Đêm đó, Hàm chỉ huy nhóm lính biệt động đi tuần trên sông bằng xuồng cao su gắn máy. Hàm nói với lính, muốn giữ được đầu cầu bên này thì phải giữ từ bên kia. Nếu để quân Cộng bám được bờ sông bên kia, thì gắng mấy bờ bên này sớm muộn cũng mất. Đánh nhau với quân Cộng nhiều năm, Hàm biết, quân Cộng bám được ở đâu thì ở đó kẻ theo Cộng sản phản lại “quốc gia” mọc nhanh như nấm, không kiểm soát nổi.
Tuần tra trên sông, Hàm thường đi chung xuồng với lính. Chưa bao giờ sông Sài Gòn lại nhiều thương hồ như những ngày này. Thương hồ khắp nơi dồn về sống trên sông Sài Gòn. Có thuyền buôn mãi tận Phan Rang, Phan Thiết, xa nữa tận Nha Trang, Đà Nẵng cũng đã kịp dong về sông Sài Gòn. Dân thương hồ nói sống trên sông an toàn hơn ở thành phố.
Hàm gặp lão người Hoa bán mì vằn thắn ở gần nhà Hàm trên phố bây giờ cũng sắm thuyền đưa vợ và lũ con lóc nhóc bảy người sống trên mặt nước.
Hàm hỏi lão người Hoa:
“Chú Ba còn nhớ tôi không?”.
Lão chủ thuyền hơi ngẩn người nhìn Hàm bằng đôi mắt một mí hấp háy:
“Ngộ quên cậu sao được. Mới đấy mà cậu đã là sếp lớn, đã ha!”.
Hàm biết ông Ba Tàu cùng phố bán mì vằn thắn từ hồi nhỏ. Bấy giờ Hàm thường cùng đám bạn chiều chiều ngụp lặn trên sông. Một hôm có người đặt lưới bắt cá còn trẻ tuổi nhô lên từ cụm bèo lục bình, bảo rằng nhà ở Xoài Hai bên kia sông, nhập bọn với đám bơi sông rồi rủ nhau lên bờ cát đá banh. Quả banh gói bằng lá chuối khô, buộc chằng chịt dây gai. Nhiều chiều đá banh, đám bạn của Hàm và người đặt lưới thân nhau như bè bạn mặc dù chênh nhau tuổi tác. Thỉnh thoảng người bắt cá gửi Hàm xách một xâu cá sông đến cho ông chủ bán mì vằn thắn, bảo đưa cá cho ổng chủ trước, tui lấy tiền sau. Mỗi lần đưa cá, ông chủ Ba Tàu lại mời Hàm tô mì vằn thắn, thành ra việc đi lại thân thiết dần. Đến một chiều, đám bạn của Hàm ngóng mãi không thấy người đánh cá vui tính như mọi khi.
Tối đó, lính gọi loa thúc các gia đình ra sân nhà Hội đồng để hỏi, ai trong khu phố quen biết tên Việt cộng nằm vùng vừa bị bắt? Hàm và em Nhu theo má đi xem cuộc truy khảo Việt cộng. Ra đến sân nhà Hội đồng, Hàm mới ngớ người chợt nhận ra Việt cộng lại là người đàn ông đánh lưới vẫn đá bóng với bọn trẻ mỗi chiều. Nhưng Hàm cắn răng, lờ đi như không biết, không nói, kể cả việc cậu từng xách cá đến nhà lão Ba Tàu để được ăn mì vằn thắn.
Chuyện với người đánh cá quên đi, mãi đến tận năm sáu tám, lính truy lùng quân Việt cộng đánh vô thành phố, đổ xô đến trước cửa hàng mì vằn thắn hạch sách ông chủ, vì có người mách Việt cộng đi từ nhà ông ra. Bấy giờ Hàm đã đi lính, chỉ nghe em Nhu kể lại, ông chủ lắc đầu, ngộ chỉ biết bán mì vằn thắn, đâu có biết ai là Việt cộng nằm vùng. Ngộ là người Hoa, Việt cộng đâu có tin người Hoa. Đám lính không có cách nào lấy được chứng cớ lão Ba Tàu có liên hệ với Cộng sản. Chỉ Hàm biết những xách cá sông… nhưng không bao giờ nói ra. Sài Gòn thời chiến tranh ta - địch nhiều khi trộn lẫn, có khi cùng một nhà con làm cách mạng mà ba má cũng không biết, thật giả khó lần, chỉ có người trong cuộc mới hiểu. Đôi khi người trong cuộc cũng biết đâu để đấy trong bụng, ít khi có dịp để nói ra sự thật. Vả lại, Hàm không tin ông chủ bán mì vằn thắn, người lúc nào cũng mốc meo, áo quần lếch thếch này lại có thể là Việt cộng.
Lâu lắm, Hàm mới lại gặp lão Ba Tàu:
“Chú định đi đón Cộng sản vô thành phố hay sao mà lên thuyền sống trên sông?”.
Nghe Hàm hỏi, lão cười hơ hơ, bảo:
“Chú có súng, có xe, có tàu chạy khỏi Sài Gòn lúc mô mà chả được. Còn ngộ chỉ trông vào chiếc thuyền tạp hóa này thôi. Lúc bí cần chạy để sống, ngộ xuống Ô Cấp. Ra Ô Cấp, không yên thì ngộ đưa cả nhà vòng ra biển Rạch Giá sang Lan Khai đất Thái. Người Việt phòng xa một đời. Người Hoa của ngộ phòng xa ba đời…”.
Hàm lại hỏi:
“Người ta phe nọ phái kia có nợ với Cộng sản, mới phải chạy bỏ Sài Gòn nếu Cộng sản thắng. Chứ chú Ba cả đời quanh quẩn với cái bếp lò nấu mì vằn thắn thì tư thù gì mà phải chạy Cộng sản?”.
Lão người Hoa lắc đầu:
“Vậy là chú còn trẻ, chưa hiểu sự đời. Nhà ngộ từng chạy từ Đông Hưng, bên Tàu sang Móng Cái, Việt Nam năm ông Mao thắng ông Tưởng. Phải chạy vì, bao giờ cũng thế, kẻ thắng thường phải sửa sang lại luật lệ cho hợp với họ. Luật lệ chủ yếu dành cho dân đen. Dân đen bị sửa sang, có người được, người mất. Ngộ là người Hoa, mất nhiều hơn được, nên di tản để phòng xa”.
Nói xong lão Ba Tàu cúi lưng mời Hàm lên thuyền rồi đặt lên tay anh cái túi vải, bảo:
“Thời loạn giữ nhiều vàng trong người có khi gặp họa. Vàng đâu quý bằng người. Còn người thì còn vàng. Mất người vàng chỉ là cục đất. Ngộ chia cho cậu ít lộc, mong cậu để gia đình ngộ yên ổn trên sông”.
Hàm không nhận vàng của lão Ba Tàu, chỉ xin một tút thuốc con mèo hút chơi. Lên xuồng cao su, Hàm nhìn lại lão Ba Tàu đứng trên thuyền nhìn theo, tự hỏi, thực ra người kia là thế nào, có liên hệ, có tiếp tay cho Việt cộng không mà bao năm anh vẫn gờn gợn để chuyện nấp kín trong lòng? Không phải dung túng và tha thứ cho những người tiếp tay cho phía bên kia, thực sự anh không hiểu về lão người Tàu. Một lão người Tàu thì làm được việc gì mà Việt cộng tin nhờ? Nghĩ thế, nên lão bán mì vằn thắn với Hàm cũng chỉ như bao người Hoa ở thành phố anh vẫn gặp hằng ngày không thân thiện, cũng không nghi ngờ cảnh giác.
Ngồi ở cuối xuồng Hàm để mặc cho những người lính lái xuồng đi. Cái ý nghĩ di tản khỏi Sài Gòn không chỉ đã làm đã nóng bỏng trong các gia đình viên chức chính phủ, vợ con sĩ quan mà đã thành ý nghĩ thường trực trong dân chúng. Cả Hàm, dù tử thủ để giữ thành phố, nhưng cũng đã lo trước đến việc di tản cho má và em gái.
Bữa trước về nhà, anh đem theo hai chiếc va-li rỗng, nói với Nhu:
“Việc chưa diễn ra, nhưng vẫn phải phòng trước, kẻo nước đến chân mới nhảy e không kịp. Út và má thu xếp ba thứ cần thiết vào mấy chiếc va-li, cần di tản thì nhảy lên xe được ngay. Những gia đình sĩ quan biệt động được ưu tiên”.
Nghe anh Hàm nói, Nhu ngờ ngợ. Ơ kìa, sao hai người đàn ông bước vào nhà cùng kéo hai chiếc va-li rỗng, cùng nói với cô chuẩn bị để đi di tản giống nhau. Hai người đàn ông chỉ khác nhau, một là anh trai, một là người tình, đúng hơn là chàng yêu Nhu còn Nhu thì cố tránh vì không muốn cuộc tình không hứa hẹn về hạnh phúc.
Người đàn ông yêu Nhu là bạn diễn, con trai gia đình buôn bán khá giả ở Chợ Lớn, tính tình vui vẻ, khá hào phóng với Nhu. Tuy nhiên Nhu vẫn giữ khoảng cách với chàng, vì ngờ ngợ về nam tính của công tử lúc nào cũng sực nức mùi nước hoa Pháp đắt tiền Kiliam Good Girl và đôi khi trên môi còn thoáng chút son hồng.
Cho đến khi thấy hai người có vẻ mết nhau, bạn gái mới ghé vào tai Nhu thầm thì: “Có thật sự anh chàng sực nức mùi Kiliam này là nước lợ?”. Nhu tự cười với mình, thử xem. Và cô đã liều lĩnh thử trong một lần hai người có cơ hội ngồi gần nhau dưới bóng cây khu vườn trái nhà con bạn ở Tiền Giang.
“Yêu em đi” - Nhu cố nín thở để nói vào tai chàng câu nói khó khăn đó với gái thanh tân. Lúc đó Nhu tự trách mình, sao liều thế? Lỡ thì sao? May quá, Nhu đã đoán đúng.
Anh chàng lúng túng khi Nhu dằn lòng mà nói, yêu em đi. Chàng bỗng buông tay khỏi vai Nhu, không nhìn vào cô, mà nhìn ra khu vườn, nói:
“Em ơi, tình yêu đâu nhất thiết phải có tình dục”.
Hai người lạnh nhạt từ đó, mặc dù không ít đêm cả Nhu và anh cùng lên sàn diễn. Mãi đến những ngày cả Sài Gòn chộn rộn việc đi di tản hay ở, giống như anh Hàm, anh kéo đến nhà cho Nhu hai chiếc va-li. Chàng nói với Nhu gia đình chàng có thuyền buôn riêng, có thể rời khỏi cảng Tân Hội bất cứ lúc nào. Hai má con Nhu lên thuyền với gia đình chàng, không sang Mỹ, mà chỉ cần dạt sang Thái Lan. Bên đó, gia đình chàng cũng có nhà hàng và cơ sở sản xuất bánh kẹo. Dạt sang Thái một thời gian nghe ngóng, nếu Sài Gòn ổn thì lại trở về. Chàng không ra điều kiện gì với Nhu, không lấy nhau thì thành bạn diễn cũng có sao. Nhu sợ liên lụy, từ chối chàng bạn diễn. Với lại, cô không có ý bỏ Sài Gòn ra đi. Cô là nghệ sĩ. Thời nào, chế độ nào thì nghệ sĩ vẫn là nghệ sĩ, có tội gì đâu mà sợ bị trả thù.
Người thứ hai kéo đến hai cái va-li rỗng về nhà là anh Hàm, thúc má và Nhu thu xếp đồ đạc.
Má ngồi im không nói gì.
Nhu nhìn anh nói:
“Thế còn cây đàn piano của em?”.
“Trời ơi, lúc này nghĩ đến người, chứ không ai nghĩ đến việc tha cây đàn cồng kềnh ấy đi đâu”.
“Không” - Nhu nói - “Cây đàn hiệu Bechstein là tài sản quý nhất của em. Má phải bán mấy công đất dưới quê, em phải vay cả các thầy dạy và bạn bè mới mua nổi cây đàn cũ của Đức này. Nó còn có thể dùng cả trăm năm. Em quý nó như bản thân mình. Em không bỏ đâu. Với lại, sao phải chạy đi. Hàng phố thiếu gì nhà có người đi lính chính phủ, họ đóng cửa ở nhà cả thôi”.
Hàm vẫn nhẹ nhàng với em gái:
“Họ khác. Nhà mình khác. Người ta không có thân nhân bị Cộng sản giết. Người ta cũng không có con em là sĩ quan biệt động quân”.
Má Hàm đang ngồi ủ rũ, nghe Hàm nói bỗng đứng hẳn dậy:
“Má không đi đâu hết. Má sống ở đây, có chết má cũng chết ở đây!”.
“Má còn chờ gì ở đây?”.
“Má chờ ngày, má chờ đêm sẽ đến lúc đổi khác”.
Nhu bảo:
“Anh ơi, em nghe Cộng sản vào Huế, vào Đà Nẵng không có ai bị tắm máu”.
Hàm gắt lên:
“Đừng nghe ba cái tin ba láp tuyên truyền cho Cộng sản. Nghe anh đây này”.
Nhu lắc đầu:
“Vậy là em hiểu rồi”.
“Em hiểu cái gì?”.
“Anh đã làm hỏng cái radio của em phải không?”.
“Anh chỉ muốn lúc này em và mẹ đừng nghe tin đồn nhảm”.
Hàm nói, vội quay ra, vì không muốn nặng lời với em và má.
Đấy cũng là buổi chiều sau khi gặp tiểu đoàn trưởng Xương, Hàm ngồi một mình rất lâu trên bờ sông hút thuốc, chán thì nhai cọng cỏ như ngày còn trẻ con. Thì ra Thiệu ra đi vẫn tràn đầy hy vọng rồi sẽ quay lại với chính phủ Việt Nam Cộng hòa kháng chiến với phương án Gavin. Phương án này vốn xuất phát từ một viên sĩ quan ở bộ tham mưu quân đội Anh trợ giúp quân Pháp quay trở lại Việt Nam sau năm một chín bốn lăm, Chính phủ Cụ Hồ tuyên bố độc lập và bước vào cuộc kháng chiến. Phương án Gavin là đưa quân chiếm lấy vùng đồng bằng miền Tây giàu có, rộng lớn, đông dân, có sông, có biển, chằng chịt kênh rạch, bộ binh cơ động khó khăn, nhưng lại lợi thế cho đội quân có không quân và phương tiện thủy. Phương án Gavin chọn Cần Thơ làm thủ phủ, về lâu dài lấy đây là thủ đô của nước Phù Nam mới.
Nhưng phương án của viên tướng Anh còn đặt trên bàn thì Việt Minh đã chọn Đồng Tháp Mười và rừng U Minh làm căn cứ kháng chiến, nên kế hoạch Gavin ném vào sọt rác. Mãi cho đến những ngày cuối tháng Tư năm bảy lăm, quân Sài Gòn đã thất thủ trên các chiến trường, chỉ giữ được Sài Gòn đang bị bao vây và đồng bằng miền Tây do quân đoàn bốn của tướng Nguyễn Khoa Nam chỉ huy, chưa bị Cộng quân tiến công. Phương án Gavin được Thiệu nhắc lại và đặt kế hoạch cho trận chiến cố giữ lấy một phần của Việt Nam Cộng hòa để nói chuyện với Mỹ. Trước đêm bay đi Đài Loan, ở dinh Độc Lập, Thiệu vẫn còn đàm đạo với tướng Nguyễn Khoa Nam, về kế hoạch chiếm giữ đồng bằng miền Tây để cầm cự lâu dài với bên kia. Thiệu đi, kế hoạch được chuyển giao lại cho bộ tham mưu. Dương Văn Minh lên tổng thống cũng đồng thuận kế hoạch Gavin, rút hết quân giữ chặt các cửa ô Sài Gòn, vừa chiến đấu kìm chân quân Cộng sản vừa rút dần bộ tổng và các đơn vị thiện chiến còn sót lại bổ sung về đồng bằng. Giữ được vùng đồng bằng rộng lớn sẽ là cái giá để Minh lớn trao đổi với Cộng sản việc thành lập Chính phủ Liên hiệp.
Tiểu đoàn biệt động quân trong đó có đại đội của Hàm vội nhảy vào Sài Gòn nằm trong kế hoạch ngăn chặn sụp đổ quá nhanh của Sài Gòn, tạo cơ hội cho một bộ phận tướng lĩnh và binh sĩ rút về miền Tây cố thủ. Liệu kế hoạch Gavin có thành công? Sau thất thủ Xuân Lộc, Hàm chỉ biết, khó có thể ngăn chặn đà tiến công của quân Cộng sản dù chỉ làm chậm lại vài bước. Tuy nhiên, anh vẫn đứng ở đầu cầu Cây Bông vì trách nhiệm và danh dự của một sĩ quan có tư thù với phía bên kia về cái chết của người cha mà đêm nào tóc má cũng bạc thêm khi ngồi lặng trước ban thờ chồng. Trận địa tử thủ của anh rất có thể bị đội quân đông đảo của đối phương đang tràn qua nhưng không vì thế mà anh bỏ chạy. Anh sẽ đứng lại phải bắn loạt đạn về phía đối phương, giết được đối phương thì càng tốt để lời thề báo thù cho cha được mãn nguyện. Anh sẽ chạy đi đâu? Anh sẽ đẩy má và em gái đi di tản trước, rồi anh đi sau. Má và em gái không đi, Hàm tính phương án khác, nếu kế hoạch Gavin thành hiện thực, anh kéo quân về đồng bằng miền Tây để ít ra anh cũng được gần gia đình. Còn Gavin thất bại, anh sẽ tìm đường sang nước thứ ba hoặc đi Mỹ.
Chính vì ngăn cản không cho dòng người đổ vào thành phố sau thất bại Xuân Lộc, nên sông Sài Gòn có buổi chiều thật vắng, thuyền thương hồ và thuyền của dân chạy nạn trốn nấp ở đâu đó trong các bụi lau cỏ và dừa nước bờ bên kia. Chỉ có những tốp cò trắng chớp nắng như thuở thanh bình, thỉnh thoảng lao xuống vùng nước trắng nhờ giữa các cụm bèo mỏ cắp được chú cá con, vội nhao lên bay về tổ trong khu rừng hỗn giao phía đầu cầu. Phía sau lưng Hàm là thành phố, tất cả mọi hoạt động dừng lại, nhường quyền cho binh lính kiểm soát.
Buổi tối, Hàm cùng tổ tuần tra đụng một người bơi lưng lấp loáng trên mặt nước sông.
Lính lên tiếng:
“Ai, làm gì?”.
Không có tiếng trả lời. Người bơi sông bỗng cầm con cá hua lên, ném lên xuồng cao su cho lính. Tên lính ngồi ở mũi xuồng nhìn gà hóa cuốc, lại tưởng người bơi sông ném vật nổ, vội xả một băng AR-15 để trừ hậu họa. Nghe tiếng AR-15 liên thanh, trung tá, tiểu đoàn trưởng Hai Xương đứng ở đâu đó trên bờ bên kia điện hỏi:
“Đù má, đụng rồi hỉ?”.
Hàm nói chệch đi, bảo lính bắn cá.
Tiểu đoàn trưởng Hai Xương chửi tục trong máy:
“Bắn cá gì mà mấy loạt. Mười người Sài Gòn bây giờ có ba thằng đỏ trà trộn lẫn rồi đó. Bắn nhầm còn hơn bỏ sót, mi nhớ nghe”.
Nghe trung tá nói, Hàm nghĩ, ngay cả chỉ huy tiểu đoàn cũng đã mất bình tĩnh. Mất bình tĩnh thì còn làm được gì. Anh bỗng nhớ đến một viên sĩ quan người Mỹ dạy đám học viên của anh, thế nào là bình tĩnh trên chiến địa. Bình tĩnh là anh đứng ở đây, nếu kẻ địch xông tới, dù biết chênh lệch lực lượng không thể chống nổi, cũng phải bắn một loạt đạn, bắn để báo cho đối phương biết, tao đang ở đây, rồi có chạy tao mới chạy.
Lại một đêm tuần tra.
Đến giữa sông, tốp lính trên xuồng cao su nhìn thấy có một chiếc thuyền nhỏ lặng lờ trôi. Lính lăm lăm súng cảnh giác chờ con thuyền tiến lại gần. Hàm chiếu sáng từ chiếc đèn pin ngoéo xuống mặt nước sông. Anh nhận ra trên con thuyền chỉ có một người cầm chèo. Tránh để lính nhìn gà hóa cuốc bắn nhầm người, Hàm bảo đám lính, vụ này để moa xử. Tốp lính biệt động cho xuồng áp sát thuyền. Hàm nhận ra người cầm chèo là một cô gái trẻ, gương mặt thon thả, nhợt nhạt, mái tóc rối bù vì gió.
Một ý nghĩ hay hay gợi trong đầu Hàm.
Anh cất tiếng:
“Đêm vào thành phố làm gì? Liên lạc cho Cộng quân hả?”.
Cô gái lắc đầu:
“Dạ, đâu có”.
Hàm lại hỏi:
“Tên gì?”.
Cô gái:
“Dạ, kêu Tư”.
Hàm hỏi:
“Đi đâu?”.
Cô gái nhìn lên ve áo Hàm, có vẻ lấy lại được bình tĩnh.
“Trốn Mẽo…”.
Hàm đay lại:
“Sao phải trốn Mỹ?”.
Cô gái:
“Mấy cậu dân vệ nói, sẽ có đơn vị Mỹ càn vô ấp. Ba má bảo tạm trốn sang thành phố, bao giờ yên thì về. Ấp đã có nhiều chị đẻ con lai...”.
Hàm im lặng một lát, hỏi:
“Cho xem căn cước”.
Cô gái lấy trong túi áo tấm thẻ căn cước, đưa cho Hàm. Xem thẻ căn cước của cô gái xong, Hàm nói:
“Đã gặp tụi tui đi phục kích, cô phải đi theo, không được về. Sợ lính Mỹ, nhưng có sợ lính quốc gia không?”.
Cô gái:
“Dạ thưa, lính quốc gia là người đằng mình, có chi mà sợ”.
Chiếc xuồng kéo thuyền nhỏ của cô gái đi theo. Rồi cả xuồng và thuyền tấp vô bãi lau sậy rậm rạp ở bờ bên kia. Một vài ngày trước khu bãi lau này là mục tiêu của một trận pháo kích, không biết Cộng sản từ đâu bắn tới. Sau đó, khu bãi lau không có thêm trận pháo nào nữa. Có lẽ họ đã biết đây chỉ là một bãi hoang, hoặc trận pháo của họ chỉ là để dọn trước cho một bãi đổ quân. Vì thế, giục đám lính lên bãi lau, Hàm căn dặn họ phải cảnh giác. Những người lính nhảy lên bờ trước. Đến lượt Hàm, anh cũng nhảy lên. Anh quan sát, nói với mấy tên lính đi theo:
“Tản rộng ra các hướng… Coi chừng Cộng quân qua đường này vô thành phố. Thay nhau ngủ và quan sát. Cả đội ở lại đây hết đêm nay, mai về. Tôi ở đây”. - Hàm quay lại xuồng nói với cô gái: - “Cô Tư ở lại thuyền hay lên bờ?”.
Cô gái nhỏ nhẹ:
“Dạ, cho Út lên bờ”.
Cô gái bước lên bờ. Tìm được một bãi cỏ trống giữa lau sậy, đại úy Hàm căng lều bằng bạt dã chiến. Xong việc, Hàm nói với cô gái:
“Út vào lều mà ngủ, mai bọn này cho phép về nhà. Lính Mỹ cuốn gói về Mỹ cả rồi, còn mống nào nữa đâu nữa mà càn vô ấp. Bọn dân vệ nói ba láp đó”.
Tư hỏi lại:
“Thiệt vậy ạ? Nếu không có lính Mỹ vô ấp thì cho Tư lên thuyền tự về nhà”.
Hàm nói:
“Không được đi đâu hết”.
Nói rồi, Hàm bước đi.
Tư bước vào lều, loay hoay tìm một chỗ, ngồi bó gối, mắt nhìn trời, nhìn sông. Trăng nhạt. Vô vàn tiếng côn trùng rền rĩ trên bờ sông và trong bãi lau, đom đóm con nào cũng to như ong, bay loạn xạ. Nhà của Tư ở ấp phía trên. Cô không lạ bãi lau bỏ hoang, nhưng ít khi tới đây vì với người ấp Xoài Hai, đây là bãi mả. Rất nhiều mả vô thừa nhận rải rác giữa các bụi lau dại, cỏ năn, dừa nước. Người trong ấp bảo đó là mả của quân họ và cả binh sĩ quân đội Sài Gòn quần nhau từ hồi sau sáu tám. Hai bên đụng độ ở ven sông, quần nát cả rừng lau, rồi bỏ xác lại cho dân ấp chôn lấp. Rất nhiều chuyện ma quái đản được đồn thổi ghê rợn về bãi mả. Tuy nhiên vào dịp rằm tháng Bảy hàng năm người già trong ấp Xoài Hai lại đội mâm cúng ra bãi mả cúng xá tội vong nhân và báo hiếu cho những kiếp người vô thừa nhận ở bãi hoang này. Tư cứng cổ từ bé, chỉ sợ người chứ không sợ ma.
Ngồi một mình trong lều cạnh bụi lau, Tư thấy chờn chợn vì thân gái một mình. Cô bò ra khỏi lều. Đêm trên bờ sông gió se lạnh. Tư tìm một chỗ thoáng sát mép sông, có thể nhìn được cả hai phía trước sau. Tư biết bơi, nếu bị bắt bí, cô có thể lao xuống nước bơi dọc theo bờ sông về ấp. Tuy nhiên cô chỉ đề phòng vậy thôi, chưa đến mức phải chạy trốn những người lính biệt động. Thái độ nhẹ nhàng của viên chỉ huy làm Tư tạm yên tâm.
Trong lúc Tư ngồi một mình, cuốn lại mái tóc rối, thì đại úy Hàm đi kiểm tra trận địa phục kích của tốp lính. Các tốp lính lợi dụng địa hình có những ngôi mả hoang làm nơi ẩn nấp, nên không đào công sự, chỉ dọn bãi lau thành những cái ổ, một người ngủ, một ngồi ôm súng canh gác. Thấy một anh lính ngồi hút thuốc cạnh ụ mả, Hàm nhắc:
“Đứa nào hút thuốc đó! Dẹp đi!” .
Hàm quay về lều bạt, soi đèn không thấy Tư. Ở dưới thuyền cũng không thấy cô. Hàm đang lùng tìm thì cô gái lên tiếng:
“Đại úy, Út ở đây nè”.
Hàm thấy Tư ngồi ở bãi trống, mặt hướng ra dòng sông, hỏi:
“Sao cô Tư lại ngồi ở đó?”.
Tư thành thật:
“Dạ, Tư sợ ngồi một mình trong lều”.
Hàm ngồi xuống cạnh Tư:
“Người ta đồn ở đây nhiều ma hoang. Nhưng cô đừng sợ vì có tôi ngồi đây canh cho cô ngủ”.
Hai người ngồi bên nhau một lát.
Hàm nói:
“Nhà tui bên bờ bên kia, thuở nhỏ từng tập bơi sông”.
Tư bảo:
“Út cũng vậy, có thể bơi về nhà”.
Ngồi một lát Hàm bảo:
“Mong sao có ngày anh em mình lại được thong thả tắm sông”.
Tư không hưởng ứng tắm sông, bảo:
“Út đói”.
Hàm lấy từ ba lô lương khô và đặt bi đông nước ra trước mặt. Hai người ngồi ăn lương khô. Tư vừa nhai lương khô vừa ngả đầu lên vai đại úy Hàm. Trên đầu họ bầu trời đùng đục lác đác những đốm sao. Phía trước mặt dòng sông lặng lẽ trôi.
Hàm đặt tay lên vai Tư:
“Em dễ mến lắm”.
Hàm vừa xoay người kéo Tư vào lòng thì vừa lúc, dưới sông có tiếng mái chèo khua nước và bóng chiếc xuồng cao su ghé vô bờ. Một cái bóng nhô lên trên ngọn bụi lau.
Hàm chĩa súng về phía cái bóng:
“Ai, đứng lại?”.
Cái bóng reo lên:
“Trình đại úy, tôi, thiếu úy Khung đây”.
“Khung là ai?”.
“Trình đại úy, tôi được tiểu đoàn trưởng điều động về làm đại đội phó, tăng cường cho đại đội của đại úy”.
“Đang đêm sao phải lặn lội tận đây để báo cáo?”.
“Trình đại úy, trung tá bảo từ nay, đi làm nhiệm vụ không được lên máy vô tuyến, kể cả máy Motorola cầm tay, nên lệnh tôi sang tìm đại đội trưởng để trực tiếp truyền lệnh”.
“Lệnh gì?”.
“Trình đại úy, lệnh sáng mai đại úy phải có mặt ở sở chỉ huy tiểu đoàn, gặp trung tá”.
Nói xong, viên thiếu úy Khung quay lui. Hàm vội tung chiếc chăn dù lên vai Tư. Bây giờ Hàm để ý, quanh anh là bờ lau che khuất.
Hôm sau, ở sở chỉ huy tiểu đoàn trước mặt một đám sĩ quan, trung tá Hai Xương, tiểu đoàn trưởng đứng ép vào Hàm để gài lon mới lên vai áo cho anh. Vừa gài cho Hàm lon trung tá, tiểu đoàn trưởng vừa nói:
“Mi đi tuần sang bên kia sông, nhặt được con nhỏ ngon đã quá ta”.
Hàm không phản ứng gì, nhưng chợt nghĩ nhanh, viên thiếu úy Khung đã kịp nói với cấp trên. Hắn về chiến đấu hay về để làm tai mắt cho tiểu đoàn trưởng? Một đại đội mà có thằng cấp dưới theo dõi để ton hót với cấp trên thì khó chịu, như cái gai trong mắt. Phải để ý đến thằng thiếu úy ốm nhom này. Tốt nhất kiếm cớ tống khứ nó đi cho khuất mắt. Nhưng bây giờ không phải lúc. Bây giờ anh đành phải đứng thẳng lưng trước mặt cấp chỉ huy.
“Choa thay mặt tướng Đỗ Kế Giai, chỉ huy quân biệt động gắn sao cho mi. Chỉ mấy bữa vô Sài Gòn mà mi nhảy đại lên trung tá. Nam nhi thời loạn mà. Không có thời loạn đàn ông chỉ để chui vào háng đàn bà. Trung tá nghe đây, tiểu đoàn đầy nhóc chỉ huy rồi, không còn chỗ nào cho trung tá trẻ cầm quân nữa. Đợi nay mai, nếu tình hình yên, biệt động sẽ được thành lập thành các liên đoàn, lúc đó, mi sẽ có đơn vị mới để chỉ huy. Còn bây giờ ở đại đội cũng không sao. Mà chắc gì được yên hàn để tổ chức đơn vị mới. Trung tá nói gì thì nói đi, để sang phần nhận quà”.
Hàm không biết nói gì.
Trung tá vẫy tay cho một nữ quân nhân mắt xanh mỏ đỏ, mặc đồ lính, mông cong tớn, bưng ra một chiếc khay bạc, phủ vải đỏ. Trung tá, tiểu đoàn trưởng đỡ khay bạc, đưa ra trước mặt Hàm:
“Quà của trung tá đây, nhận lấy”.
Hàm nghĩ đó có thể là huân chương anh dũng bội tinh và cành mai. Xưa nay các sĩ quan có công được phong hàm vượt cấp thường nhận huy chương, cành mai và bằng chứng nhận. Chưa mở tấm nhung đỏ, Hàm nói:
“Tôi chưa có công trạng gì mà nhận phần thưởng thì ngại quá. Cám ơn trung tá, tiểu đoàn trưởng đã ưu ái”.
Trung tá nhìn thẳng mặt Hàm:
“Trung tá cứ mở nhận quà, rồi cảm ơn choa sau”
Hàm mở tấm vải đỏ. Anh sững lại, vì trên khay bạc không phải là huân chương anh dũng bội tinh mà là khẩu súng Colt Detective Special sáng bóng, loại súng ngắn mới của Mỹ dành cho sĩ quan từ thiếu tá trở lên trong quân đội Sài Gòn. Khi Hàm nhấc khẩu súng lên tay, trung tá, tiểu đoàn trưởng ngắm nghía Hàm như ngắm vật lạ, rồi mới đặt lên khay bạc một viên đạn đồng óng ánh:
“Trung tá biết dùng viên đạn này vào lúc nào?”.
Giao cho sĩ quan một khẩu súng với chỉ một viên đạn, không có trong quân lệnh nhưng là một quy ước bất thành văn. Những sĩ quan nhận nhiệm vụ đặc biệt được nhận khẩu súng ngắn và chỉ một viên đạn chỉ đươc dùng để tự sát nếu bị đối phương bắt, không được đầu hàng. Nghĩa là anh chỉ được chiến đấu đến chết ở trận địa tử thủ đầu cầu cây Bông. Mình sẽ là người không đầu hàng, Hàm nghĩ, bởi anh sẽ không bao giờ để bị bắt và vì thế cũng không có dịp để dùng viên đạn danh dự này.
Lắp viên đạn vào khẩu Colt, Hàm nói với tiểu đoàn trưởng:
“Cám ơn. Tôi xin ghi nhớ Tổ quốc, danh dự và trách nhiệm”.
Nữ quân nhân bưng khay rượu ra ngay sau đó.
Hàm cầm ly rượu trên tay, nhưng chưa uống vì lặng lẽ quan sát cách uống rượu của trung tá, tiểu đoàn trưởng. Anh muốn xem con người huyền thoại từng nhảy toán ra Quảng Bình uống rượu như thế nào. Khác với cách ăn nói xô bồ, văng mạng và tục bậy, khi uống rượu trung tá lại hết sức từ tốn, chậm rãi, vừa uống vừa như “nghe” dòng rượu thấm dần làm ấm nóng từ họng cổ xuống ruột gan. Ông ta tìm cái sảng khoái khi uống rượu chứ không tìm cơn say. Cách uống rượu của người thận trọng và sâu sắc, còn giấu kín nhiều chuyện trong bụng. Hàm đã gặp không ít trong cuộc nhậu những tay uống rượu chậm và ngẫm ngợi như trung tá. Những tay này thường rất lỳ đòn, nhậu tới số, đánh nhau tới số. Sau cái ba la, bô lô của ông là một con người khác, con người trao cho Hàm viên đạn tự xử không phải là người tầm thường, Hàm nghĩ cần phải thận trọng.