Sự kiểm soát của cha mẹ là không giống nhau. Có thể là bảo vệ, là định hướng, là ngột ngạt, cấm đoán, cách ly hoặc gây phiền nhiễu. Đứa trẻ sẽ biến thành một con người khác nếu cha mẹ không kịp thời giảm bớt sự kiểm soát.
Việc người mẹ kiểm soát tất cả mọi thứ con ăn trong ngày khi đứa trẻ mới lên hai hoặc trẻ mắc một số dị ứng nào đó thì là điều hết sức bình thường, tự nhiên và hợp lý. Nhưng nếu một đứa trẻ đã 7 tuổi thì sao? Tưởng tượng con bạn được mời tới dự một bữa tiệc sinh nhật của bạn cùng lớp. Có rất nhiều trẻ em. Chúng chạy nhảy vui vẻ và ồn ào. Thỉnh thoảng chạy tới bàn, nhặt một thứ gì đó để ăn và lại chạy đi chơi. Tất cả người lớn đang đứng nói chuyện rất vui vẻ. Duy chỉ có một người mẹ chăm chú nhìn cậu con trai: Bất cứ thứ gì thằng bé lấy trên bàn đều bị bà mẹ cho là độc hại và gây dị ứng cho thằng bé. “Vitria, Vitria bé bỏng, con vừa lấy gì vậy? Hãy đặt kẹo lại vị trí cũ! Nếu không chúng ta nên nhanh chóng rời khỏi đây”. Người mẹ trên thực tế đang khiêu khích cậu con trai: “Con thử lấy kẹo trên bàn xem. Đừng tưởng mẹ không nhìn thấy”. Có thể lần này người mẹ đã chiến thắng trong trò chơi, nhưng tôi đảm bảo với bạn rằng việc như vậy sẽ tiếp tục xảy ra vào buổi tiệc nào đó tiếp theo. Sự kiểm soát của mẹ sẽ trở nên phiền toái, và ngày càng làm mẹ xa rời con mình. Ngoài ra, sự kiểm soát quá đáng của bà mẹ cũng cản trở sự phát triển tính tự lập và trách nhiệm ở trẻ. Cậu bé Vitria đã 7 tuổi và có thể hiểu được những nốt phát ban trên da là “hậu quả” đến từ những thứ cậu bé ăn.
“Con lấy kẹo ư? Tất nhiên con có thể ăn chúng. Nhưng hãy nhớ rằng sau đó tay con sẽ bị trầy xước vì dị ứng”. Vitria hoàn toàn hiểu được điều đó. Cậu bé có thể lựa chọn. Tự mình lựa chọn một cách có ý thức và trách nhiệm. Quan trọng là cha mẹ đừng sợ sệt việc giao phó trách nhiệm về chính bản thân con cho con.
Tôi từng dạy một nhóm học sinh lứa tuổi mẫu giáo mắc bệnh dị ứng, nhưng dị ứng với những thứ khác nhau. Và tất cả chúng đều biết rõ cái gì có thể và không thể ăn.
Ở lớp mẫu giáo, lũ trẻ có truyền thống mang bánh kẹo tới lớp vào ngày sinh nhật để chiêu đãi cả lớp. Những đứa trẻ ở nhóm này của tôi cũng mang kẹo và bánh quy mà chúng không bị cấm ăn. Những đứa trẻ mới chỉ 4 tuổi thôi hào hứng hỏi: “Kẹo này không có hạt ở trong chứ?” hoặc từ chối thẳng thừng: “Tớ không ăn vì nó có gluten!”. Cha mẹ đã nói cho chúng hiểu tại sao không nên ăn bằng cách giải thích mối quan hệ nguyên nhân − kết quả, giao phó cho con quyền tự chịu trách nhiệm và chuyển từ kiểm soát sang tự kiểm soát.
Sẽ là bình thường nếu người mẹ kiểm soát quá trình cất đồ dùng học tập vào nửa học kì đầu của năm lớp Một. Bởi sự kiểm soát này là vừa đủ và hết sức tự nhiên. Tuy nhiên hãy chú trọng hơn đến việc dùng sự kiểm soát này để dạy trẻ cách tự kiểm soát: “Hãy kiểm tra lại một lần nữa xem con đã cất vào cặp tất cả những đồ cần thiết chưa. Mẹ nghĩ chúng ta nên kiểm tra một lần nữa bằng cách xem lại thời khóa biểu cho buổi học ngày mai. Ồ, ngày mai con sẽ có môn Toán. Con đã cất sách và vở bài tập toán chưa vậy?”
Dạy trẻ không đến muộn cần có thời gian và thời điểm thích hợp nhất, đó là ngay khi trẻ mới vào lớp Một. Khi đó, trẻ vẫn còn thái độ nghiêm túc, tôn trọng việc học và mong muốn được trở thành những học sinh siêng năng.
Sẽ là không bình thường nếu người mẹ chạy theo đứa con đã học tới lớp Ba và hỏi: “Con đã cất bút màu vào cặp chưa?”. Sự kiểm soát này quá dai dẳng. Mang bút tô màu cho buổi học vẽ là việc trẻ phải chịu trách nhiệm. Điều khủng khiếp gì sẽ xảy ra nếu trẻ quên không mang bút màu? Sẽ chẳng có gì kinh khủng. Trẻ sẽ tự nhận thấy hậu quả nếu mình quên. Trẻ sẽ tự giải quyết hậu quả này, chẳng hạn như mượn bạn. Hoặc nếu không mượn được, hay viễn cảnh xấu nhất như bị điểm kém trẻ cũng sẽ rút ra một kết luận nào đó. Kết luận đúng sẽ là: “Chúng ta cần phải chuẩn bị kĩ đồ dùng học tập”. Kết luận chưa đúng sẽ là: “Mẹ, tại sao mẹ không cất bút màu vào trong cặp cho con!”.
“Tại mẹ mà con bị nhận điểm hai!”. Người mẹ đã kích động đứa con đi đến một kết luận sai chỉ vì không kịp thời chuyển quyền kiểm soát sang tự kiểm soát.
Một vấn đề cực đoan khác, đó là: Ngay lập tức, từ những ngày đầu tiên, nhà trường đã giao cho học sinh tự chịu trách nhiệm về việc học tập của mình. Điều đó hoàn toàn không góp phần gì nhiều vào việc giúp trẻ phát triển tính tự lập. Điều gì sẽ xảy ra nếu người lớn nói với trẻ rằng: “Hãy tự mình chuẩn bị đồ dùng học tập theo cách con muốn!” trong khi trẻ chưa được dạy tính tự chủ, cũng chưa được dặn dò phải kiểm tra lại đồ dùng trong cặp sách bằng cách xem lại thời khóa biểu. Rất có thể, đứa trẻ sẽ ngay lập tức rơi vào trạng thái thất bại. Điều này sẽ khiến trẻ có thái độ tiêu cực với việc học. Hãy dẫn dắt trẻ tới các hoạt động, tình huống mà trẻ chưa biết cách xử lý hoặc không được phép làm. Ban đầu, chúng ta chỉ dẫn trẻ, sau đó cùng làm với trẻ, kiểm tra và sau cùng là tin tưởng trẻ. Hãy nhớ thực hiện các giai đoạn theo trình tự và nhất định không được nhảy cóc.
Làm thế nào để nhận biết khi nào sự kiểm soát trở nên ngột ngạt với trẻ? Rất đơn giản. Hãy tự hỏi bản thân: Khi mình làm như vậy, mình xuất phát từ tình yêu dành cho con hay tình yêu dành cho bản thân? Nếu thực sự xuất phát từ tình yêu dành cho bản thân thì mong muốn được thể hiện quyền quyết định và nhu cầu kiểm soát sẽ được tạo thành như sau: “Cần phải làm theo những điều mẹ nói. Không được phép làm những việc mẹ không dặn. Mẹ là người biết rõ nhất. Cần phải nghe theo mẹ. Thậm chí nếu mẹ có nhầm lẫn, có sai thì theo thời gian mọi thứ sẽ trở thành y như những gì mẹ nói”. Mẹ trong công thức này có thể được thay bằng bố và cũng không có gì thay đổi hết. “Sáng kiến” trong cách tiếp cận như vậy ở trẻ hoàn toàn bị đàn áp bởi thẩm quyền của cha mẹ. Mọi điều bố mẹ nói là nhiệm vụ cần phải thực hiện chứ không phải sự tự chủ.
Bạn có thể đặt thêm một câu hỏi cho chính mình: Khi bạn kiểm soát đứa trẻ, xuất phát từ mong muốn được giúp đỡ con hay mong muốn tránh những đánh giá tiêu cực từ người ngoài? Bạn lúc nào cũng có câu hỏi “Họ sẽ nghĩ sao về mình?”. Nếu đứa trẻ quên sách ở nhà, giáo viên sẽ nghĩ sao về tôi? Nếu đứa trẻ đi học muộn, giáo viên tiếng Anh sẽ nghĩ sao về tôi? Nếu con không tốt nghiệp Đại học, bạn bè sẽ nghĩ sao về tôi?
- Nhanh chân lên nào! Con chẳng có nhiều thời gian nữa đâu! Con đang muộn mất rồi! Ăn vậy là đủ rồi! Đặt miếng sandwich xuống! Con không đủ thời gian để ăn hết nó đâu! Đã đến lúc đánh răng rồi! Hãy nhai nhanh lên! Uống nước đi nếu con không muốn bị nghẹn! Con ngủ quên trong nhà tắm hay sao vậy? Ra ngoài và mặc quần áo ngay! Hãy đi giày rồi sau đó mới mặc áo khoác! Găng tay của con đâu? Còn chìa khóa nữa?
Tôi đã từng sống trong một căn hộ đi thuê với những tiếng ồn kinh khủng. Sáng nào tôi cũng bị biến thành nhân chứng bất đắc dĩ về việc chuẩn bị đến trường của cậu con trai nhà hàng xóm. Với tất cả những gì mình nghe thấy, tôi đã khẳng định họ ồn ào xung quanh chuyện chuẩn bị cho thằng bé đến trường. Nhưng cho đến một ngày, khi đi cùng họ trong thang máy, bà mẹ không ngừng than thở về chuyện đã sắp tới kì thi, còn cậu con trai thì càu nhàu rằng cậu sẽ không đủ thời gian để học mọi thứ. Hóa ra cậu “học sinh” chậm chạp đó đã là một sinh viên Đại học. Tôi có thể hình dung ra cách bà mẹ kêu gọi cậu ta khi còn là một cậu học sinh cấp I, cấp II… Tôi tự hỏi, liệu có khi nào đến lúc cậu ta đi làm rồi vẫn cần có mẹ đánh thức không?
Đứa trẻ cần được giải thích và hướng dẫn cách đặt đồng hồ báo thức. Bạn có thể giúp trẻ học thông qua những ví dụ thực tế như: xác định thời gian đi đến trường, xác định thời gian cho những sinh hoạt buổi sáng trước khi đến trường. “Hãy xem này, hôm nay chúng ta đã mất 20 phút đi bộ đến trường. Nếu con muốn đi chậm hơn, không vội vàng, con cần phải ra khỏi nhà sớm hơn. Để ra khỏi nhà sớm hơn con cần phải dậy sớm hơn. Vậy con nghĩ mình nên đặt báo thức lúc mấy giờ được nhỉ?”.
Dạy trẻ không đến muộn cần có thời gian và thời điểm thích hợp nhất, đó là ngay khi trẻ mới vào cấp I. Khi đó, trẻ vẫn còn thái độ nghiêm túc, tôn trọng việc học và mong muốn được trở thành những học sinh siêng năng. Lúc đó động lực đến trường đúng giờ xuất phát từ chính mong muốn của trẻ là mạnh mẽ nhất. Tất cả mọi mong muốn xuất phát từ động lực của chính mình sẽ dễ dàng giúp con người có trách nhiệm và tự lập.
Tôi cũng có một sự hoài nghi. Nếu cậu sinh viên hàng xóm mà tôi từng ngỡ là cậu học sinh kia phải nhờ cậy bố mẹ kiểm soát việc đi học đúng giờ, mang theo sách vở và ngồi ngoan ngoãn trong giờ học như vậy, thì cậu ta sẽ không có động lực mà theo học tại trường Đại học. Việc học ở trường Đại học với cậu là không cần thiết. Đây không phải là lựa chọn của cậu. Đây là lựa chọn của cha mẹ cậu. Như một hệ quả, việc kiểm soát một cách không cần thiết sẽ làm mọi chuyện đi theo một hướng hoàn toàn khác với mong muốn tốt đẹp ban đầu của chúng ta.