòa hợp, hợp tác để yên ổn làm ăn chứ đâu xét nét phân biệt ai thắng, ai thua. Người thắng thường không nghĩ mọn”.
Huy cười trừ, đứng dậy, nói:
“Thôi, chúc ông về quê bình an. Bình an và không bị sỉ nhục, ông nhớ chưa? Làm thế nào để được bình an và không bị sỉ nhục thì thằng lính biệt động quân phải biết. Ông cho tôi hỏi thăm cô Nhu và gửi tặng cô vật kỷ niệm này” - Huy chìa ra chiếc băng cát-xét cũ - “Ông nói với cô ấy tôi vẫn nhớ những đêm nhạc phòng trà ở Nắng Sài Gòn. Thời lửa đạn mịt mù mà đêm lại được nghe cô ấy đàn Bốn mùa của Antonio Vivaldi cho nghe thì thật tuyệt. Tôi ghi lại tiếng đàn của Nhu, giữ đã mấy chục năm. Còn đây là lá thư tôi gửi thăm gia đình. Ba má tôi ở phía bên kia cũng mất cả rồi. Ổng cũng là văn nghệ sĩ đấy, nhưng không được tin dùng, có lẽ do thằng con là tôi nên ôm hận. Tôi gửi cho người thân trong họ. Ông bỏ vào hòm thư giùm, là xong. Tôi nói lại, thua thì tôi chịu, nhưng tôi không thể đứng nhìn họ ở Sài Gòn”.
Bỗng nhiên Hàm thấy thương Huy. Hàm định nhịn, quay đi, nhưng lại nghĩ, nên nói với Huy vài lời trước khi về Sài Gòn, để ít ra Huy tìm lại thăng bằng hơn trong những ngày xa quê. Lâu nay Huy và Hàm hay ngồi với nhau, nhưng toàn chuyện tào lao, đâu nói cho cặn kẽ để bỏ đi những mộng tưởng.
“Ông Huy này” - Hàm nói - “Tôi sang Mỹ trước ông hơn mười năm. Tôi đặt chân lên đất nước này ngay sau cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài hai mươi năm vừa kết thúc. Bấy giờ ở đâu trên nước Mỹ, chiến tranh Việt Nam cũng được nhắc đến và thương phế binh thì tụ tập biểu tình đòi quyền lợi. Lạ là trong không khí ấy, nhiều người Mỹ lại dửng dưng chứ không đau khổ vì vết thương thua trận. Và rất ít người tỏ ra thương xót vì cái mà người ta thường gọi “chế độ Việt Nam Cộng hòa” bị Cộng sản xóa sổ chỉ trong hơn năm mươi ngày. Vì sao vậy? Tôi ở giữa nước Mỹ, dần hiểu người Mỹ. Cũng như nhiều nước lớn khác, họ có cách tính lợi ích nước lớn cho riêng họ, chứ không phải tính cho nước nhỏ. Nước nhỏ như Việt Nam, hoặc nhỏ lại một nửa là miền Nam Việt Nam thì chỉ là con tốt trên bàn cờ chiến lược vì lợi ích của họ mà thôi. Người Mỹ vội vàng lập ra cái chính thể và đội quân đi cùng ở Nam Việt Nam để giúp Mỹ ngăn chặn sự tràn ngập của Cộng sản. Bấy giờ, sau khi Cụ Hồ thắng Pháp ở Điện Biên Phủ, Cộng sản được tung hô khắp nơi, đặc biệt là ở các nước thuộc địa của nước lớn. Người ta học Cộng sản Việt Nam do Cụ Hồ lãnh đạo để giải phóng dân tộc. Thấy vậy, chóp bu Mỹ nóng ruột lắm, phải tính ngay bài toán ngăn chặn đà thắng của Cộng sản trên toàn cầu, ít nhất là ở Đông Nam Á. Lấy người Việt ngăn chặn người Việt là thượng sách. Thế là cái gọi là “Việt Nam Cộng hòa” ra đời, được Mỹ ưu ái nuôi đến tận chân răng. Không dễ dàng đánh lại quân của Cụ Hồ từng kết liễu quân Pháp ở Điện Biên, Mỹ kéo cả nhiều nước Đồng Minh vào cuộc. Càng đánh nhau, người Mỹ chợt nhận ra Cộng sản Bắc Việt họ mới thật sự là đại diện cho dân tộc Việt. Họ có tinh thần dân tộc rất cao, có mục tiêu và lý tưởng chiến đấu rõ ràng là giải phóng dân tộc, xây dựng hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân. Mục tiêu cao cả ấy được dân chúng ủng hộ, chứ không phải như chính quyền Nam Việt Nam không có mục tiêu cụ thể nào trong hành vi ăn lương Mỹ để chống lại kẻ thù mà họ tưởng tượng ra mọi thứ xấu. Người Mỹ thực dụng, khi họ đã nhìn thấy những sai lầm trong việc gây ra cuộc chiến tốn kém lại không mục đích ở tận bên kia bán cầu thì họ lặng lẽ trả lại đất nước Việt Nam cho bên đang thực hiện khát vọng chính đáng là độc lập dân tộc của họ. Đừng nói người Mỹ thất hứa với chính quyền Việt Nam và bỏ cuộc. Nói cho cùng người Mỹ không thua cuộc. Họ làm công việc có ích là biết lặng lẽ rút lui cho Việt Nam hòa bình”.
Hàm nói một mạch, rồi nắm lấy tay Huy, lắc lắc, thay một lời nói chia tay.
Hơn hai mươi giờ sau Hàm đã đứng trước khung trời khác.
Khung trời rộng, ráng đỏ còn rực lên ở chân trời phía tây. Ở phía xa kia là nhà anh. Anh kéo va-li ra khỏi nhà ga sân bay Tân Sơn Nhất. Sài Gòn vừa qua một cơn mưa cuối chiều mùa hạ, để lại không khí vào đêm ấm hôi hổi, mặt đường láng bóng dưới ánh đèn. Xe ôm và tắc-xi thân thiện mời chào nhưng Hàm từ chối để thả bộ, gặp lại những gì vẫn nhớ da diết bấy lâu nay. Thành phố nhiều thay đổi. Xa chiến tranh đã lâu, lối sống năng động của người Sài Gòn tràn ra mặt đường ào ào mưu sinh. Giữa xôn xao tiếng người, Hàm chợt thấy mình là một bộ phận của đám đông, nghe được tiếng của đám đông, kể cả mừng vui và cáu giận của đám đông, chứ không phải thừa ra, không đơn lẻ, cô quả thường trực của người sống ở Lamcaster như cái bóng da vàng.
Hàm đi về phía phố bờ sông, hít thở cái mùi đặc sệt Sài Gòn một thời được trộn lẫn hương vị các quán ăn và mùi trái sầu riêng chín ngấu. Thoáng gặp một cơn gió sông mát rượi thoa nhẹ lên mặt, Hàm rùng mình, thèm một cơn mưa giội xuống. Những cơn mưa bất chợt của nơi đây chỉ đi xa mới thành thương hiệu, thành nỗi nhớ. Có lần Vân Tuyết, cô ca sĩ phòng trà ở đầu đường Hai Bà Trưng, địa chỉ quen thuộc của đám sĩ quan biệt động quân cũng bị cuốn sang Mỹ năm bảy lăm, cùng ở Lamcaster, chạy vào phòng Hàm kêu lên: “Cho em một cơn mưa để em đỡ nhớ Sài Gòn”. Hàm phải làm cho Vân Tuyết một cơn mưa Sài Gòn bằng chiếc vòi phun trong phòng tắm. Lamcaster là thành phố sa mạc, đã mưa thì rền rĩ sấm chớp kinh người, lâu lắm rồi Vân Tuyết mới lại hưởng cái cảm giác mưa bất chợt ào qua không sấm chớp.
Tiếc thay Vân Tuyết không đồng hành với anh trong chuyến đi này.
Hàm dừng lại trên vỉa hè, gọi điện cho cô em gái báo rằng anh đã về đến Sài Gòn đang thả bộ trên phố bờ sông. Giọng Nhu reo trong máy, chúc mừng anh về quê an toàn. Cô báo cho anh biết, vợ chồng cô đã dọn về ở chung cư, căn nhà của ba má vẫn khóa cửa để đấy. Vì biết anh về, cô khóa lại bằng chiếc khóa cũ, hy vọng anh vẫn còn giữ chìa để vào nhà. Cô đang biểu diễn ở miền Trung, vài ngày nữa mới về Sài Gòn. Còn chồng cô đi công tác. Anh cứ về nhà nghỉ ngơi vài ngày chờ cả nhà sum họp.
Hàm nghĩ, không thể về nhà ở một mình, anh hướng tới một khách sạn nhỏ nằm bên đường phố ven sông, khách sạn Con Gà. Hơn hai mươi năm trước, khách sạn xây theo kiến trúc Trung Quốc này là một công trình bề thế trên khu phố nhỏ, đứng ở đầu phố, cuối phố vẫn nhìn thấy con gà trống mổ thóc giữa hai chiếc đèn lồng màu đỏ trên nóc. Tầng bốn trên khách sạn có dãy phòng đỏ, đầy nhóc điếm rẻ tiền cho lính giải khuây. Ngày đại đội còn ở Sông Bé, mỗi lần có công chuyện về Sài Gòn, Hàm lăn lóc ở dãy nhà đỏ đó. Phan Nhật Nam viết rằng, không rượu và gái, không phải sĩ quan quân đội Sài Gòn. Rượu và gái giữ cho thằng lính thăng bằng lại sau chiến trận, cổ vũ họ ham sống để rồi quay về đơn vị mà có tiền để lại lăn lóc với gái. Bây giờ khách sạn vẫn còn đấy, nhưng không còn con gà trên nóc, nhỏ bé và khép nép giữa những nhà hàng cao tầng bán hàng hiệu. Có lẽ dãy phòng đỏ cũng không còn, vì ở cửa khách sạn có dòng chữ “nhiệt liệt chào mừng…”, người ta sắp đón đoàn khách nào đó. Phố bờ sông đây rồi. Hàm sinh ra ở đây, lớn lên ở đây, và chạy trốn cũng từ nơi đây.
Ở quầy lễ tân, cô gái nhìn tấm hộ chiếu của Hàm, nhẹ nhàng cất tiếng:
“Dạ thưa, ông mới từ bển về...”.
Hàm hơi chột dạ, bởi từ lúc đặt chân về đây, bây giờ mới có người nhận ra anh từ Mỹ về. Có rủi ro gì vì sự phát hiện danh tính ngoại kiều của mình không? Đã có người từng về thăm nhà ở Sài Gòn, trở lại Cali, căn dặn Hàm, nếu có ai ở Việt Nam hỏi anh sang Mỹ từ hồi nào, đừng nói di tản năm bảy lăm, mà bảo, gia đình sang Mỹ từ trước đó. Họ ít thiện cảm với người di tản năm bảy lăm. Hàm nhìn cô lễ tân, lựa lời:
“Có việc gì không cô?”.
Cô gái lắc đầu, tươi cười đặt trước mặt Hàm chiếc chìa khóa ghi số phòng đã xóa nhanh nghi ngại của anh. Hàm lật xem tấm thẻ ghi số phòng có chiếc chìa khóa, nói:
“Xin cô cho ở lầu cao hơn, được không?”.
Cô lễ tân nhẹ nhàng:
“Dạ thưa, e phòng trên cao, nước trong phòng tắm không mạnh”.
Nói vậy, nhưng cô lễ tân vẫn đổi cho Hàm chìa khóa phòng cao hơn.
“Dạ... Mời ông lên lầu”.
Căn phòng hạng trung trải ga trắng, có điều hòa và nước nóng. Hàm cố ý chọn ở trên lầu cao để có thể nhìn ra chiếc cầu sắt sáu nhịp sơn trắng bắc qua sông. Giờ này, cầu Cây Bông chỉ còn là một hàng đèn dăng dài từ bờ bên này sang bờ bên kia.
Anh chàng phục vụ lễ tân kéo va-li lên phòng, rồi cúi lưng chào khách quay ra.
Hàm bước vào bồn, ngả người, nước dâng lên vồng ngực. Anh chưa vội gội đầu mà nằm gối lên bệ bồn sứ trắng, hưởng cái cảm giác khoan khoái. Hơn hai mươi năm mới được tắm nước Sài Gòn. Hàm vốc một vốc nước xoa lên mặt, rồi với tay về phía kệ để xà phòng, lấy thuốc, bật lửa, châm thuốc, hút một hơi thật sâu, nhắm mắt, thả nhẹ những vòng khói trắng. Đột nhiên Hàm nhớ đến mấy câu thơ của Longfellow mới đọc trên máy bay: Đừng than khóc điều gì trong quá khứ. Hãy ước ao gì đó của tương lai. Khói thuốc và cả tiếng nước óc ách trong bồn thả Hàm trôi đi với bao kỷ niệm Sài Gòn, rồi hiện lên căn phòng tầng trệt, bên này kê chiếc đàn piano, bên kia là bộ xa-lông tiếp khách. Hàm lớn lên trong căn nhà này, và ra đi cũng từ căn nhà này.
2. Hàm đã định ra phố thì điện thoại trong túi lại réo.
Chưa kịp nói, Jena hét trong máy:
“Ông Huy hôm qua đánh nhau với một cựu binh sĩ Mỹ ở quán rượu”.
“Sao em lại ở đấy?”.
“May mà em ở đấy. Họ cãi nhau về cuộc chiến. Các ông lính bao giờ cũng rút chân khỏi cuộc chiến chậm so với thiên hạ nửa thế kỷ. Tay cựu binh bảo:
“Chúng tao vẫn chơi với người Việt”.
Huy nói:
“Vậy chúng tao là gì?”.
Tay cựu binh bảo:
“Dick! Anh có biết tiếng lóng của lính nói “dick” là thế nào không? Là cơ quan sinh dục đó”. Thế là họ lao vào nhau. May mà có em và “lão xe bò” vội đẩy mỗi người về một phía. Bao giờ ông quay lại Cali đấy?”.
Hàm nói anh vừa đặt chân đến Sài Gòn và chưa biết ngày quay lại Lamcaster.
Anh mở rộng cửa sổ căn phòng, thấy sông Sài Gòn sáng lấp lánh trong ánh điện. Dòng sông phẳng lặng, êm thuận mà hai mươi năm sôi réo trong lòng mỗi khi Hàm từ Lamcaster nhớ đến. Có lần đọc Tháng ba gãy súng, Hàm khen Huy nhớ lại được từng chi tiết lặt vặt khi viết về thằng lính trận. Huy bảo, cái gì gắn với sống chết thường nhớ lâu. Điều này, Huy nói đúng. Trong đầu Hàm, con sông Sài Gòn và phố bờ sông ngày nào chưa bao giờ anh lãng quên bởi nó cũng là nơi sống chết với anh.
Gần hai mươi ngày trước đêm kết thúc cuộc chiến, tiểu đoàn biệt động quân Rừng Xanh của anh đang cắm chân ở Sông Bé bỗng được điều vội về giữ thành phố.
Bấy giờ chiến sự đã thu hẹp lại vòng quanh Sài Gòn. Mọi cố gắng của chính quyền Sài Gòn thời điểm này là thu vét toàn bộ số quân lực sứt mẻ còn lại tổ chức tuyến phòng ngự Long Thành - Xuân Lộc, cách Sài Gòn tám mươi cây số, chặn hướng tiến của Quân giải phóng về đích cuối cùng là bộ tham mưu và phủ Đầu Rồng. Chừng mười bốn nghìn binh sĩ gồm: biệt động quân, thiết kỵ, pháo binh, lính thủy đánh bộ, quân dù và được hai sư đoàn không quân từ phi trường Biên Hòa và Cần Thơ yểm trợ chiến thuật cho hơn chục ngàn quân dàn trận phòng ngự. Toàn bộ tuyến phòng ngự được trao cho chuẩn tướng Lê Minh Đảo - Tư lệnh sư đoàn mười tám chỉ huy. Đảo nổi lên trong các tướng lĩnh Sài Gòn với tuyên bố: “Đánh một trận để đối phương biết thế nào là sức mạnh của quân lực Việt Nam Cộng hòa” .
Thiệu mát ruột về tuyên bố của Đảo, trao cho viên chuẩn tướng toàn quyền cả về điều động lực lượng đến chỉ huy chiến đấu.
Đảo vỗ ngực: “Anh em binh sĩ ai bỏ ngũ thì dẵm qua xác moa”.
Đảo nghênh ngang lộng hành, coi các cấp chỉ huy chỉ là đám phục vụ cho mục đích đánh tan Cộng sản ở cửa ngõ Sài Gòn. Đảo vào thẳng bộ tham mưu hạch sách đại tướng Cao Văn Viên vì chậm việc điều quân tổng dự bị. Ở phòng nhân sự của bộ tham mưu, Đảo tát thẳng mặt thiếu tướng Bùi Đình Đạm vì trễ trong việc đảm bảo vũ khí móc từ kho Tân Bình ra, ném vào Xuân Lộc.
Sài Gòn ngày này đã rỗng ruột, bởi người giàu và kẻ có quyền lực trong chính phủ kể cả tướng tá đã đưa vợ con, em út đi di tản, thừa chỗ cho dân tứ chiếng, tận Huế, tận Đà Nẵng, tận Ban Mê và các thành phố dọc duyên hải miền Trung len lỏi về Sài Gòn, không có người quen ở nhờ thì dựng lều cơm niêu nước lọ. Đường phố người như nêm cối. Quân cảnh phóng xe ầm ầm vây bắt đám lính trốn về Sài Gòn ném lên đại xa GMC chở thẳng lên Xuân Lộc, nạp quân cho các trận địa phòng ngự, bao nhiêu cũng thiếu vì lính đảo ngũ gần như mỗi đơn vị mất một phần ba quân số chỉ sau một đêm. Thành phố như cái phao dây bị tuột khỏi tay người cứu sinh, là nhận xét của Vũ Văn Mẫu nói với Thiệu về Sài Gòn thời điểm phòng tuyến Xuân Lộc đang bị quân của tướng Hoàng Cầm bao vây.
Đại đội biệt động quân của Hàm dựng trận địa tử thủ trên khu đất hẹp ở hai bên đầu cầu Cây Bông, một nửa quân số ở bên kia, một nửa bên này, sống trong đường giao thông hào và các ụ súng đắp vội bằng bao cát, che tạm bằng bạt và tôn lá.
Người để mắt đến trận địa của đại đội Hàm không phải cấp chỉ huy trực tiếp, trung tá tiểu đoàn trưởng Hai Xương mà lại là chuẩn tướng Đảo. Không biết ông ta có việc gì ngang qua đã dừng lại tại trận địa của đại đội biệt động quân. Thấy Hàm đang lúi húi chỉ cho lính từng chỗ nằm bắn, ông ta hỏi:
“Này, đại úy, muốn giữ Sài Gòn thì lên Xuân Lộc, chứ đứng ở đây thì giữ váy cho đàn bà à?”.
Hàm không biết trả lời thế nào, đành nói:
“Thưa chuẩn tướng, đứng ở đây là mệnh lệnh của tổng trưởng Trần Văn Đôn”.
Đảo xì một tiếng rồi nhổ cái đầu mẩu điếu thuốc xì gà hút dở xuống bãi đất trước mặt Hàm, quay đi. Chỉ mươi hôm sau, Hàm biết chuẩn tướng Đảo nướng hơn ba ngàn quân ở Xuân Lộc rồi cũng lại bỏ hơn mười ngàn quân như rắn mất đầu trong các cánh rừng cao su, chạy di tản ra tàu đậu ở ngoài biển Vũng Tàu. Hàm nhìn về phía đó, cởi cúc quần, vót “cần câu” về phía biển như tưới vào mặt Đảo cho bõ ghét.
Với Hàm, đơn vị tử thủ ở đầu hai đầu cầu Cây Bông là anh được gần nhà. Má và em gái coi việc anh về nhà giữa lúc cuộc chiến đang hỗn loạn là may mắn lớn. Má không tin vào mắt mình khi thấy Hàm ném chiếc ba lô lính bẩn thỉu xuống nền nhà, rồi ôm lấy má, bảo, con được về gần má rồi.
“Bao lâu nay má chỉ mong con ở nhà với má”.
Má nói, hai tay nắm lấy cả hai vai vạm vỡ và cao lớn của Hàm, cứ như buông ra thì lại như mọi khi, anh biến mất.
Từ khi Hàm và Nhu còn nhỏ, má vẫn luôn giữ hai con bên mình, kiểu gà mẹ xòe cánh bảo vệ con trước diều hâu. Má đã giữ cả hai đứa con với những điều thầm kín chỉ một mình má biết, một mình má ngày cúi mặt sống với quốc gia, đêm ngồi trước ban thờ hướng lòng về phía chồng đang ở đâu đó trong rừng kháng chiến. Chiến tranh và chia cắt ở ngay trong nhà má, trong lòng má, tình ruột rà của má mà má chỉ biết câm lặng chịu đựng không thể nói cho cả hai con còn nhỏ dại vì sự an nguy của cả gia đình.
Đảo lộn cuộc đời má là từ ông Quang, chồng má.
Ông Quang vốn là Trung đội trưởng trung đội tự vệ xưởng sửa chữa tàu Ba Son nổi tiếng. Năm bốn lăm, Đội Tự vệ xưởng Ba Son của ông Quang từng lập chiến lũy ở đầu cầu Thị Nghè chặn không cho quân Pháp tiến vào thành phố từ phía Biên Hòa. Sài Gòn bấy giờ mang gương mặt mới, trẻ trung và hào hứng, có hàng ngàn người hôm qua là thợ, là viên chức, là người buôn bán nhỏ, hôm nay thành chiến sĩ tự vệ. Hàng vạn người, với nhiều trí thức và cả quan lại của chính phủ Trần Trọng Kim xin đứng vào đội ngũ cách mạng đi kháng chiến. Các đội tự vệ và quân biệt động của Sài Gòn cầm cự cuộc tiến quân của cả binh đoàn Pháp do Anh hỗ trợ được chừng một tháng để những người đi kháng chiến cùng Khu ủy rút về Chiến khu Đồng Tháp và Chiến khu Đ, Chiến khu Rừng Sác và Chiến khu Dương Minh Châu.
Ông Quang được lệnh không ra chiến khu mà cùng đội tự vệ hoạt động bán công khai ngay trong lòng thành phố. Mãi cho đến năm năm sáu, theo Hiệp định Giơnevơ, lực lượng kháng chiến ở miền Nam phải tập kết ra Bắc. Ông Quang và đồng chí trong Đội Tự vệ được lệnh đi tập kết. Tuy nhiên, trước ngày lên tàu ở Ô Cấp, cấp trên lại đổi ý, để ông Quang và Đội Tự vệ vượt qua vòng kiểm soát của địch, lên chiến khu Dương Minh Châu, giáp Tây Ninh xây dựng lực lượng kháng chiến lâu dài.
Ở lại nuôi hai con nhỏ, gia đình bà Liên, vợ ông Quang trở thành địa chỉ đen của lính Ngô Đình Diệm truy sát trong chiến dịch “tố Cộng, diệt Cộng” theo Luật mười năm chín tàn bạo. Đêm đêm bà Liên phải đóng trái cửa giữ hai con ở nhà để tập trung tố Cộng ở đồn cảnh sát. Những đêm tố Cộng man rợ, không còn nhân tính. Đêm nào bọn lính cũng cắt đầu của một người tình nghi Việt Minh nào đó, ấn vào miệng tử thi một mảnh giấy viết mấy chữ “Cộng sản phản quốc gia”, rồi cắm đầu lâu vào cây cọc dựng ở giữa phòng, bắt người tố Cộng đứng xung quanh, miệng nói đi nói lại lời “từ Cộng, tố Cộng”, “ủng hộ Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa”. Bọn địch dùng mọi thủ đoạn độc địa và đê tiện nhất để dập tắt ngọn lửa yêu cách mạng còn le lói trong lòng dân chúng. Liệu chúng có dập tắt được? Trong những người cùng đứng dưới ngọn đèn nóng bỏng để thề tố Cộng, bà Liên chứng kiến một ông già vốn là người câu cá trên sông Sài Gòn đã thét lên:
“Bay bắt tau chửi Cộng sản, nhưng bụng tau vẫn đỏ màu Cộng sản”.
Nói rồi ông rạch bụng cho bọn lính biết, máu ông đỏ màu cờ. Nghe đâu ông từng chở không ít anh em cách mạng qua sông đoạn Nhà Bè đi Rừng Sác, để rồi từ rừng, anh em có thể đi Long An, đi Chiến khu Tháp Mười hoặc ngược lên Long Thành mà đi Chiến khu Đ.
“Tố Cộng” đâu có dập tắt được ngọn lửa yêu cách mạng trong lòng người.
Bà Liên chịu đựng cảnh đêm đêm đi “tố Cộng” chừng hơn một năm thì bỗng nhiên được tha.
Sao bà được thả? Bà không phải đứng sám hối nhưng còn khổ hơn, nhục hơn là phải đứng dưới đèn vì chịu cái tiếng chồng phản bội cách mạng. Bà phải cúi mặt, không đám ngửng lên nhìn những đôi mắt ghẻ lạnh của bà con lối phố. Cảnh sát nói cho bà biết tin dữ và ô nhục vì một cán bộ cấp đại đội của Trung đoàn 311 nổi tiếng Chiến khu Dương Minh Châu, tên là Văn Bái chạy ra chiêu hồi, khai hắn tự tay bắn chết ông Quang vì ông bỏ ngũ, chạy về với “quốc gia”. Chính trị viên đại đội tên là Bái, bắn ông Quang xong, sợ bị trả thù, nên cũng đã chiêu hồi.
Nghe Bái nói, không phải bọn mật vụ và cảnh sát đã tin ngay mà đòi phải kiểm chứng. Chúng bắt Bái dẫn một đại đội biệt động quân bí mật đánh úp cơ sở mà hắn vừa bỏ trốn. Trận đánh úp đúng vào bãi trú quân của đơn vị chiến khu, nhưng chỉ còn hào không, nhà trống, tro bếp nuôi quân vẫn còn ấm nóng. Bọn mật vụ vẫn chưa tin, bắt Bái dẫn đi đào mộ ông Quang mà hắn bảo tự hắn dẫn lính chôn ở ven suối Lác, cạnh gốc cây sung. Khai quật được một bộ hài cốt đang phân hủy, không thể nhận ra hình hài ông Quang, nhưng may thay, trong túi áo ngực của tử thi đang mục nát còn tấm ảnh ông Quang chụp với vợ và hai con ép kỹ trong ni lông màu trắng. Bằng chứng xác thực để kẻ chiêu hồi được phong hàm trung úy trong đơn vị cảnh sát.
Ông Quang được xác thực đã bị bắn chết vì chạy về với “quốc gia”, nên bà Liên và hai con không những không phải tập trung “tố Cộng”, mà còn được hưởng ân huệ của chính quyền họ Ngô.
Đó là những ngày đen tối với bà.
Năm đó Hàm bảy tuổi. Chú bé không biết nghe lời ai, nói với má: “Cách mạng giết ba, lớn lên con đi lính giết người cách mạng”. Bà ôm con khóc, mặc dù lúc đó bà đã được người của tổ chức bí mật của thành báo rằng ông Quang vẫn sống, đang là cán bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn ở chiến khu. Tổ chức phải đưa người giả chiêu hồi để cứu bà và hai con không bị truy sát. Tuy nhiên bà Liên vẫn phải lập ban thờ thờ chồng như thật để tránh tai vách mạch rừng và không dám nói với con sự thật về ba. Ngay cả khi Hàm mới mười bảy tuổi, quyết đi lính quốc gia để mai ngày báo thù cho ba bà cũng phải ngậm đắng trong miệng, chỉ khóc mà không dám nói với con một lời. Hàm được hưởng ân huệ vì ba bị chết do chạy theo “quốc gia”, nên vừa vào lính cậu đã được đặc cách đi học lớp đào tạo sĩ quan biệt động ở Dục Mỹ. Không thể ngăn con, bà Liên chỉ còn biết lẽo đẽo theo con để lúc được gặp thì nói với con đừng làm điều gì thất đức, nên tránh xa nơi bom rơi đạn lạc.
Ơn giời, cho đến ngày cuối của cuộc chiến, Hàm lại được về gần má và em Nhu.
Buổi đầu về tử thủ ở đầu cầu Cây Bông, do quen thuộc địa hình, Hàm tự ý thay buổi việc đi xem xét thực địa, rẽ vào quán Hạ Trắng đầu cầu thảnh thơi gọi một chai la-de nhâm nhi với giọng Khánh Ly hát ca khúc Da vàng. Lâu lắm anh mới lại được nghe Khánh Ly trong quán nhỏ ở thành phố. Giọng Ly như giọt nước tí tách hợp với quán nhỏ hơn ở đám đông ồn ào. Không ngờ chai la-de còn đang uống dở thì một người cao lớn, mặt sắt đen sì, vai áo gắn lon hai sao, lừng lững bước đến thẳng trước mặt anh. Hàm nhận ra vị khách không mời là trung tá Xương, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn biệt động quân Rừng Xanh. Lúc bấy giờ Hàm mới biết sở chỉ huy tiểu đoàn cũng ở cách đầu cầu Cây Bông một đoạn không xa, chếch về phía tây, và đương nhiên, trận địa của đại đội của Hàm nằm trong vòng kiểm soát của tiểu đoàn.
Hàm vội đứng dậy, chào trung tá theo kiểu nhà binh.
“Ngồi xuống”. - Trung tá ân cần - “Từ nay choa và mi không có thì giờ để thực hành điệu lệnh nữa. Choa chỉ nói lời với mi đôi lời”.
Hàm không ngờ trung tá mặt sắt, một người nổi tiếng trong quân lực lại xềnh xoàng choa với mi như trong gia đình. Hàm biết trung tá từ khi học ở trường võ bị Dục Mỹ. Một nhân vật khét tiếng với chiến công như huyền thoại, nhưng vì tính báng bổ, đôi khi bất cần đời, nên leo mãi mới lên đến tiểu đoàn trưởng rồi cắm chân tại chỗ. Có thể chiến công của ông là thật, cũng có thể bọn công tác chính trị thổi phồng. Đại thể, ông người làng chài Quảng Bình, bao nhiêu năm xa quê, chỉ còn giữ lại mỗi câu danh xưng choa. Trước cả tiểu đoàn ông cũng choa. “Choa nói vầy, tụi mi nghe mà mần”. Lính đồn ông ta từng nhảy toán xuống vùng rừng Quảng Bình, giáp Lào từ những năm đầu sáu mươi, mưu tổ chức ở vùng rừng núi giáp ranh với Lào một đội quân làm phản, không đảo chính được chính quyền địa phương thì gây bất ổn, đảo lộn tính toán đưa quân vào Nam của Cộng sản Bắc Việt. Việc không thành, ông Xương và đám tàn quân suýt chết đói rút chạy sang rừng Lào rồi quay trở về Quảng Trị, bốc phét vừa Bắc tiến trở về.
Bây giờ ở đây, trung tá Xương nhìn Hàm từ đầu tới chân, nói:
“Mi ngon đó. Như ri mà kéo vô Sài Gòn giữ nhà, đù má, ngứa ngáy chân tay thấy mồ. Choa cũng rứa. Nhưng việc như vầy thì phải làm vầy, nghe không đại úy?”.
Hàm mở miệng định nói với tiểu đoàn trưởng dự định công việc bảo vệ ở hai đầu cầu, nhưng trung tá gạt đi, quay sang nói chuyện riêng của gia đình Hàm:
“Choa biết mi mang cái hận về ông già. Thời năm năm mươi ba, quân đội quốc gia Việt Nam còn mặc quần ống túm, thuộc chính phủ liên hiệp Pháp đã mặc quần sáu túi, người có chữ như ba mi mà vô lính liên hiệp Pháp thì một bước lên quan, vậy mà, đù má, lại lạc vô Vệ túm. Leo mãi cũng đến chức tiểu đoàn trưởng thì đù má, ngã ngựa, bị giết lén vì muốn chạy về với quốc gia. Cha nội chiêu hồi Cộng sản nào đó tố, choa đâu biết. Má mi có lập ban thờ bái vọng cho ổng không?”.
Hàm nhỏ nhẹ:
“Dạ, bả có lập ban thờ”.
“Choa muốn gắn cho mi lon mới, nhưng mấy thằng công tác chính trị chậm như táo bón, lo không kịp. Việc thay lon của mi chắc cũng chỉ chậm mấy bữa. Hết má nó người, còn đếch thằng nào ra hồn để gắn lon. Đù má, có thằng chạy khỏi Ban Mê còn được thăng lên tướng nữa kia mà. Đại đội của mi phải canh giữ cầu này. Cộng sản đâu có cánh, phải không? Muốn vô thành phố phải qua cầu. Choa không nói tổ quốc, danh dự, trách nhiệm chi chi hết, chỉ nói nếu để Cộng sản qua cầu thì mi và cả choa đều chết ngắc. Cộng sản không qua được cầu thì mi sống, choa cũng sống. Cộng sản qua cầu thì cả choa và mi chết. Để choa bảo một thằng lo chỗ nhậu, gọi cho mi em phượng hoàng chơi chán rồi mai đánh nhau chết bỏ”.
Một cuộc giao nhiệm vụ cà trớn nhưng xem ra trung tá, tiểu đoàn trưởng đã đóng sống Hàm vào cái trận địa tử thủ đầu cầu, chỉ được sống nếu Việt cộng thua, và chết nếu Việt cộng thắng. Cho đến khi trung tá đi khuất, Hàm mới tự hỏi, sao tiểu đoàn trưởng lại nhắc đến chuyện ba anh bị giết? Chắc chắn đó không phải là vô tình. Ông ta gợi ở anh lòng căm thù không đội trời chung với Cộng sản. Chắc vậy. Điều này khác lạ với các sĩ quan quân đội Sài Gòn. Họ ít giáo dục về quá khứ, về gia đình. Họ chỉ quan tâm giáo dục những gì ở trước mắt và trách nhiệm. Càng ít ràng buộc với quá khứ, với gia đình, dòng họ càng tốt. Họ là một thực thể cô đơn, thực hành trách nhiệm cầm súng.
Hàm từ chối cuộc nhậu và gái.