• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mình cần nói chuyện về Kevin
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 32
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 32
  • Sau

Ngày 1, tháng Một, năm 2001

Franklin thân yêu,

Hãy gọi đây là một sự cam kết năm mới, em phải nói với anh rằng em ghét ngôi nhà đó. Ngay khi nhìn thấy. Đó không phải là thứ hình thành qua năm tháng. Mỗi sáng em thức dậy và đặt chân lên nền nhà trơn nhẵn, nhìn thiết kế thông minh và những hình khối trơn tru, em tự nhiên ghét nó.

Em đã gợi ý vùng Nyack, nhiều cây cối và gần Hudson, đó là một lựa chọn tốt. Anh vui vẻ chấp nhận hạt Rockland ở New York hơn là nơi nào đó ở New Jersey, một bang mà em chắc rằng có rất nhiều nơi thân thiện để sống nhưng chỉ nghe tên thôi em đã thấy như sắp chết rồi. Bản thân Nyack khá là đa sắc tộc, và giá cả thì khá là rẻ, với vẻ hơi nhếch nhác gần giống Chatham. Mặc dù nơi này tồi tàn hơn, sự khiêm nhường không tồn tại bởi vì tất cả những người mới đến trong thập kỷ qua toàn là những kẻ giàu sụ. Phố chính xếp hàng dài vô tận những chiếc Audi và BMW, món fajita thì quá đắt và những quán rượu mọc lên như nấm, những biển quảng cáo phòng ngủ hai giường riêng biệt với giá bảy trăm ngàn, Nyack thiếu một thứ chính là sự tham vọng. Trái ngược với Gladstone, em nghĩ vậy, một phòng ngủ chung tương đối mới nằm ở hướng Bắc, giữa phòng là chiếc đèn đốt xăng giả như trên quảng cáo của cửa hàng bánh kẹp Ye Olde, người Anh có một từ tóm tắt “twee40”.

40 Hoàn hảo quá mức

Thực tế là tim em đã thắt lại khi lần đầu tiên anh cày nát chiếc bán tải của mình trong một chuyến đi dài, khoa trương rời xa cuộc diễu hành Palisades. Anh nói không có gì đặc biệt cả, tốt hơn là để cho em “bất ngờ”. Chà, em đã bị bất ngờ. Một ngôi nhà mái bằng, một tầng nới rộng ra bởi kính và gạch đặc, nhìn thoáng qua nó giống như trụ sở của một đội ngũ hòa nhã, luôn muốn cải thiện xung đột một cách không tưởng và nhiều tiền đến mức chả biết tiêu vào việc gì, nơi mà người ta trao “Giải thưởng Hòa bình” cho Mary Robinson và Nelson Mandela.

Hình như ta chưa từng nhắc đến những hình dung của em? Anh chắc hẳn đã có nhiều ý tưởng. Ngôi nhà trong mơ của em là kiểu Victoria cũ. Nếu nó to thì nó phải cao, ba tầng với một gác mái, những ngóc ngách và những khe nứt mang vẻ cũ kỹ, những gian nhà phụ và một phòng chứa đồ, hầm thực phẩm và những chòi hun thịt, thang máy đưa đồ ăn và lan can trên gác mái. Một ngôi nhà đã hư hỏng đôi chút, sự cổ kính từ trên mái đá, những lan can ọp ẹp. Em sẽ trang trí nó bằng một chiếc sô-pha cũ với lớp vải bọc hoa đã sờn và phai màu, rèm cửa từ phiên chợ đồ cũ với dây vén rèm tua rua, tủ búp phê bằng gỗ gụ chạm khắc với kính mờ. Bên cạnh xích đu ở hiên nhà, đám hoa phong lữ mọc tràn cả ra ngoài những chiếc xô thiếc cũ. Không ai đóng khung những chiếc chăn thêu cũ rích của chúng ta hoặc mang nó ra đấu giá vì những mẫu họa tiết đầu tiên hiếm hoi của người Mỹ đáng giá hàng ngàn đô. Ta chỉ ném chúng lên giường và dùng cho đến khi nát thì thôi. Giống như những cuộn len được gom từ xơ vải, ngôi nhà dường như sẽ tích cóp cho mình những thứ đồ bỏ đi: một chiếc xe đạp với má phanh đã mòn và lốp thì xẹp, yên xe với thanh chốt cần điều chỉnh lại; một chiếc tủ góc bằng gỗ tốt nhưng lại được bao phủ bởi một màu xanh nhạt gớm ghiếc mà em luôn nói rằng sẽ cạo hết ra nhưng chẳng bao giờ làm.

Em sẽ không nói tiếp bởi vì anh biết chính xác điều em đang nói đến. Em biết căn nhà đó sẽ rất khó để sưởi ấm, em biết nó có gió lùa. Em biết bể phốt sẽ bị rò, hóa đơn tiền điện sẽ tăng. Em biết anh sẽ khó chịu vì cái giếng ở sân sau gây nguy hiểm cho những đứa trẻ nghịch ngợm nhà hàng xóm. Em có thể hình dung ra ngôi nhà này trong tâm trí sống động đến nỗi em có thể nhắm mắt lại, đi qua khoảng sân rộng và tự mình rơi xuống cái giếng đó.

Cúi người ra khỏi xe tải và đặt chân xuống sân, ngay chỗ bục quay xe bằng bê tông hình bán nguyệt trước chỗ ở mới, em nghĩ mình sẽ gọi nó như thế. Ngôi nhà lý tưởng của em là một nơi ấm cúng và tách biệt với thế giới bên ngoài, có thể nhìn ra Hudson (phải thừa nhận, khung cảnh rất tuyệt), những ô cửa kính lớn mở ra một khung cảnh vô tận. Đường vào lát đá cuội màu hồng giống như một tấm thảm chào mừng khổng lồ. Không có cây óc chó đen, không có những cây cúc chi và rêu do không được chăm bón mà chỉ có những cây bụi. Xung quanh ư? Một bãi cỏ. Không phải loại mát mẻ và ngọt ngào có những chồi non lấp lánh mời gọi lũ ong, mà là loại xơ xác, ngoằn ngoèo như miếng rửa bát màu xanh lá cây.

Anh mở tung lối vào. Tiền sảnh dẫn vào phòng khách có kích thước của một sân bóng rổ, và sau vài bậc thang thấp là “phòng” ăn được tách với phòng bếp bởi một bục ngăn cách để đưa thức ăn qua, không nghi ngờ gì, sẽ là một món hỗn hợp có cà chua phơi khô. Em chưa thấy cánh cửa nào cả. Em đã hoảng hốt, nghĩ rằng không có nơi nào để giấu mình cả.

“Nói với anh là nó không ấn tượng đi nào.” Anh hào hứng.

Em thành thật. “Em không nói nên lời.”

Em đã nghĩ rằng một đứa trẻ khi được thả trên một sàn gỗ rộng lớn được sưởi ấm bằng ánh sáng mặt trời sẽ hăm hở trượt trên đôi tất, cười khúc khích và lăn lộn, hoàn toàn không bối rối trước vùng đất hoang cằn cỗi. Thay vào đó, Kevin trượt xuống khỏi tay anh như một cục thịt và bị thúc giục buộc phải “đi khám phá”. Nó uể oải nhấc từng bước chân đến giữa phòng khách rồi ngồi phịch xuống. Em đã trải qua nhiều khoảnh khắc xa cách của con trai mình, nhưng khi đó, ánh mắt của nó hệt như “Em bé mồ côi Annie”, đờ đẫn như được đổ bằng sáp, tay buông thõng trên sàn nhà như cá nằm trên bến tàu.

“Em phải thấy phòng ngủ cỡ đại.” Anh nắm tay em kéo đi. “Có thể nhìn thấy bầu trời, cực kỳ ngoạn mục.”

“Có cửa sổ trần nhà sao?” Em hào hứng.

Tất cả các góc trong phòng ngủ đều xiên xẹo, trần nhà nghiêng. Những hiệu ứng bị xáo trộn, sự hồ nghi hiển nhiên đến từ những đường thẳng song song và những góc vuông, như thể cả căn nhà không muốn chứa các phòng bên trong, nó gây ra cảm giác bất an.

“Còn gì khác không?”

“Còn gì khác!” Ở một thời điểm không xác định trong những năm chín mươi, sự khoa trương của gỗ tếch sẽ trở thành lỗi thời. Chúng ta vẫn chưa đến thời điểm đó, nhưng em đã có thể đoán trước được.

Anh cho em xem những thùng gỗ tếch được khéo léo ghép với nhau thành một chiếc ghế dài, những chiếc gối đệm hình mặt cười màu vàng được buộc lên nắp. Anh đóng cửa tủ quần áo, nó xoay trên chiếc bánh răng trơn tru. Những đồ vật chuyển động trong nhà này không gây ra tiếng động nào, sàn nhà và các bề mặt đều cực kỳ trơn láng. Cửa tủ không có tay cầm. Không đồ gỗ nào có kẹp cố định. Ngăn kéo có phần lõm nhẹ. Tủ bếp mở và đóng chỉ với một tiếng cạch. Franklin à, cả căn nhà này đang bị trầm cảm.

Anh dẫn em qua cánh cửa kính trượt dẫn ra hiên nhà. Em đã nghĩ, mình có một cái hiên nhà. Em sẽ không bao giờ hét lên “Em đang ở ngoài sảnh” mà sẽ là “Em đang ở ngoài hiên”. Em tự dặn lòng rằng đó chỉ là cách gọi thôi. Tuy nhiên, nền sân vẫn cần một cái lò nướng để tổ chức tiệc nướng cùng những người hàng xóm mà em không thích lắm. Những miếng thịt cá kiếm đang sống có thể bị cháy xém chỉ trong một phút, đó là thứ em sẽ quan tâm.

Anh yêu, em biết điều em nói nghe có vẻ vô ơn. Anh đã vất vả tìm kiếm, đảm nhận việc tìm nhà cho chúng ta bằng tất cả sự nghiêm túc của một người do thám địa điểm chuyên nghiệp. Giờ em đã quen hơn với sự khan hiếm bất động sản ở khu này, nên em tin rằng bất cứ khu đất nào mà anh từng xem qua thì anh đều thấy gớm ghiếc. Ngôi nhà này thì không như vậy. Người ta đã không tiếc tiền xây nên nơi này. (Thật đáng thương cho những người vung tay không tiếc. Em nên biết trước vì họ là kiểu khách du lịch luôn coi thường sự thuận tiện của AWAP khi đi du lịch nước ngoài và cho rằng họ cần những trải nghiệm chơi đùa với tử thần.) Đồ gỗ trong nhà đều là gỗ quý, các vòi nước được mạ vàng. Người chủ trước đã đặt vào căn nhà những đặc trưng của riêng họ. Anh đã mua “căn nhà trong mơ” của một gia đình khác.

Em có thể thấy được điều đó. Một cặp vợ chồng làm việc cật lực để từ một căn hộ cho thuê rẻ tiền rồi qua một loạt những nơi không có gì đặc biệt, cho đến khi: một gia tài, một sự thăng tiến. Họ cuối cùng có thể sở hữu một mảnh đất và xây nên căn nhà họ hằng mơ ước. Cặp vợ chồng tham gia vào quá trình thiết kế, cân nhắc nơi để giấu các tủ quần áo, cách để phân chia thật tinh tế không gian sinh hoạt và làm việc. (Bằng một “CÁNH CỬA”, trời ơi! Em muốn hét lên như thế nhưng đã quá muộn để cho một lời khuyên.) Tất cả những góc nhìn sáng tạo trông thật bùng nổ khi ở trên giấy. Kể cả bụi cây cũng rất đáng yêu khi chỉ cao có nửa xen-ti-mét.

Nhưng em có một giả thuyết về ngôi nhà trong mơ. Phải có lý do mà từ “folly” vừa có nghĩa là một sai lầm ngu ngốc, vừa có nghĩa là một công trình xây dựng tốn kém. Bởi vì em chưa từng thấy một ngôi nhà trong mơ nào thực sự thành công. Giống như nhà của chúng ta, một vài điểm gần như hoàn hảo, mặc dù những thảm họa không được công nhận cũng nhiều tương đương. Vấn đề là dù anh có phung phí bao nhiêu tiền cho ván chân tường bằng gỗ sồi, thì một ngôi nhà không có lịch sử vẫn rẻ tiền. Mặt khác, rắc rối dường như bắt nguồn từ chính bản chất của cái đẹp, một phẩm chất khó nắm bắt và khó tìm thấy mà tiền chưa chắc đã mua được. Nó biến mất khi ta nỗ lực quá nhiều. Nó là sự bất ngờ, nó hầu như chỉ chiếu cố xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tình cờ. Trong những chuyến đi của mình, em đã say mê tìm kiếm nghệ thuật: một cột đèn trong một xưởng sản xuất súng từ năm 1914 đổ nát; một biển quảng cáo bỏ hoang với nhiều lớp chồng lên nhau thành một sự kết hợp hấp dẫn của Coca-Cola, Chevrolet và Burma Shave, những khách sạn nhỏ nghèo nàn có những chiếc gối phai màu tương xứng một cách không chủ định với những tấm rèm bị nắng làm phai màu.

Thật đáng ngạc nhiên, chính tư dinh tại Gladstone này, từng ngóc ngách dần trở thành nỗi thất vọng tàn phá linh hồn. Có phải những nhà thầu đã bớt xén, hay là những kỹ sư ngạo mạn đã tự phóng tác những thiết kế tỉ mẩn đó? Không, không. Ngay cả những ngăn tủ bếp ngoằn ngoèo trống rỗng cũng đã được làm đúng như yêu cầu. Lăng mộ sau bức tường rào đã được xây nên chính xác như chủ ý của người tạo ra nó, chính vì thế nên trông nó thật tuyệt vọng.

Công bằng mà nói, khả năng của con người trong việc mường tượng ra vẻ đẹp từ những đường vẽ nháp với việc thực sự nhìn thấy nó là một khoảng cách ngang với Đại Tây Dương. Chủ sở hữu ban đầu có thể có gu khá tốt nhưng tất cả bằng chứng đều chứng minh điều ngược lại. Nếu họ đúng như vậy thì thật càng đáng thương. Có một sự thật chắc chắn rằng những người xây nên thứ kinh dị này không có cách nào chống lại giả thuyết của em rằng họ cũng biết mình đang tạo nên một thứ thật kinh dị. Em càng tin rằng cả người chồng lẫn người vợ đều không bao giờ để cho người còn lại biết thứ kinh khủng này là gì, họ đều can đảm giả vờ rằng ngôi nhà này chính là thứ họ luôn cầu nguyện, trong khi thật tâm mỗi người chỉ mong rời khỏi đây ngay từ ngày đầu họ chuyển đến.

Anh tự nói rằng nơi này mới chỉ ba năm tuổi. Ba năm? Xây nơi này đã mất chừng đó thời gian rồi. Ai lại trải qua ngần đó rắc rối chỉ để rời đi chứ? Có lẽ quý ngài chủ nhà đã được thuyên chuyển đến Cincinnati và ông ta đã đồng ý nhận công việc đó. Còn điều gì khác có thể lôi ông ta ra khỏi cánh cửa thô kệch kia ngoài sự giải phóng cho chính ông ta? Ai có thể sống ngày này qua ngày khác ở nơi mà trí tưởng tượng nghèo nàn của chính mình đã trở nên vững chắc như gạch đá?

“Sao lại thế?” Em hỏi khi anh dẫn em ra sân sau. “Sao những người xây nên nơi này lại bán nó nhanh vậy? Sau khi họ xây nên một ngôi nhà... đầy tham vọng như vậy?”

“Anh cảm thấy họ kiểu như... mỗi người một ngả?” “Họ ly dị?”

“Ừ thì điều đó cũng chẳng khiến cho nơi này trông giống như bị nguyền rủa hay gì.”

Em tò mò nhìn anh. “Em có nói thế đâu.”

“Nếu những ngôi nhà phải cùng trải qua những thứ như vậy...” Anh sẵng giọng. “Chẳng có nơi nào trên thế giới này là an toàn cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc.”

Bị nguyền rủa? Trực giác của anh rõ ràng cũng đã mách bảo điều đó, giống như cách mà vùng ngoại ô thể hiện ra vẻ ngoài của nó: công viên lớn, không khí trong lành, trường tốt. Chúng ta đã lạc lối một cách đáng báo động. Nhưng điều gây ấn tượng với em bây giờ không phải là lời tiên tri của anh mà là cách anh phớt lờ nó.

Còn em, em chẳng có linh cảm gì. Em chỉ đơn giản hoang mang không biết mình sẽ hạ cánh thế nào ở Gladstone, New York khi vừa về từ Latvia và vùng xích đạo Guinea. Như thể đang lướt sóng ở Far Rockaway trong một đợt sóng toàn nước thải, em không thể giữ được thăng bằng khi thứ chúng ta vừa mua được cứ từng đợt từng đợt lộ ra sự xấu xí của nó. Tại sao anh không thấy điều đó cơ chứ?

Có lẽ vì anh là người luôn có khuynh hướng làm tròn mọi thứ. Khi đi ăn ở nhà hàng, nếu tính cả 15% tiền boa là 17 đô, anh sẽ trả luôn 20 đô. Nếu chúng ta có một buổi tối mệt mỏi với người mới quen, em sẽ loại họ luôn, còn anh sẽ cho họ cơ hội thứ hai. Khi cô gái người Ý em chỉ quen biết sơ sơ, Marina, xuất hiện ở căn gác của chúng ta trong hai ngày và rồi đồng hồ của anh biến mất, em tức điên, anh thì cố tự nhủ rằng mình đã để quên nó ở phòng tập. Ăn trưa với Brian và Louise thì phải vui? Đúng vậy, vui thật. Anh dường như có thể lác cả mắt và làm mờ đi những góc cạnh thô cứng. Khi anh dẫn em đi tham quan ngôi nhà mới của chúng ta, người cố vấn thất vọng khó che giấu trong anh tương phản với ánh nhìn đầy cảm xúc nơi mắt anh. Anh nói không ngừng nghỉ như thể bị mất phanh, một chút phấn khích đã khiến anh để lộ ra mối nghi ngờ của mình về số 12 Palisades Parade rằng nó không chỉ là một công trình kiến trúc kinh khủng mà còn là một sự thất bại phô trương. Tuy nhiên thông qua sự kết hợp phức tạp của lòng dũng cảm và sự lạc quan, anh sẽ làm tròn nó. Sau tất cả, anh luôn làm tròn với Kevin ngay từ khi nó sinh ra.

Còn em, em là một người kỹ tính. Em muốn những bức ảnh của mình được lấy nét chính xác. Cảm xúc của em cũng chính xác như số học với đuôi thập phân khoảng hai, ba con số; em thậm chí sẵn sàng cho con trai mình chỉ ở một mức độ chấp nhận được. Nói một cách khác, Franklin, em sẽ chỉ để lại 17 đô.

Em hy vọng mình đã thuyết phục được anh rằng em nghĩ ngôi nhà thật đáng yêu. Đó là quyết định lớn đầu tiên mà anh tự quyết thay cho chúng ta, và em sẽ không tè lên đó chỉ bởi vì cái viễn cảnh sống ở đó khiến em muốn tự rạch cổ tay. Em tự nhủ rằng đó là vì khiếu thẩm mỹ của anh rất khác, hoặc rất thiếu; chỉ bởi vì anh rất dễ bị chi phối. Em đã không ở đó để thì thầm vào tai anh về cái thang máy chuyển đồ ăn. Không có em, anh quay lại ngay với gu của bố mẹ anh.

Hoặc một phiên bản nâng cấp tương tự. Palisades Parade đã cố gắng để trở nên phù hợp; căn nhà mà bố mẹ anh xây ở Gloucester, Massachusetts là kiểu kiến trúc truyền thống của New England. Nhưng sự “khéo tay hay làm” và niềm tin bất diệt vào lòng tốt của con người thì không thể lẫn vào đâu được.

Em thích phương châm của bố anh “Vật chất quyết định tất cả” nhưng không phải theo cách ông ấy làm. Một phần nào đó, em trân trọng những người tự làm mọi thứ, và theo một tiêu chuẩn cao nhất: Herb và Gladys tự xây nhà của riêng họ, tự xông khói cá hồi, tự ủ bia. Nhưng em chưa từng thấy hai người nào sống hoàn toàn tách biệt với xung quanh như thế. Lần duy nhất em thấy bố anh phấn khích là vì lớp phủ màu hổ phách hay lớp bọt trên miệng cốc bia của ông ấy, và em nghĩ điều đó thể hiện chính ở sự tĩnh lặng tuyệt đối của ông: ngồi trước đống lửa, uống bia, không nghĩ ngợi gì. Mẹ anh nấu ăn bằng sự cẩn trọng của một nhà hóa học, và những món ăn đều rất ngon mỗi lần ta đến thăm họ. Chiếc bánh mâm xôi với lớp meringue phủ bên trên của bà như thể được cắt ra từ tạp chí, mặc dù em lại có cảm giác mãnh liệt rằng mục đích tạo ra chiếc bánh là để trang trí, và việc ăn chiếc bánh, gặm nhấm sự sáng tạo của bà ấy, là một loại phá hoại. (Sao em có thể nói với người mẹ gầy gò nhợt nhạt của anh rằng bà là một đầu bếp tuyệt vời nhưng không mang lại cảm giác ngon miệng.) Nếu dây chuyền lắp ráp các sản phẩm nghe có vẻ máy móc, thì nó cũng tạo cảm giác y như vậy. Em luôn cảm thấy một chút nhẹ nhõm mỗi khi rời khỏi nhà bố mẹ anh, họ rất tốt với em, nếu sự tốt bụng của họ chỉ đơn giản là bản chất, em thấy mình thật hạ đẳng.

Nhưng tất cả đồ vật trong nhà họ đều được lau chùi, đánh cho sáng bóng, quá nhiều sự phản chiếu để che đậy sự thật rằng chẳng có gì bên dưới những thứ bóng bẩy đó. Họ không đọc sách, họ chỉ có vài cuốn sách và một bộ bách khoa toàn thư (những cái gáy sách màu rượu đã sưởi ấm góc làm việc), nhưng những cuốn được mở ra nhiều nhất chỉ là sách hướng dẫn thông thường, sách tự làm thủ công, sách nấu ăn và một bộ hai tập “Cách mọi thứ vận hành”. Họ không thể hiểu nổi tại sao người ta lại tìm kiếm những bộ phim với cái kết không có hậu hoặc mua những bức tranh trông chẳng đẹp đẽ gì. Họ có một dàn loa âm thanh nổi trị giá một ngàn đô nhưng chỉ có một nắm đĩa CD dễ nghe và những đĩa tổng hợp “những bài hát hay nhất”: Những bản Opera hay nhất, những bản nhạc bất hủ. Nghe có vẻ lười biếng, nhưng em nghĩ là bất lực thì đúng hơn: họ chẳng biết âm nhạc dùng để làm gì.

Anh có thể nói nó là về cuộc sống, nhưng với gia đình anh, họ không biết nó để làm gì. Họ biết làm thế nào để các bánh răng lồng vào nhau, nhưng họ nghĩ rằng mình đang tạo nên một sản phẩm phục vụ cho chính nó, như những viên bi kim loại trên bàn cà phê lắc qua lắc lại cho đến khi ma sát làm chúng chậm dần. Bố anh đã rất bất mãn khi ngôi nhà của họ hoàn thành, không phải vì nó có vấn đề gì, mà là vì nó không có. Vòi sen tăng áp và buồng tắm bằng kính được lắp đặt hoàn hảo, và ngay khi ông ấy tìm được một đĩa nhạc bất kỳ trong đống đĩa tổng hợp cho dàn âm thanh nổi tiếng của mình, em có thể hình dung được rằng ông ấy sẽ chạy ra ngoài và lăn ra đất để cho chiếc vòi hoa sen mới một lý do tồn tại. Cũng vì thế mà căn nhà của họ luôn cực gọn gàng, bóng loáng, cùng với những dụng cụ tiện ích nhà bếp có thể rã đông và cắt bánh mì, như thể chúng còn chẳng cần có sự tham gia của con người. Trên thực tế, những người ghé qua nôn mửa, ỉa đái, làm dây cà phê chỉ có tội là đã thiếu gọn gàng trong một bầu không khí sạch sẽ, tự duy trì trái ngược.

Chúng ta đã nói chuyện về tất cả những chuyến viếng thăm này trên mọi khía cạnh, vì ăn quá no và rạp chiếu phim gần nhất phải đi mất bốn mươi phút, chúng ta đành nhờ đến việc “mổ xẻ” bố mẹ anh để giải trí. Vấn đề là Kevin-ngày thứ Năm, họ không hề chuẩn bị cho chuyện đó. Họ chưa mua cái máy nào cho việc đó, giống như cái máy bỏ hạt mâm xôi của Đức, mà có thể xử lý lần lượt sự việc này theo cách dễ hiểu nhất. Những gì Kevin đã làm là không hợp lý. Nó không làm cho động cơ chạy êm hơn, ròng rọc trơn tru hơn; nó không ủ được bia hay xông khói cá hồi. Nó không dự đoán trước được, nó chỉ đơn thuần là ngu ngốc.

Trớ trêu thay, mặc dù bố mẹ anh luôn lấy làm tiếc về sự thiếu vắng niềm tin tôn giáo đối với Kevin, hai người đó lại có nhiều điểm chung với thằng bé hơn tất thảy những người em từng gặp qua. Nếu họ không biết mục đích của cuộc sống là gì và phải làm gì với nó thì Kevin cũng vậy. Còn nữa, khá là thú vị khi cả bố mẹ và con đầu lòng của anh đều ghét “thời gian rảnh”. Con trai anh luôn đối đầu trực diện với mối ác cảm này bằng một sự dũng cảm nhất định. Anh thử nghĩ xem, nó chưa từng một lần tự lừa dối rằng chỉ vì mục đích lấp đầy, nó sẽ sử dụng thời gian của mình để làm những việc có ích. Ôi, không, anh sẽ nhớ ra rằng nó luôn ngồi hàng giờ nín thở và bực bội và không làm gì khác ngoài quay tròn mỗi giây, mỗi phút trong buổi chiều thứ Bảy của nó.

Với cha mẹ anh, dĩ nhiên một viễn cảnh nhàn rỗi thì thật là khủng khiếp. Họ không có phẩm chất giống như Kevin để đối diện với sự trống rỗng. Cha anh sẽ mãi bận rộn lau dọn, tra dầu máy móc mỗi ngày mặc dù khi kết thúc công việc, ông ấy càng cảm thấy thời gian rảnh rỗi đáng ghét đè nặng hơn. Hơn nữa, ngoài việc lắp đặt hệ thống làm mềm nước hoặc hệ thống tưới tự động ngoài vườn, ông ấy chẳng biết mình có thể cải thiện được thêm thứ gì. Nước cứng sẽ mang đến một tương lai cần sự cần mẫn vệ sinh cặn bồn rửa thường xuyên, và hẳn là ông ấy sẽ thích thú hơn với việc tưới cây bằng tay. Sự khác biệt là bố anh sẵn sàng lắp đặt hệ thống làm mềm nước chẳng vì lý do gì còn Kevin thì không. Sự vô nghĩa không bao giờ khiến bố anh phiền lòng. Cuộc sống chỉ là một tập hợp các tế bào và các xung điện, đó là lý do mà “Vật chất quyết định tất cả”. Cách nhìn đơn giản đó làm hài lòng ông. Vì vậy đó chính là sự trái ngược: Kevin cũng vậy, nó hồ nghi việc vật chất là tất cả. Nó chỉ là không màng đến vật chất.

Em không thể nào quên lần đầu tiên đến nhà bố mẹ anh sau sự kiện ngày thứ Năm. Em thừa nhận mình đã trì hoãn, điều đó thật yếu đuối. Việc này thật sự cực kỳ khó khăn kể cả nếu anh có thể đi cùng em, nhưng anh không thể. Một mình, không mang theo tro cốt của con trai họ, em thông báo với họ sự thật trần trụi rằng chúng ta sẽ không còn tụ tập cùng nhau và em nghĩ họ cũng cảm nhận sự mất kết nối như em. Khi mẹ anh mở cửa, mặt bà ấy chuyển xám ngoét, nhưng khi mời em vào nhà, bà ấy tỏ ra lịch sự như những người bán máy hút bụi Hoover.

Có lẽ hơi bất công nếu gọi mẹ anh là người cứng nhắc, nhưng bà ấy thực sự là một tấm gương tốt về việc cư xử chừng mực. Bà ấy muốn biết việc phải làm bây giờ và tiếp theo là gì. Đó là lý do mà bà ấy luôn thích những bữa ăn phức tạp. Bà ấy tìm thấy sự thanh thản trong những bữa ăn được chia phần, súp thì ăn trước cá. Không giống như em, bà ấy chẳng hề phản đối hàng loạt những việc phải làm để chuẩn bị, nấu nướng, bày biện rồi dọn dẹp ba bữa mỗi ngày khiến người nấu ăn chôn chân trong bếp từ sáng tới tối. Bà ấy không giống em, vật lộn đấu tranh với những quy chuẩn: bà ấy là một người tốt nhưng thiếu trí tưởng tượng, bà ấy tôn trọng các quy tắc. Than ôi, đâu phải đang ghi hình một bữa trà chiều lịch sự với cô cựu-con-dâu sau khi cháu trai mình phạm tội giết người hàng loạt.

Bà ấy đưa em vào phòng khách thay vì phòng làm việc, đó là một sai lầm, chiếc ghế tựa cao cứng ngắc chỉ nhấn mạnh thêm sự tương phản rằng những quy tắc đang rơi tự do. Màu của lớp vải nhung, xanh biển và hồng đất, thật mâu thuẫn với màu bầm gan tím ruột của chuyến viếng thăm của em đến nỗi nó dường như khiến người ta phát bệnh, đó là màu của nấm mốc. Mẹ anh lao vào bếp. Em gần như khóc bởi vì em hầu như không thể ăn một thứ gì nhưng em nhận ra rằng từ chối thành quả của công việc giúp bà ấy giết thời gian là thật tàn nhẫn. Em thậm chí đã cố ép mình ăn một trong số những chiếc bánh phô-mai xoắn mặc dù nó khiến em hơi buồn nôn.

Gladys là một phụ nữ hay lo lắng đến nỗi bà ấy gần như lúc nào trông cũng đơ như vậy, em không có ý nói bà ấy không tốt hay lạnh lùng. Những nếp nhăn trên trán bà ấy đã vạch nên một khuôn mặt luôn bối rối, mắt bà ấy đảo điên cuồng hơn bình thường, đặc biệt là khi bà ấy không để ý rằng em đang nhìn, có gì đó lạc lõng khiến em tưởng tượng ra gương mặt bà ấy thời trẻ. Tổng thể trông bà ấy giống như một phụ nữ nghiêm khắc, nhưng có những nét đặc biệt mà một chiếc máy quay sẽ chẳng thể nào bắt được trên những thước phim.

Khi bố anh từ dưới tầng hầm đi lên, (em có thế nghe thấy tiếng chân mạnh mẽ của ông ấy, mặc dù đã bảy nhăm tuổi, ông ấy vẫn là một người cường tráng và bước chân thì quá nặng và chậm chạp) có một sự thay đổi rõ rệt. Bộ đồ bảo hộ bằng vải bông với những nếp gấp lớn. Mới có sáu tuần, khoảng thời gian mà em không ngờ ông ấy đã sụt cân nhiều đến vậy. Tất cả da thịt trên khuôn mặt khắc khổ của ông ấy trùng xuống: mí mắt sụp xuống để lộ một đường viền đỏ, má ông ấy chảy xệ như một chú chó săn. Em cảm thấy có lỗi, em bị ảnh hưởng bởi sự quả quyết của Mary Woolford rằng phải có người để đổ lỗi. Và đó cũng là sự quả quyết của bố anh. Ông ấy không phải là người hay thù hằn nhưng ông ấy là một thợ chế tạo máy đã nghỉ hưu (quá hoàn hảo, ông ấy chế tạo những chiếc máy sản xuất ra những chiếc máy khác) nhận trách nhiệm công ty giao phó và hoàn thành chúng với sự nghiêm túc tối đa. Kevin đã bộc lộ những khiếm khuyết và em chính là người sản xuất ra nó.

Lắc lư tách trà trên chiếc đĩa mạ sáng bóng, em thấy mình thật vụng về. Em hỏi thăm bố anh về khu vườn của ông ấy. Trông ông ấy có vẻ bối rối như thể quên mất rằng mình có một khu vườn. “Những bụi cây việt quất...” ông ấy buồn rầu “... mới bắt đầu nặng trĩu quả”. Từ “nặng trĩu” như lơ lửng trong không khí. Những bụi cây thì có thể, nhưng cha anh dường như không thể chịu được thứ nặng trĩu này.

“Thế còn những cây đậu? Bố luôn trồng những cây đậu Hà Lan ngon tuyệt vời.”

Ông ấy chớp mắt. Tiếng chuông điểm bốn giờ. Ông ấy không giải thích về những cây đậu. Có một sự thật trần trụi trong sự im lặng giữa em và ông ấy. Em đã để lộ rằng những lần em hỏi em đều chẳng thực sự quan tâm đến đám đậu, và những lần ông ấy trả lời cũng chỉ để cho có mà thôi.

Em hơi nhìn xuống, xin lỗi vì đã không đến sớm hơn. Họ không nói gì như là được rồi, chúng ta hiểu. Họ không gây ra một tiếng động nào hay cất một lời nào nên em tiếp tục nói.

Em nói rằng mình muốn đến dự tất cả những đám tang nếu như được cho phép. Bố mẹ anh trông không có vẻ lúng túng trước sự vô lý đó; bọn em đã nói nhiều hơn về chuyện ngày thứ Năm. Em nói mình tỏ ra thiếu nhạy cảm nên thường gọi điện trước, một vài cặp vợ chồng chỉ đơn giản là cúp máy. Một số người khác cầu xin em hãy tránh xa; Mary Woolford thì nói rằng sự hiện diện của em là khiếm nhã.

Sau đó em kể với họ về Thelma Corbitt, anh nhớ không, con trai cô ấy là Denny, thằng bé tóc đỏ cao lêu khêu, một mầm non nhạc kịch, cô ấy đã rất nhã nhặn đến mức khiến em bối rối. Em đánh bạo nói với mẹ anh rằng bi kịch đôi khi làm người ta bộc lộ những phẩm chất bất ngờ. Em nói như thể có một số người (em đang nghĩ đến Mary) mắc kẹt trong túi ni-lông hút chân không như những bữa ăn đóng gói sẵn và chẳng biết làm gì khác ngoài tự tra tấn bản thân trong địa ngục của chính họ. Một số người khác dường như gặp phải vấn đề trái ngược, như thể bi kịch đã nhúng họ vào axit, lột đi lớp da bên ngoài từng bảo vệ họ khỏi những cục đá và mũi tên từ số phận nghiệt ngã của người khác. Đối với những người này, chỉ việc đi xuống phố sau những bất hạnh thoáng qua của người lạ như vụ ly dị vừa mới đây của một người đàn ông và bệnh ung thư vòm họng của một phụ nữ cũng trở thành một nỗi khổ sở, một nỗi đau đớn. Họ cũng thấy mình như ở trong địa ngục, nhưng đó là địa ngục của mọi người, một đại dương rộng lớn không thấy bến bờ, dập dồn những thứ rác thải độc hại.

Em không biết mình có nói hơi quá lên không nhưng em nghĩ Thelma Corbitt là kiểu phụ nữ biến nỗi đau của riêng mình thành thứ dẫn lối cho người khác. Em không kể hết cho bố mẹ anh nội dung những cuộc điện thoại, nhưng toàn bộ cuộc trò chuyện vẫn tràn ngập tâm trí em. Thelma lập tức động viên sự “dũng cảm” của em vì đã dám cầm điện thoại lên và gọi, và cô ấy mời em đến đám tang của Denny chỉ nếu như em không cảm thấy quá đau đớn vì chuyện đó. Em xin phép Thelma được bày tỏ sự thương tiếc của mình trước sự ra đi của con trai cô ấy, ngay khi đó em nhận ra mình không đơn giản là chỉ đưa ra những lời đề nghị, nói những gì nên nói. Khi đó, Thelma bắt đầu kể về Denny, tên thằng bé được đặt theo tên chuỗi nhà hàng mà vợ chồng cô ấy đã chọn làm nơi hẹn hò lần đầu tiên. Em suýt chút nữa thì ngăn cô ấy nói tiếp bởi em cảm thấy việc biết về thằng bé đó càng ít càng tốt, nhưng rõ ràng là cô ấy cho rằng em nên biết nhiều hơn về người mà con trai em đã sát hại. Cô ấy nói Denny đang luyện tập cho vở kịch mùa xuân ở trường, vở “Đừng uống nước đó” của Woody Allen, và cô ấy đang giúp nó tập thoại. “Nó khiến bọn tôi cười lăn lộn,” cô ấy kể. Em nói mình đã bắt gặp thằng bé trên tàu điện một năm trước và khi đó thằng bé thật tuyệt vời (nói thật). Cô ấy có vẻ hài lòng, giá như thằng bé không chỉ là một số liệu thống kê với em, một cái tên trên báo hay một nỗi giày vò. Rồi cô ấy nói cô ấy tự hỏi phải chăng mọi chuyện thật khó khăn với em hơn tất thảy những người khác. Em nói điều đó thật không công bằng, sau cùng thì ít ra em vẫn còn đứa con trai. Điều cô ấy nói sau đó khiến em thực sự bất ngờ. “Chị có thực sự có nó không?” Em đã không trả lời câu hỏi đó nhưng cảm ơn vì lòng tốt của cô ấy, và rồi cả hai đều biết ơn lẫn nhau, một sự biết ơn gần như không vị kỷ, rằng không phải tất cả con người trên thế giới đều đáng sợ, và rồi cả hai cùng khóc.

Vậy nên em kể với bố mẹ anh rằng em đã đến viếng Denny. Em ngồi ở phía sau. Em mặc đồ đen, dù hiện nay việc mặc đồ đen đến một đám tang có hơi cổ hủ. Khi xếp hàng để nói lời chia buồn, em đưa tay cho Thelma và nói, “Tôi rất tiếc vì mất mát của mình”. Đó là điều em đã nói, một lỗi sai, nhưng em nghĩ sẽ còn tệ hơn nếu sửa lại. “Ý tôi là mất mát của cô.” Với cha mẹ anh, em thật đáng khinh. Họ nhìn em chằm chằm.

Bản thân hệ thống pháp luật là một cỗ máy và em có thể mô tả cách nó vận hành, như cách bố anh từng giải thích cho em, bằng sự sáng suốt đầy chất thơ, về sự chuyển động của một bộ chuyển đổi xúc tác. Em nói rằng Kevin đang bị giam giữ mà không được bảo lãnh, em đã hy vọng rằng những thuật ngữ quen thuộc từ tivi sẽ an ủi phần nào nhưng nó đã thất bại. (Lớp kính cứng của màn hình là thứ tối quan trọng. Người xem không muốn những chuyện đó xảy ra với gia đình họ, hơn cả việc nước thải của người khác tràn ra từ nhà vệ sinh của họ.) Em nói mình đã thuê luật sư giỏi nhất mà em tìm được, cũng có nghĩa là luật sư đắt nhất, dĩ nhiên. Em nghĩ bố anh sẽ đồng thuận vì bản thân ông ấy cũng luôn là người muốn mua những thứ đồ đắt nhất. Em đã lầm.

Ông ấy hỏi, “Để làm gì?”.

Em chưa từng nghe ông ấy hỏi câu đó về bất cứ điều gì. Một bước nhảy vọt đáng ngưỡng mộ. Em và anh vẫn thường nói xấu sau lưng rằng họ là những người khô cằn về tinh thần.

“Con không chắc… có lẽ là để giúp cho Kevin nhận mức án nhẹ nhất có thể, con nghĩ vậy.” Em cau mày.

“Đó là điều con muốn à?” Mẹ anh hỏi.

“Không… Điều con muốn là quay ngược đồng hồ. Điều con muốn là chính bản thân con chưa bao giờ được sinh ra nếu có thể đánh đổi. Con không thể có điều mình muốn.”

“Nhưng con muốn thấy nó bị trừng phạt sao?” Bố anh hỏi gặng một cách lý trí, giọng ông ấy không có vẻ tức giận.

Em sợ rằng mình đã cười. Chỉ thốt ra một cách chán nản “Hả!” Dù sao thì nó cũng không phù hợp. “Con xin lỗi.” Em giải thích. “... nhưng mong rằng những vị quan toà đó may mắn. Con đã cố gắng hơn ai hết để tìm cách phạt Kevin trong mười sáu năm. Chẳng có gì con lấy đi mà quan trọng với nó. Trại cải tạo trẻ vị thành niên của New York sẽ định làm gì? Nhốt nó trong phòng? Con đã thử rồi. Nó chẳng quan tâm thứ gì bên ngoài cũng như bên trong phòng, có gì khác nhau chứ? Và bọn họ sẽ chẳng thể nào làm nó xấu hổ. Ta chỉ có thể khiến một người đau khổ nếu người đó có lương tâm. Ta chỉ có thể trừng phạt người có hy vọng để làm họ thất vọng hay có gắn bó để chia cắt, người mà lo sợ những gì ta nghĩ về họ. Ta chỉ có thể thực sự trừng phạt người đã có sẵn một chút tốt đẹp.”

“Ít nhất thì người ta cũng giữ cho nó khỏi làm hại người khác.” Bố anh lập luận.

Một sản phẩm lỗi phải bị thu hồi và rút khỏi thị trường. Em nói bằng giọng thách thức, “Chà, thì đang có một chiến dịch, họ muốn xử nó như một người trưởng thành với án tử hình”.

“Con cảm thấy sao về chuyện đó?” Mẹ anh hỏi. Thật đau lòng làm sao. Bố mẹ anh từng hỏi em liệu Wing and a Player có được xuất bản hay không, họ hỏi xem em có nghĩ máy phun ép hơi nước có tác dụng như bàn là hay không. Họ chưa từng hỏi em cảm thấy thế nào.

“Kevin không phải một người trưởng thành. Nhưng liệu có thay đổi gì khi nó lớn hơn không?” (Cơ bản thì cũng có những đặc điểm khác nhau, nhưng Thảm sát nơi làm việc cũng chính là Xả súng trường học phiên bản trưởng thành.) “Thật lòng có những ngày…” Em nhìn ra phía cửa sổ của họ. “... con ước họ cho nó án tử hình. Để kết thúc mọi chuyện. Điều đó có thể giải thoát con.”

“Chắc chắn rồi con yêu, con không nên tự trách mình.” Mẹ anh nói với một chút lo lắng. Nếu em có thực sự như vậy thì bà ấy cũng chẳng muốn nghe về điều đó.

“Con chưa từng thực sự thích Kevin, mẹ Gladys à!” Em bắt gặp ánh mắt của bà ấy như của những người mẹ với nhau. “Con nhận ra rằng khá nhiều cha mẹ nói với con họ rằng ‘Cha mẹ yêu con nhưng không phải lúc nào cũng thích con’. Nhưng đó là loại tình yêu gì chứ? Với con thì nó nghe như kiểu ‘Cha mẹ không biết con có vấn đề gì nhưng con vẫn làm cha mẹ cảm thấy tổn thương và giờ cha mẹ không muốn nhìn thấy con’. Ai mà muốn được yêu thương kiểu đó chứ? Nếu được lựa chọn, con sẽ bỏ qua mối quan hệ huyết thống mà chọn được thích hơn là được yêu. Con tự hỏi phải chăng mình sẽ xúc động hơn khi mẹ mình ôm mình vào lòng và nói ‘mẹ thích con’. Con tự hỏi chẳng phải chỉ đơn giản tận hưởng việc có đứa con làm bạn đồng hành mới là quan trọng?”

Em đã khiến họ bối rối. Hơn thế nữa, em đã làm chính xác những gì Harvey đã cảnh báo về những thứ sẽ chống lại em trước tòa. Sau đó cả hai người họ đều ra làm chứng, những đoạn trích trong bài thuyết trình chết người này được dẫn lại nguyên văn. Em không nghĩ bố mẹ anh làm thế nhằm vào em nhưng họ là những người New England thật thà. Chẳng có lý do nào để họ bảo vệ em mà em cũng không muốn họ làm vậy.

Khi em chuẩn bị rời đi, đặt tách trà lạnh ngắt xuống, hai người họ trông có vẻ nhẹ nhõm nhưng đôi mắt thì đầy lo lắng. Họ hẳn đã nhận ra rằng những cuộc trò chuyện ấm áp như thế này sẽ dần hạn chế, và có thể khi đêm về, họ không ngủ được và nghĩ đến những câu hỏi mà đáng ra nên hỏi em. Đương nhiên họ vẫn rất thân thiện mời em đến thăm bất cứ khi nào em muốn. Mẹ anh đảm bảo với em rằng dù có bất cứ chuyện gì xảy ra, họ vẫn coi em là một thành viên trong gia đình. Họ dường như còn tử tế hơn cả sáu tuần trước đó. Khi đó, viễn cảnh được bảo bọc bởi bất cứ gia đình nào hiện lên giống như việc bị mắc kẹt trong thang máy đang nằm lửng lơ giữa hai tầng lầu.

“Còn một điều nữa.” Bố anh đặt tay vào tay em khi đứng ở cửa và một lần nữa hỏi câu hỏi mà dường như cả đời ông ấy luôn lẩn tránh. “Con có biết tại sao không?”

Em sợ rằng phản ứng của mình chỉ có thể giúp ông ấy trong những câu hỏi như vậy, vì những câu trả lời thường khó lòng mà thỏa đáng.

Chúc mừng năm mới tình yêu của em.