Nhu cầu, những thứ nhận được, sự sở hữu quá ít và ham muốn quá nhiều luôn là những trăn trở của người Do Thái. Sách Talmud và Ngũ Thư đầy ắp những lời hô hào về đạo đức trong kinh doanh mà khởi đầu là Mười điều răn: “Ngươi không được thèm muốn vợ hàng xóm, không được thèm muốn đầy tớ, con bò, con lừa, hay bất cứ vật gì của nhà hàng xóm.” Nhà hiền triết Maimonides đã phát triển một lý thuyết, đó là “thèm muốn”, nghĩa là muốn có một thứ gì đó mãnh liệt tới nỗi bạn gần như sẽ làm bất cứ điều gì để có được nó, kể cả phải ăn cắp. Ngài nói rằng khi bạn cảm thấy thèm muốn một đối tượng nào đó, bạn sẽ đặt áp lực lên một người khác nhằm khiến họ phải đưa lại cho bạn đối tượng ấy, và dù cho bạn có trả họ một khoản hậu hĩnh thì bạn vẫn phạm vào điều răn. Trong lý thuyết này, Maimonides đã thể hiện một quan điểm khá rõ ràng, đó là tội lỗi không thực sự nằm ở cảm xúc mà ở hành vi. (Không phải mọi nhà bình luận Ngũ Thư đều nhất trí với quan điểm này. Còn tôi thì rút ra một điều: Bạn có thể thừa nhận lòng ham muốn giàu sang và sung túc của bản thân nhưng không được có những hành vi trái với đạo đức để đạt được chúng).
Bộ Ngũ Thư cũng nói rõ rằng, trên tất cả, lòng thèm khát tiền bạc sẽ không bao giờ dẫn bạn đến điều tốt đẹp. Sách Ecclesiastes (Tạm dịch: Giảng viên), trong tiếng Hebrew là Kohelet chỉ rõ: “Với kẻ ham tiền thì bao nhiêu tiền cũng là thiếu, còn kẻ ham của cải thì có trút thêm bao nhiêu cũng không đầy.” Còn trong truyện truyền thuyết Do Thái, nguyên nhân dẫn đến sự phá hủy Ngôi đền thứ hai được giải thích là do người dân bắt đầu yêu tiền hơn cả yêu thương đồng loại.
Cộng đồng bài Do Thái đã dựng lên một hình mẫu người Do Thái chỉ yêu mỗi tiền. Thế nhưng, chúng ta vẫn luôn phát triển rực rỡ trong các lĩnh vực nghiên cứu, nhân đạo và sáng tạo. Những giá trị Do Thái như tính hiếu kỳ, thành tựu giáo dục, trình độ học vấn, tình yêu dành cho truyện kể, khả năng tranh luận, hồ nghi quyền thế, sự đau buồn trước thực trạng trước mắt và tinh thần cống hiến để hàn gắn thế giới đã khiến chúng ta bước vào những lĩnh vực tuy không “hái ra vàng” song lại giúp tinh thần được thỏa nguyện. Ngày nay, vị trí của chúng ta trong nền văn hóa thống trị đã thay đổi, tức là chúng ta cùng mọi công dân ở tầng lớp trung và thượng lưu khác của nước Mỹ cần phải nỗ lực dạy dỗ con cái sao cho chúng không trở thành những tên oắt con chỉ biết nghĩ đến tiền và nghiễm nhiên tự cho chúng quyền được hưởng thụ.
Trong cuốn Pirkei Avot (Tạm dịch: Đạo đức của những người cha) có một câu chuyện nổi tiếng rằng: Một người ngoại Do Thái tới gặp hai giáo sĩ Hillel và Shammai với giọng đầy mỉa mai. “Tôi muốn cải đạo sang đạo của các ngài, nhưng với một điều kiện là các ngài phải dạy hết cho tôi Ngũ Thư trong lúc tôi còn đứng được bằng một chân.” Shammai liền đuổi đánh hắn với một cây búa trên tay (ông là giáo sĩ nhưng đồng thời cũng là một thợ xây). Còn Hillel lại có cách trả lời khác. Ông nói: “Ngươi ghét điều gì thì không được làm điều đó với người khác. Toàn bộ Ngũ Thư đó; còn lại chỉ là những lời bình luận. Ngươi về mà học đi.” Đây là một biến thể của Quy tắc vàng, vậy nó có ý nghĩa gì trong thực tế? Về cơ bản, nó dạy chúng ta hãy suy nghĩ xem bản thân mình sợ bị lừa dối tới mức nào; bạn cũng không muốn ai thèm khát ngôi nhà hoặc con lừa của mình; bạn không muốn mình bị thiếu tôn trọng. Hẳn nhiên quy tắc ấy chưa thể đại diện cho toàn bộ đạo Do Thái, bởi vì như chúng ta đã từng phân tích, phần bình luận cũng đóng vai trò thiết yếu. Vì thế Hillel mới nói thêm câu “Ngươi về mà học đi”. Chắc chắn bạn không thể lĩnh hội toàn bộ Ngũ Thư chỉ trong thời gian đứng trên một chân, nhưng biết đối xử đúng đắn với tiền bạc cũng đã là một khởi đầu tốt. Mekhilta, cuốn sách lý giải về cuộc di cư Exodus có nói: “Bất kỳ ai thực hiện buôn bán trung thực đều được nhân loại yêu mến và được xem như đã tuân thủ toàn bộ Ngũ Thư.”
Đạo Do Thái cấm thờ cúng thần tượng. Và tiền cũng có thể trở thành một thứ thần tượng. Mù quáng thèm khát tiền sẽ khiến bạn phân tâm, không còn phân biệt nổi đúng sai, làm bạn mất kết nối với cộng đồng và đánh mất ý thức về bản thân. Cuốn Đạo đức của những người cha còn nói: “Ai mới là người thông thái? Chính những người biết học hỏi từ mọi người xung quanh.” Truyền thống của chúng ta không hề chú trọng tới của cải vật chất mà nhấn mạnh vào ba điều: Torah, avodah và gemilut hasadim, tức là học Ngũ Thư, nỗ lực làm việc và làm điều tốt cho mọi người xung quanh. Nghe có vẻ ngốc nghếch nhỉ, nhưng không lẽ lối sống đó lại tệ hại đến thế sao?
Và bạn biết gì không? Bạn thậm chí không nhất thiết phải học hết Ngũ Thư mà chỉ cần để cuốn sách dẫn dắt bạn trong các vấn đề học tập, cải thiện bản thân, và trong cam kết luôn chuyên tâm tới đạo đức cũng như những nghĩa vụ giữa con người với con người. Người Do Thái cũng chưa bao giờ cho rằng cứ phải là người Do Thái mới phát huy được tối đa năng lực. “Sự công bằng, đúng đắn của các quốc gia khắp toàn cầu sẽ góp phần tạo nên một thế giới tương lai tươi sáng.” Đó là lời ghi trong cuốn Tosefta Sanhedrin, cuốn sách cổ sưu tập các điều luật truyền miệng của người Do Thái.
Nhưng có một thứ mà người Do Thái vẫn khuyến khích nhau rút hầu bao để đổ tiền vào, đó là việc thực hiện các nghi lễ. Có những thời điểm cộng đồng người Do Thái từng sống một cuộc sống phong lưu sung túc ở một số quốc gia, như ở Tunisia vào thế kỷ thứ nhất, ở Barcelona vào thế kỷ 13, ở Cairo vào thế kỷ 16, ở Fez và Alexandria vào thế kỷ 17, và ở Berlin và Thổ Nhĩ Kỳ vào đầu thế kỷ 20. Khi đó họ đã cho xây những giáo đường tuyệt đẹp và thanh lịch với những bộ sách và cuộn sách lộng lẫy được làm thủ công. Suốt quãng thời gian từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19, tkhines (phiên bản Do Thái hóa của từ tkhinot trong tiếng Hebrew, nghĩa là các tờ sớ thỉnh cầu) và sách cầu nguyện dành cho phụ nữ là những mặt hàng được buôn bán rất chạy trong cộng đồng người Do Thái. Hai mặt hàng này được viết bằng ngôn ngữ giao tiếp chung là tiếng Do Thái - thay vì tiếng Do Thái cổ vốn là ngôn ngữ cao cấp được sử dụng trong những câu khấn nguyện truyền thống, và có sự tham gia đáng kể của phụ nữ trong quá trình sản xuất. Sách này bao gồm những lời cầu nguyện cho mọi vấn đề của cuộc sống hằng ngày: mang thai và sinh nở, hiếm muộn, chóng phục hồi sau bệnh tật, những lời thú tội, cảnh góa bụa... và kiếm được đủ tiền để sinh sống.
(Có một điểm hài hước gắn với những tờ tkhines này là cách chúng được người xưa quảng cáo. Dịch giả Devra Kay đã gọi đó là “sự kết hợp không cần ngượng ngùng, không chút tế nhị giữa những toan tính thương mại và lòng mộ đạo”. Giống như ngày nay, vấn đề tâm linh thời đó cũng bị biến thành một mặt hàng tiếp thị với thông điệp: Nếu có tiền (mà kể cả là không có tiền), bạn cứ thoải mái chi tiêu vào sách và những công cụ cải thiện bản thân mà không sợ có chút mặc cảm tội lỗi nào hết! Do đó, một câu trong Ngũ Thư đã được dịch ra tiếng Do Thái để nhắm tới các khách hàng là phụ nữ: “Này các cô gái, tất cả các cô còn chần chừ gì mà không bán hết quần áo tư trang đi hòng dành tiền mua tờ sớ này”).
Tôi cho rằng chẳng có gì xấu xa khi tiếp thị một sản phẩm và gắng hết sức để bán sản phẩm ấy, miễn là bạn không lừa dối và thực sự hiểu vai trò quan trọng của tính tâm linh trong những công thức tiếp thị ấy.
Câu chuyện trên cho thấy, bất chấp những lời lên án về phương cách kiếm tiền của người Do Thái, họ vẫn luôn là người giỏi tìm kiếm thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của mình cũng như luôn biết cách tiếp cận thị trường ấy. Khi có một sân chơi thương mại công bằng trong đó người Do Thái được tự do cạnh tranh (như thời điểm cuối thế kỷ 19 ở những vùng thuộc Tây Âu và Nga), thì tài kiếm tiền của họ đã trở thành một cái gai trong mắt dân ngoại Do Thái. Mark Twain đã nói: “Tôi bị thuyết phục với suy nghĩ rằng trong lòng thù địch mà các nước Nga, Áo và Đức dành cho dân Do Thái có 9 - 10 phần xuất phát từ nỗi bất lực của một người Ki-tô giáo trung bình khi không thể cạnh tranh thành công với một người Do Thái trung bình trong kinh doanh, dù là kinh doanh ngay thẳng hay những loại kinh doanh khiến ta phải đặt câu hỏi. Vài năm trước đây, khi ở Berlin, tôi có đọc một bài diễn văn đã thẳng thừng hối thúc trục xuất người Do Thái ra khỏi nước Đức; và lý do mà kẻ kích động đó đưa ra cũng thẳng thừng hệt như lời đề xuất của hắn, đó là: Vì 80% số luật sư thành đạt ở Berlin là người Do Thái, và vì cũng chừng đó số ngành kinh doanh lớn và sinh lợi ở mọi lĩnh vực của nước Đức đã nằm trong tay của đám chủng Do Thái đó! Chẳng phải đó là một lời thú nhận đáng sửng sốt hay sao? Hẳn vậy. Nhưng trong bối cảnh 48.000.000 triệu dân số mà chỉ có 500.000 người đăng kí là dân Do Thái, thì lời thú nhận ấy có thể diễn đạt như sau: Tới 80% số bộ óc và toàn bộ lòng trung thực của nước Đức đã nằm gọn trong tay dân Do Thái!” Thật là một con số đáng ngưỡng mộ!
Ngày nay, những người Mỹ gốc Do Thái có xu hướng giàu có hơn so với một công dân trung bình. 1/4 cộng đồng chúng ta có thu nhập hộ gia đình ở mức hơn 150.000 đô-la Mỹ, trong khi số người thuộc phần dân số còn lại trên đất Mỹ đạt mức này chỉ chiếm có 8% tổng dân số. Và bởi vì so với một người trung bình, chúng ta thường đợi lâu hơn mới sinh con (một cuộc điều tra phát hiện ra rằng 52% số phụ nữ Do Thái trong độ tuổi từ 30 tới 34 chưa có con, trong khi tổng số phụ nữ Mỹ cùng độ tuổi ở tình trạng này chiếm 27% tổng dân số), nên khi có con, chúng ta dành dụm được nhiều tiền hơn để chi tiêu cho chúng. Và chúng ta có lẽ cũng sẵn lòng mua cho con những món lặt vặt hơn để xoa dịu cảm giác tội lỗi vì đã đi làm chứ không ở nhà chăm chúng. Theo một điều tra gần đây của công ty Gallup, 75% số những phụ nữ đã tốt nghiệp đại học và có con dưới mười tám tuổi là những người ra ngoài làm việc, trong khi tỷ lệ này ở những bà mẹ không có bằng đại học chỉ ở mức 48%... Còn theo nghiên cứu Chân dung người Mỹ gốc Do Thái của Trung tâm nghiên cứu Pew, hầu hết phụ nữ Do Thái đều có bằng đại học và 28% có bằng sau đại học. Tất cả những con số này nói lên một điều: Chúng ta phải suy xét tỉ mỉ hơn về ý nghĩa của việc sở hữu đồng tiền.
Cũng là dễ hiểu khi chúng ta muốn con cái mình hạnh phúc và dùng vật chất để thưởng cho chúng. Nhưng chúng ta đang trở nên mất kiểm soát. Theo một nghiên cứu năm 2011, so với các cha mẹ kiếm được khoảng trên dưới 62.000 đô-la/năm, các cha mẹ trong những hộ gia đình có mức thu nhập hơn 102.000 đô-la/năm tiêu một số tiền nhiều gấp đôi vào các khoản bồi dưỡng tinh thần cho con cái như sách, các khóa học nhạc, máy tính và du lịch. Các gia đình giàu có hơn không chỉ chi cho con họ nhiều tiền hơn mà còn dành một tỷ lệ lớn hơn trong tổng số chi tiêu ấy để đầu tư vào các hoạt động bồi dưỡng tinh thần cho chúng bởi vì họ đủ khả năng kinh tế. Cũng theo một nghiên cứu năm 2013, hố sâu ngăn cách giữa phân khúc người dân có mức thu nhập cao nhất và thấp nhất trên toàn nước Mỹ đã mở rộng thêm nhiều trong hai thập kỷ qua. Cha mẹ nghèo ngày nay chi tiêu cho con họ còn ít hơn cả những cha mẹ nghèo thời trước, có lẽ vì ngày nay “nghèo” có nghĩa là cực nghèo.
Tuyệt, bạn bỏ ra nhiều tiền hơn để con bạn có cuộc sống cao cấp hơn và tươi đẹp hơn. Nhưng mặt khác: Vậy còn con của những người khác thì sao?
Hãy thông thái một chút nào và cùng nhìn lại xem người Do Thái trong lịch sử đã gắn kết hai việc “có tiền” và “cho tiền” ra sao. Dù bạn có là người Do Thái hay không, dù bạn có nguồn thu nhập sau thuế rủng rỉnh hay phải chật vật kiếm từng đồng, bạn và con vẫn có thể tìm thấy nhiều điều bổ ích từ quan điểm của người Do Thái đối với việc “sống tốt” và “sống thiện”.