Trong truyền thống của chúng ta chứa đầy những câu chuyện. Sách Sáng Thế, một phần của bộ Ngũ Thư có những câu chuyện rất hay: chuyện về Adam và Eva, Cain và Abel, con thuyền của Noah, tháp Babel, sự phá hủy hai thành phố Sodom và Gomorrah, chuyện Abraham suýt hy sinh mạng sống của người con trai Isaac, chuyện Jacob và Esau, chuyện Joseph cùng chiếc áo khoác huy hoàng của cậu và hành trình phiêu lưu tới Ai Cập. Những câu chuyện tối giản này thuật lại những tích chuyện nguyên sơ về tình yêu, lòng ghen ghét, đố kỵ, mối kình địch giữa anh em ruột thịt, lòng tức giận, sự trả thù, đồng thời cho phép người kể tùy nghi thêm thắt đủ loại hiệu ứng, những đoạn hội thoại, giả thiết và các chi tiết. (Cách làm này xuất hiện rất nhiều trong sách Talmud. Nhiều thế hệ trẻ em Do Thái đã lớn lên cùng những câu chuyện như vậy.
Hãy dùng những câu chuyện dài làm vũ khí để lôi kéo sự tham gia của trẻ. Bạn không cần phải quá gắng sức cả về mặt kinh tế lẫn cảm xúc chỉ để chiều theo ý chúng, cũng không cần cố tỏ ra am hiểu hay sâu sắc khi kể chuyện. Chính vào lúc bạn cố ép buộc một đứa trẻ phải lắng nghe và học NHỮNG ĐIỀU QUAN TRỌNG, thì dẫu có quan tâm tới câu chuyện của bạn đến mức nào, nó cũng sẽ nhìn thấu hết tâm can bạn.
Một trong những nhà ủng hộ lối kể chuyện thông minh là người bạn Grace Aguilar của chúng ta (chính là nhà văn người Anh ở thế kỷ 19 mà tôi đã nhắc tới ở phần trước). Bà đã viết rằng việc cùng trẻ thực hiện mọi việc để phát triển ở chúng “ý thức tự hỏi” còn quan trọng hơn cả những bài học trong sách vở. Bà khuyến khích các mẹ Do Thái cùng con soạn lời cầu nguyện theo lối riêng và tự diễn giải những lời dạy trong Kinh thánh bằng ngôn ngữ riêng của họ thay vì phải bám vào sách. Bà còn phân tích về khái niệm “tôn giáo từ trái tim”. Đó không chỉ là những quy tắc và quy định mà còn là tình yêu dành cho truyện kể, là những cảm xúc tốt đẹp và cảm giác tự kiểm soát đối với đức tin của bản thân. Bà đã viết: “Đừng bao giờ coi những việc như nói chuyện với trẻ về đức Chúa, truyền dạy cho chúng ý chí của ngài và làm cho trái tim non nớt của chúng thấm nhuần tình yêu của ngài như một nhiệm vụ thường nhật. Cũng đừng bao giờ liên hệ công việc ấy với những món vật dụng khiếp đảm như sách vở hay những bài học.” Hãy làm sao cho chúng thật thú vị.
Mẹ của Aguilar đảm nhận gần như toàn bộ việc truyền dạy cho bà nền giáo dục Do Thái đến khi bà mười hai tuổi (khi bà sáng tác tác phẩm hoàn chỉnh đầu tiên là vở kịch về một vị vua người Thụy Điển, nhưng đáng tiếc là tác phẩm này đã bị mất). Sau đó, cha bà bắt đầu đau ốm do mắc bệnh lao. Trong thời gian dưỡng bệnh tại nhà, ông đã chia sẻ với cô con gái những câu chuyện truyền miệng lý thú của tổ tiên họ vốn là những người Do Thái ngầm (chỉ bí mật theo đạo Do Thái) dòng Sephardic trước đó đã bị ép phải cải đạo sang đạo Công giáo ở thế kỷ 14 hoặc 15. Hiện nay vẫn còn rất nhiều cuốn sách thiếu nhi khai thác sử liệu để viết về hậu duệ của những người Do Thái bị ép phải cải đạo mà đôi khi không hiểu rõ nguyên nhân. Còn trong trường hợp của Aguilar, những câu chuyện của cha bà lại tạo nên nguồn chất liệu những sáng tác văn học sử thi lãng mạn của cô con gái.
Aguilar chưa bao giờ có con. Sức khỏe của bà rất yếu. Năm 30 tuổi, bà qua đời vì một căn bệnh về xương. Thế nhưng di sản mà bà để lại sẽ trường tồn cùng thời gian. Đó là sự cả quyết về vai trò không thể thiếu của người mẹ trong việc truyền miệng những câu chuyện Do Thái và giáo dục con cái. Bên cạnh đó là những tác phẩm giờ đây đang nằm trong hệ thống Thư viện công cộng New York. Cộng đồng thư viện miễn phí Aguilar được thành lập năm 1886 đã truyền bá văn học trong các khu dân cư Do Thái như một cách để vinh danh tâm huyết của bà - người được lấy tên đặt cho thư viện. Ngày nay, thư viện Grace Aguilar nằm trên phố East 110 chính là một trong những nhánh thư viện cổ nhất thuộc hệ thống thư viện của thành phố New York. Sau đó, những sáng tác của Aguilar còn gây ảnh hưởng đối với Julia Richman. Bà đã dựa trên những tác phẩm này để định hình nên hệ thống trường công tại New York vào những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.