Franklin thân yêu,
Mẹ đã cẩn thận hỏi trước xem em có cảm thấy thoải mái với việc tối nay bà tổ chức một bữa tiệc nhỏ ở đây, và em nghĩ là bà đã hối hận về việc chọn thời điểm. Ngày hôm qua ở Wakefield, Massachusetts, một người đàn ông to lớn, bực bội, kỹ sư phần mềm Michael McDermott, người mà cả nước biết đến như một người hâm mộ khoa học viễn tưởng, người cũng như hầu hết những người đàn ông trên phố đã quen với sở thích mặc đồ chật của con trai chúng ta, đã bước vào công ty công nghệ Edgewater với một khẩu súng ngắn tự động, một khẩu súng lục và sát hại bảy đồng nghiệp. Em hiểu rằng McDermott đang rất tức giận, và em ở đây, nói về tình hình tài chính của anh ta và sự thật là chiếc xe sáu năm tuổi của anh ta sắp đến hạn bị thu hồi, còn sếp của anh ta thì đã lấy tiền lương của anh ta để trả tiền thuế.
Em không thể không nghĩ đến bố mẹ anh vì họ sống ngay gần Wakefield. Bố anh luôn tin rằng mình biết phân biệt nặng nhẹ, một sự ám ảnh chắc chắn ảnh hưởng không nhỏ đến những hành vi như là than trách để uốn nắn lại. Bố mẹ anh hẳn tưởng tượng rằng thế giới của những điều lố bịch và ngớ ngẩn đang đóng lại với họ.
Đã lâu từ khi người ta từ bỏ việc mời Sonya Khatchadourian đến những buổi tiệc và phải nghe những lý do kỳ lạ mà bà đưa ra cho việc không thể đến tham gia đêm diễn kịch ở trường, những người bạn già đã thử món lahmacun và ziloog phủ vừng của mẹ em rất nhiều lần trước đây và chỉ chăm chú vào những món bốc bằng tay. Thay vào đó, với vài sự khác biệt, được trao cho vị khách danh dự, họ đều đang nói về Michael McDermott. Một quả phụ nghèo buồn bã nhận xét rằng bà không hiểu tại sao một thanh niên lại cảm thấy bị ruồng bỏ khi có biệt danh là “Mucko”. Dì Aleen khó tính của em thì lầm bầm về cuộc chiến của bà với sở Thuế, một khoản 17 đô chưa thanh toán từ năm 1991, trải qua nhiều năm và lãi suất của nó cùng với phí thanh toán muộn đã lên đến 1300 đô, khiến bà cũng muốn cầm súng. Nhưng tất cả bọn họ đều ngại ngần lảng tránh em, một chuyên gia trong cuộc có cái nhìn sâu sắc về những cái đầu lộn xộn.
Em cuối cùng phải nhắc nhở những người phụ nữ này một cách chắc chắn rằng người đàn ông cô đơn, to lớn đó và em chưa bao giờ gặp nhau. Dường như tất cả cùng nhận thức được rằng ngày nay không một ai ở đất nước này trở nên nổi tiếng hơn chỉ bằng một vụ giết người đơn thuần, nó không hơn gì một luật sư chỉ học một Luật cũ đơn thuần. Có những vụ thảm sát ở nơi làm việc, rồi xả súng ở trường học, những lĩnh vực mà em khó có thể tham gia, em cảm thấy một sự ngượng nghịu tràn ngập trong phòng, như khi người ta gọi đến phòng Kinh doanh mà đáng nhẽ họ phải hỏi phòng Quan hệ Khách hàng. Vì mang chuyện “Florida” ra bàn luận vẫn là quá nguy hiểm khi không biết tất cả mọi người có cùng một phe hay không, một vài người thận trọng chuyển chủ đề sang món lahmacun.
Ai nói tội ác không phải trả giá? Em không nghĩ sở Thuế có thể lấy được được một xu nào của Mucko, và kẻ trốn thuế bốn mươi hai tuổi sẽ buộc phải trả gấp nhiều lần phí kiện tụng so với mấy đồng bạc mà sở Thuế vắt ra từ lương của anh ta.
Đó là cách mà em suy nghĩ, dĩ nhiên là từ khi cái giá của công lý không còn là một vấn đề trừu tượng trong cuộc sống của em mà hoàn toàn có thể đếm bằng đô-la và xen. Và em thường hồi tưởng về phiên tòa đó.
“Bà Khatchadourian.” Em như nghe thấy tiếng Harvey nghiêm túc bắt đầu. “Các công tố viên đã đưa ra bằng chứng rằng bà điều hành một công ty ở Manhattan trong khi để con trai mình cho một người lạ chăm sóc. Và khi cậu bé lên bốn, bà đang ở tít tận châu Phi.”
“Lúc đó tôi không biết rằng sống cuộc đời của mình cũng là phạm pháp.”
“Nhưng sau khi trở về bà đã thuê một người khác để hàng ngày lo công việc của bà, còn bà có thể dành thời gian làm một người mẹ tốt hơn?”
“Đúng vậy.”
“Có phải bà đã đóng vai trò người chăm sóc chính không? Thực tế, bên cạnh những người trông trẻ không thường xuyên, có phải bà đã không ngừng có thêm những sự giúp đỡ từ bên ngoài?”
“Thẳng thắn mà nói, chúng tôi đã từ bỏ việc thuê người giữ trẻ bởi vì không thể tìm được ai có thể chịu được Kevin lâu hơn vài tuần.”
Harvey nhìn có vẻ khó chịu. Khách hàng của anh ta đã tự hủy hoại mình. Em nghĩ rằng phẩm chất này khiến mình trở nên đặc biệt nhưng biểu hiện chán nản trên gương mặt luật sư của em lại chứng tỏ rằng em là một kiểu người máy móc.
“Nhưng bà đã lo ngại về việc cậu bé cần người chăm sóc liên tục, và đó là lý do bà chấm dứt việc thay đổi các cô trông trẻ và quyết định ở nhà.”
“Vâng.”
“Bà Khatchadourian, bà yêu công việc của mình phải không? Đó sẽ là một sự hy sinh cá nhân to lớn. Vậy sự hy sinh này, tất cả là vì đứa trẻ phải không?”
“Tôi đã phải từ bỏ rất nhiều.” Em nói. “Nhưng nó cũng chẳng đáng gì.”
“Không có thêm câu hỏi nào nữa, thưa quý tòa.” Bọn em đã tập dượt chỉ đến đoạn “từ bỏ rất nhiều”, Harvey liếc về phía em một cái.
Liệu từ năm 1987 em có chuẩn bị trước cho mình một lời biện hộ? Mặc dù kỳ nghỉ phép bỏ ngỏ của em ở AWAP đã kéo dài hơn mức cho phép, nó cũng chỉ là sự thay đổi không đáng kể. Em đã nghĩ rằng có vẻ nó cũng tốt. Em không phải loại người sống theo những gì người khác nghĩ, nhưng người chất chứa những bí mật tội lỗi chắc chắn sẽ dần héo hon.
Vậy nên khi hai người đón em ở sân bay Kennedy, em đã sà xuống ôm Kevin đầu tiên. Nó vẫn đang khó chịu, thõng người xuống, nó chẳng buồn ôm lại em. Nhưng cái ôm chặt và lâu đã phô trương cuộc tự đối thoại “sinh ra lần nữa” của em lúc ở Harare. “Mẹ nhớ con nhiều lắm!” Em nói. “Mẹ mang về hai bất ngờ cho con, con yêu. Mẹ có một món quà thôi nhưng mẹ hứa sẽ không bao giờ đi xa lâu như vậy nữa.”
Kevin thậm chí còn ẻo lả hơn. Em đứng dậy và chỉnh lại tóc nó, ngượng ngùng. Em đã diễn vai của mình, nhưng người xem có thể suy luận từ sự uể oải thiếu tự nhiên của con trai chúng ta rằng em đã nhốt và còng tay nó vào bình nước nóng dưới tầng hầm.
Em hôn anh. Mặc dù em nghĩ rằng trẻ con thích nhìn bố mẹ chúng âu yếm nhau, Kevin dậm chân thiếu kiên nhẫn và rống lên, rồi kéo tay anh. Có thể em đã làm sai. Em chưa từng thấy mẹ mình hôn bố mình. Em ước mình được thấy.
Anh dừng nụ hôn và nói. “Có thể sẽ phải mất một thời gian Eva ạ. Với trẻ ở độ tuổi này, ba tháng là rất dài. Chúng giận dữ. Chúng có thể nghĩ em sẽ không bao giờ quay lại.”
Em định đùa rằng Kevin dường như không vui vì em đã quay lại nhưng em kiềm lại, một trong những sự hy sinh đầu tiên cho cuộc sống gia đình là sự bình yên trong tâm hồn. “Cái u-ờ u-ờ này là gì đây?” Em hỏi khi Kevin liên tục kéo tay anh và kêu lên.
“Snack phô-mai.” Anh vui vẻ nói. “Việc cuối cùng phải làm. Được rồi, nhóc con, cùng đi tìm một túi màu phát sáng nào.” Rồi anh lao ra khỏi cổng phi trường để mặc em kéo hành lý theo sau.
Ngồi trong xe, em phải nhặt các vụn snack dính lung tung ở ghế ngồi, chúng đang trong những giai đoạn tan rã khác nhau. Sở thích ăn uống của Kevin không bao gồm đồ ăn vặt, nó chỉ mút chúng, liếm lớp bột màu bên ngoài và thấm đủ nước dãi để chúng mềm ra.
“Trẻ con thích đồ ngọt mà, phải không?” Anh vội vàng giải thích. “Con chúng ta thì thích muối.” Rõ ràng sở thích với natri khác xa với việc hảo ngọt.
“Người Nhật nghĩ đó là hai thứ hoàn toàn trái ngược.” Em nói, vứt bộ sưu tập kinh tởm trong tay mình ra khỏi cửa sổ. Mặc dù có ghế sau nhưng ghế ngồi trẻ em của Kevin được đặt ngay giữa chúng ta, và em thấy tiếc rằng mình không thể nào, như mọi khi em vẫn thường làm, đặt tay lên đùi anh.
“Mami xì hơi.” Kevin nói, giờ nó có thể phân biệt rõ ràng giữa Mami và Mẹ. (Điều đó thật đáng yêu.) “Thối quá!”
“Đó không phải là điều con cần phải loa lên đâu Kevin.” Em nghiêm nghị. Em đã ăn đậu nghiền và chuối ở Norfolk trước khi lên máy bay.
“Đến Junior được không?” Anh đề nghị. “Nó nằm ngay trên đường mình đi và cũng thân thiện với trẻ con nữa.”
Anh đã chẳng thèm để ý rằng em vừa có một chuyến đi mười lăm giờ đồng hồ từ Nairobi nên em sẽ mệt vì chuyến bay, phải ăn quá nhiều bánh Đan Mạch và phô mai đóng gói và không có tâm trạng cho một nhà hàng rẻ tiền, ồn ào với món nổi bật duy nhất là bánh kem phô-mai. Em đã thầm mong là anh tìm được một người trông trẻ và một mình đến sân bay đón em, để đưa em đi uống ở một nơi yên tĩnh, nơi mà em có thể rụt rè thổ lộ mong muốn thay đổi cách làm mẹ của mình. Nói cách khác, em muốn tránh xa khỏi Kevin để tâm sự với anh rằng em sẽ dành bao nhiêu thời gian cho nó.
“Được.” Em trả lời. “Kevin, ăn hết mấy miếng snack phô-mai này hoặc là mẹ sẽ vứt hết đi đấy. Đừng vứt lung tung ra xe nữa.”
“Trẻ con thường bừa bãi mà Eva.” Anh vui vẻ nói. “Thoải mái chút đi!”
Kevin ném cho em một nụ cười màu cam láu cá rồi đập vào đùi em bằng bàn tay đầy bột phô-mai.
Ở nhà hàng, Kevin không chịu ngồi vào ghế ăn cho trẻ con. Vì rõ ràng việc làm cha mẹ đã khiến anh trở thành một kẻ hợm hĩnh khó ưa, em nói: “Được rồi, Kevin. Con có thể ngồi như người lớn nếu con cư xử giống như vậy”.
“Nhè nhè nhe nhe. Nhe nhé nhẻ nhè nhe nhè nhé nhé nhe nhe nhe nhe nhè nhé.” Bằng giọng nhạo báng, nó nhại lại âm điệu nghiêm khắc của em trơn tru đến độ nó có thể trở thành một ca sĩ phòng trà trong tương lai.
“Thôi ngay đi, Kevin.” Em cố giữ giọng điềm tĩnh. “Nhe nhe nhe, nhe nhe.”
Em quay sang anh. “Trò này diễn ra bao lâu rồi?” “Nhè nhè nhe nhe nhe nhe nhè.”
“Một tháng? Chỉ là một giai đoạn thôi, lớn lên sẽ hết.” “Nhẹ nhé? Nhẻ nhè nhẹ nhe nhẹ nhe, nhé nhe nhe nhé.”
“Em không chờ được.” Em nói, càng không muốn có thêm bất cứ từ nào thoát ra khỏi miệng mình kẻo nó lại thành ngôn ngữ nhe-nhe.
Anh định gọi hành chiên cho Kevin nhưng em không đồng ý vì nó đã ăn mấy đồ nhiều muối suốt cả buổi chiều rồi. “Nhìn xem.” Anh nói. “Cũng giống như em, anh cảm thấy vui khi con ăn bất cứ thứ gì. Có thể nó thiếu một số nguyên tố vi lượng, như là i-ốt. Cứ tin vào bản năng thôi.”
“Để em dịch lại câu của anh nhé: anh cũng suốt ngày ăn mấy cái bánh xoắn, zic-zac và anh như nghiện mấy thứ đó luôn. Gọi cho con một suất thịt hamburger đi, nó cần chất đạm.”
Khi người phục vụ bàn đọc lại các món chúng ta vừa gọi, Kevin nhe-nhe nhại theo liên tục.
“Cậu bé thật dễ thương.” Cô ấy nói và liếc nhìn chiếc đồng hồ một cách tuyệt vọng.
Khi thịt được mang ra, Kevin đứng dậy với lấy lọ muối và phủ kín miếng thịt đến nỗi trông nó như núi Kilimanjaro vừa trải qua một trận bão tuyết. Bực bội, em lấy con dao và định cạo hết đống muối đi nhưng anh giữ tay em lại. “Sao em không để cho thằng bé vui vẻ một chút chứ?” Anh trách nhẹ. “Chuyện muối cũng chỉ là một thời kỳ thôi, rồi lớn lên nó sẽ khác. Sau này chúng ta sẽ nói với nó khi nó lớn hơn và nó sẽ cảm thấy mình có những tính cách kỳ quặc ngay từ khi còn nhỏ. Đó là cuộc sống mà. Cuộc sống tốt ấy chứ.”
“Em chẳng nghĩ Kevin sẽ khó khăn khi tìm cho mình điểm kỳ quặc đâu.” Mặc dù ý thức về sứ mệnh làm mẹ đã giúp em trải qua nửa tháng cuối khá nhanh chóng, em đã hứa với bản thân, với Kevin khi trở về, và mặc nhiên là với cả anh. “Franklin, em đã đưa ra một quyết định quan trọng trong thời gian đi công tác.”
Nhân viên phục vụ quay lại với món sa-lát của em và bánh kem phô-mai của anh. Chân cô ấy lạo xạo trên tấm thảm, Kevin đã dốc hết lọ muối xuống sàn.
“Cô này có phân trên mặt.” Kevin chỉ vào vết chàm bẩm sinh trên má trái cô gái phục vụ, rộng khoảng ba xen-ti-mét và có hình dạng gần giống Ăng-gô-la. Cô ấy đã bôi kem che khuyết điểm lên đốm nâu đó nên nó đã mờ gần hết. Hầu hết sự che đậy còn tệ hơn khuyết điểm thật sự, em đã tự học được điều này qua kinh nghiệm của bản thân. Trước khi em kịp ngăn lại, Kevin đã nói thêm. “Sao cô không lau mặt đi? Đó là phân mà.”
Em đã liên tục xin lỗi cô gái, cô ấy chỉ khoảng mười tám tuổi và chắc hẳn cả đời đã phải chịu đựng nhiều vì vết chàm đó. Cô ấy gắng gượng nở một nụ cười và hẹn sẽ mang xốt ra cho em.
Em quay lại với con trai chúng ta. “Con biết đó không phải phân mà, đúng không?”
“Nhe nhé nhé nhe nhẻ nhe nhè, nhé nhe?” Kevin lắc lư trên ghế, đôi mắt nó rũ xuống. Nó đặt ngón tay lên bàn và mũi thì chạm vào rìa bàn, nhưng em biết dưới đôi mắt láu cá kia là một cái miệng đang cười: môi mím chặt, bạnh rộng ra và như bị ép buộc một cách kỳ lạ.
“Kevin, con biết cô ấy sẽ buồn phải không?” Em nói. “Con sẽ thấy sao nếu mẹ bảo mặt con như phân?”
“Eva, trẻ con không hiểu rằng người lớn có thể nhạy cảm về vẻ bề ngoài.”
“Anh có chắc là chúng không hiểu không? Anh đã đọc được điều đó ở đâu à?”
“Chúng ta có thể ngừng phá hỏng buổi chiều đi chơi đầu tiên cùng nhau được không?” Anh nài nỉ. “Sao em luôn nghĩ những điều tệ nhất về con thế?”
“Sao anh lại nghĩ vậy?” Em làm mặt khó hiểu. “Nghe giống như là anh luôn nghĩ những điều tệ nhất về em hơn đấy.”
Bối rối ngây thơ sẽ tiếp tục là chiến thuật của em trong ba năm nữa. Trong khi đó, không khí đã không còn phù hợp cho thông báo của mình nên em nói qua loa hết mức có thể. Em sợ ý định của bản thân sẽ biến thành một lời khiêu khích: dù anh có thích hay không, dù anh có nghĩ em là một bà mẹ thối nát, em cũng sẽ thay đổi, nên là chấp nhận nó đi.
“Chà!” Anh nói. “Em chắc chứ? Đó là một bước đi lớn đấy.” “Em nhớ lúc anh nói về chuyện Kevin học nói, rằng có thể nó nói muộn bởi vì nó muốn làm cho đúng. Ừ, em cũng là người cầu toàn. Và em sẽ không thể làm tốt cả AWAP và việc làm mẹ. Ở văn phòng, em liên tục nghỉ mà không báo trước, còn thường xuyên trễ giờ công khai. Trong khi mỗi ngày Kevin thức dậy mà không biết ai sẽ chăm sóc mình hôm nay, mẹ nó hay là mấy người người trông trẻ chỉ trụ được đến cuối tuần. Em nghĩ tốt nhất là cho đến khi Kevin học tiểu học. Điều này thậm chí có thể tốt cho W&P. Mang đến những viễn cảnh, những ý tưởng mới. Bộ sách có thể bị chi phối quá mức bởi sự độc đoán của em.”
“Em?” Anh ngạc nhiên. “Độc đoán?” “Nhe. Nhẹ nhé.”
“Thôi đi Kevin. Đủ rồi đấy. Để bố mẹ nói chuyện.” “Nhe nhe nhe nhe. Nhẹ nhè nhé…”
“Mẹ nghiêm túc đấy. Thôi cái trò nhe-nhe ngay không thì chúng ta sẽ đi về.”
“Nhẹ nhe nhé nhé. Nhe nhé nhè nhe-nhe nhe nhe nhè nhé nhe nhé nhe nhè.”
Em không hiểu sao mình lại doạ rời đi, nó chẳng có vẻ gì là muốn ngồi lại cả. Đó là lần đầu tiên em cảm nhận thấy một câu hỏi cố hữu: làm thế nào để phạt một cậu bé hầu như thờ ơ kỳ lạ với tất cả những gì mà ta không cho nó làm.
“Eva, em đang làm mọi chuyện tệ hơn…” “Vậy anh sẽ làm gì để bắt nó ngậm mồm lại?” “Nhẹ nhe nhé nhè nhè…”
Em tát nó. Không mạnh lắm. Trông nó rất vui vẻ.
“Em học điều đó ở đâu vậy?” Anh khó chịu. Đó là câu đầu tiên trong bữa ăn mà Kevin không dịch sang thứ ngôn ngữ nhe-nhe của nó.
“Franklin, nó càng ngày càng ầm ĩ. Mọi người thì đang nhìn kia kìa.”
Giờ thì Kevin bắt đầu rên rỉ. Nước mắt mãi mới chảy ra theo như em thấy. Em không làm gì cả. Em mặc kệ nó.
“Người ta nhìn vì em đánh con.” Anh gằn giọng, bế con vào lòng và dỗ dành khi nó bắt đầu hét lên. “Việc này không nên xảy ra lần nữa, Eva. Không phải ở đây. Anh nghĩ người ta đã thông qua một đạo luật hoặc cũng có thể có luật đã sẵn như vậy, đây có thể xem là hành hung.”
“Em tát con mình một cái và em bị bỏ tù ư?”
“Chúng ta phải đồng ý rằng bạo lực không phải là cách để truyền đạt mong muốn của mình. Anh không muốn chuyện này lặp lại thêm lần nào nữa Eva, không bao giờ!”
Vậy là nếu em tát Kevin, anh sẽ tát em. Em đã tự mường tượng ra được.
“Chúng ta rời khỏi đây được không?” Em lạnh lùng hỏi. Kevin đang lăn lộn khóc lóc, và nó có thể dễ dàng thổn thức thêm mười phút nữa. Chúa ơi, đó hoàn toàn là một màn kịch.
Anh ra hiệu gọi thanh toán. “Đây không phải là hoàn cảnh mà anh muốn để đưa ra thông báo của mình.” Anh nói, lau mũi Kevin bằng một tờ giấy ăn. “Nhưng anh cũng có một tin mới, anh đã mua một căn nhà.”
Em nhắc lại lời anh. “Anh đã mua một căn nhà? Anh không được mua một căn nhà mà em thậm chí còn chưa ngó qua lấy một lần. Chúng ta đã thỏa thuận.”
“Nếu anh không mua nhanh thì sẽ có người chớp lấy cơ hội ngay. Mà đằng nào em cũng đâu có quan tâm. Anh nghĩ em sẽ mừng là anh đã làm xong việc rồi.”
“Ừ thật mừng vì em sắp thoát khỏi việc mà em không thích ngay từ đầu.”
“Là vậy phải không? Em không thể chấp nhận bất cứ thứ gì ngoài cái dự án quý giá của em. Nếu em không tự mình làm nên SUBURBAWAP thì em sẽ không thể ngồi yên. Chúc may mắn khi làm tất cả những thứ ủy nhiệm ở văn phòng. Nó không tự nhiên mà có đâu.”
Anh để lại một khoản tiền boa hậu hĩnh. Em nghĩ rằng ba đô- la là để bù đắp cho vụ mặt-phân. Anh cử động như máy. Em có thể thấy anh đang tổn thương. Anh đã tìm kiếm ngôi nhà này rất lâu, và anh hẳn đã rất mong chờ được thông báo tin này cho em. Chắc anh vô cùng phấn khích khi tìm được ngôi nhà này nếu không anh đã không mua nó.
“Em xin lỗi.” Em nói khi chúng ta đi ra ngoài còn những người khác thì đang lén lút nhìn chằm chằm về phía chúng ta. “Chỉ tại em mệt quá. Em rất vui, em nóng lòng được nhìn thấy căn nhà.”
“Nhè nhẹ nhe nhè nhé…”
Em nghĩ mọi người trong nhà hàng đó đều cảm thấy nhẹ nhõm khi chúng ta rời đi. Em nghĩ mình đã trở thành kiểu người mà trước đây em từng thấy thương hại. Em cũng nghĩ mình vẫn luôn cảm thấy thương hại những người đó.
Hơn bao giờ hết.