Khi em bước ra khỏi xe, bãi xe đã chật cứng xe cảnh sát và xe cứu thương. Rất nhiều dải băng màu vàng được quây xung quanh. Trời vừa tối, và những nhân viên y tế tận tụy nổi bật lên trong một hỗn hợp kinh khủng giữa màu đỏ và xanh. Từng cáng, từng cáng được khiêng ra bãi xe, em đã rất bàng hoàng vì dường như chúng chẳng bao giờ kết thúc. Nhưng ngay cả giữa muôn vàn hỗn loạn, một khuôn mặt quen thuộc bừng sáng hơn cả những chiếc xe cấp cứu, và em nhìn thấy Kevin chỉ trong vài giây. Đó là một phản ứng ngạc nhiên kinh điển. Mặc dù em có thể có vấn đề với con trai mình, nhưng em vẫn thở phào nhẹ nhõm khi thấy nó còn sống. Nhưng em lại từ chối sự xa xỉ khi chìm đắm trong bản năng làm mẹ lành mạnh này. Nhìn thoáng qua thì rõ ràng là nó không tự bước ra mà là bị cảnh sát lôi ra từ trong phòng thể chất, và lý do duy nhất khiến hai tay của nó chỉ có thể giữ ở sau lưng thay vì vung vẩy đằng trước với thái độ xấc láo như thường ngày là vì không có lựa chọn nào khác.
Em hoa mắt chóng mặt. Trong một khoảnh khắc, những ánh đèn trong bãi xe vương vãi thành những mảnh vụn vô nghĩa, giống như những hoa văn sau mí mắt khi ta vừa dụi mắt xong.
“Thưa bà, bà vui lòng rời khỏi khu vực này…” Đó là một trong hai viên cảnh sát đã đến nhà chúng ta sau sự cố trên cầu vượt, người to béo hơn, ghê gớm hơn. Họ chắc hẳn đã gặp rất nhiều cặp bố mẹ có đứa con cưng tội lỗi xuất phát từ “một gia đình tốt” vì anh ta đã không nhận ra em.
“Anh không hiểu rồi,” em thêm vào một lời tuyên bố khó khăn nhất mà mình từng nói. “Đó là con trai tôi.”
Mặt anh ta đanh lại. Đây là biểu cảm mà em sẽ dần phải làm quen. Biểu cảm đó và cái kiểu ôi-thật-tội-tôi-chẳng-biết-phải-nói-gì nữa, nó thậm chí còn tệ hơn. Nhưng lúc này em vẫn chưa quen với chuyện đó, và khi em hỏi anh ta chuyện gì đã xảy ra, em có thể thấy từ ánh mắt tóe lửa của anh ta rằng đó là bất cứ chuyện gì mà giờ em sẽ phải gián tiếp chịu trách nhiệm. Thật tồi tệ.
“Chúng tôi có một số thương vong thưa bà.” Đó là tất cả những gì anh ta định trình bày. “Tốt nhất là bà cứ tới đồn đi. Đi theo đường 59 đến đường 303 rồi rẽ vào Orangeberg. Lối vào trên đường Town Hall. Tôi cho rằng bà chưa bao giờ đến đó.” “Tôi… tôi nói chuyện với nó được không?”
“Bà có thể thấy rất nhiều cảnh sát đang ở đây.” Rồi anh ta vội vã rời đi.
Tiến về phía chiếc xe cảnh sát, em thấy ở phía ghế sau một sĩ quan vừa xô đầu con trai chúng ta vào trong. Em buộc phải trải qua việc lần lượt giải thích cho hàng dài những cảnh sát, việc khiến em càng mệt mỏi. Cuối cùng em cũng hiểu được những câu chuyện trong Tân ước về thánh Peter, và tại sao ông ta lại có thể phủ nhận ba lần sự liên quan đến một số người cùng khổ trong xã hội, những người bị đánh đập bởi một đám đông hung hãn. Sự thoái thác có lẽ còn cám dỗ với em hơn là thánh Peter, bởi vì bất kể có tạo hình bản thân thế nào, thằng bé không phải đấng cứu thế.
Em cuối cùng cũng chen lấn để đến được chiếc xe đen-trắng Orangetown mà cửa bên cạnh được phủ khẩu hiệu “Chung tay cùng cộng đồng” nhưng có vẻ như không còn bao gồm em nữa. Nhìn vào cửa sổ phía sau, em không thể thấy gì bên trong vì bị hắt sáng. Vậy nên em khum hai tay ghé sát vào cửa sổ. Nó không khóc hay ôm tay lên đầu. Nó quay về phía cửa sổ. Nó nhìn thẳng vào mắt em mà chẳng thấy có gì khó khăn.
Em đã định hét lên Con đã làm gì thế? Nhưng một câu cảm thán nhàm chán cũng chỉ là cách cường điệu tự huyễn, một cách để sỉ vả vào sự chối bỏ trách nhiệm làm cha mẹ. Em sẽ sớm biết chi tiết. Và em không thể tưởng tượng được rằng cuộc trao đổi chẳng có gì ngoài sự nực cười.
Em và Kevin nhìn nhau trong im lặng. Khuôn mặt của nó bình thản. Vẫn hiện lên chút cương quyết còn sót lại, nhưng sự quyết tâm đã chuyển thành sự hài lòng về bản thân vì vừa hoàn thành tốt một công việc. Mắt nó sáng rõ một cách kỳ lạ, không có những xáo trộn, gần như là bình yên, và em đã nhận ra sự trong suốt đó ngay từ buổi sáng, trong bữa ăn sáng mà cảm thấy như đã xảy ra mười năm về trước. Đó là một đứa con trai lạ lẫm, người đã rũ bỏ lớp ngụy trang mập mờ, sướt mướt của Con nghĩ rằng hay Ý con là để vươn người ngay thẳng với sự sáng suốt của một người đàn ông mang trên mình một nhiệm vụ.
Nó hài lòng với bản thân, em có thể thấy được điều đó. Và đó là tất cả những gì em cần biết.
Nhưng bây giờ khi mường tượng lại gương mặt nó sau ô cửa kính đó, em nhớ ra một thứ khác. Nó đang tìm kiếm. Nó đang tìm kiếm một điều gì đó trên khuôn mặt em. Nó tìm kiếm cực kỳ cẩn thận và rồi nó ngả lưng ra ghế. Bất cứ điều gì mà nó đang tìm kiếm, nó đã không tìm ra, và điều này dường như cũng thỏa mãn nó theo một cách nào đó. Nó không cười. Nhưng cũng có thể là nó đã cười.
Lái xe đến đồn cảnh sát Orangetown, em sợ rằng mình sẽ nổi điên với anh Franklin ạ. Thật không công bằng. Nhưng điện thoại di động của anh vẫn tắt, và anh biết những vấn đề ở nhà có thể gây xao nhãng thế nào mà. Em chưa thể nổi giận với Kevin, và dường như an toàn hơn khi trút nỗi buồn bực lên anh dù anh chẳng làm gì sai. Bấm nút gọi lại hết lần này đến lần khác, em gào lên trên xe, “Anh đang ở đâu thế? Gần bảy rưỡi rồi. Bật cái điện thoại chết tiệt lên đi. Vì Chúa, suốt cả buổi tối, sao anh lại phải làm việc muộn vào tối nay cơ chứ? Mà anh vẫn chưa xem tin tức sao?”. Nhưng anh thường không nghe đài trên chiếc xe tải của mình, anh thích bật những đĩa nhạc như là Springsteen hay Charlie Parker. “Franklin, anh là thằng khốn!” Em đã hét lên, nước mắt của em vẫn là những giọt nóng hổi, ít ỏi của cơn giận dữ. “Sao anh có thể bắt em trải qua việc này chỉ một mình chứ?”
Em lái xe qua đường Town Hall, đến một tòa nhà bóng bẩy, hơi lòe loẹt màu trắng và xanh lục trông giống như một chuỗi nhà hàng bít-tết hoặc trung tâm thể hình khi nhìn từ bên ngoài. Bên cạnh bức tranh bằng đồng được rèn một cách vụng về để tưởng niệm bốn sĩ quan Orangetown đã ngã xuống khi làm nhiệm vụ, phòng nghỉ cũng chỉ có một khoảng tường trắng và ván lót sàn tầm thường mà anh kỳ vọng có thể nhìn ra bể bơi. Nhưng phòng thường trực lại có vẻ thân mật khủng khiếp, thậm chí còn nhỏ hơn cả phòng cấp cứu ở bệnh viện Nyack.
Em không được xếp vào vị trí ưu tiên, mặc dù người trực ban có thông báo một cách lạnh lùng qua cửa kính rằng em có thể đi cùng với “người trẻ vị thành niên” của mình, một cụm từ dường như không phù hợp, trong khi nó bị hỏi tội. Hoảng hốt, em rụt rè, “Có cần không?” và cô ấy nói, “Tùy bà thôi”. Cô ấy chỉ cho em một chiếc ghế màu đen trơn duy nhất, nơi mà em bị bỏ rơi không ai để ý khi những sĩ quan cảnh sát cứ chạy qua chạy lại. Em cảm thấy mình vừa liên can vừa thừa thãi. Em không muốn ở đó. Nếu điều đó nghe như một lời nói giảm nói tránh trắng trợn, thì thực ra ý em là em có một trải nghiệm mới về việc không muốn ở một nơi bất kỳ nào đó khác. Nói thẳng ra, em ước mình đã chết.
Một lúc không lâu sau, đối diện chiếc ghế em ngồi có một cậu bé mà giờ em mới biết chính là Joshua Lukronsky. Ngay cả khi em đã quen với những học sinh này, em không nghĩ lúc đó mình nhận ra cậu ta. Một chàng trai nhỏ bé, cậu ta không còn giống một thiếu niên mà trông chỉ như tầm tuổi Celia, vì cậu ta thiếu đi vẻ huênh hoang ra vẻ hiểu biết thường thấy lúc ở trường. Hai vai cậu ta co rúm, mái tóc đen rũ rượi. Hai tay giữ chặt vào lòng, cậu ta giữ cổ tay trong một góc gập bất thường ở trẻ em trong giai đoạn đầu của bệnh loạn dưỡng cơ. Cậu ta ngồi im. Dường như còn không chớp mắt. Được trông nom bởi một cảnh sát và sự có mặt của em là không có giá trị, em có cảm giác như mình mang bệnh lây nhiễm, bị cách ly, thằng bé chẳng hề phản ứng khi viên cảnh sát cố gắng gây chú ý bằng một bộ sưu tập xe cảnh sát trong hộp kính. Đó là một bộ sưu tập khá hấp dẫn, tất cả đều bằng kim loại, một vài chiếc xe tải rất cổ, xe ngựa kéo, xe máy, xe Fords 49 từ Florida, Philadelphia, Los Angeles. Với sự dịu dàng của một người cha, viên cảnh sát giải thích rằng có một chiếc xe rất hiếm, từ những ngày mà xe cảnh sát New York còn màu xanh lục và trắng, trước khi chuyển sang màu xanh lam. Joshua nhìn chằm chằm vô hồn về phía trước. Nếu cậu ta có biết em ở đó, cậu ta cũng chẳng biết em là ai và em cũng khó có thể giới thiệu bản thân. Em tự hỏi tại sao cậu bé này lại không được đưa đến bệnh viện như những người khác. Không thể nào mà tất cả chỗ máu ướt sũng trên quần áo cậu ta lại không phải của chính cậu ta.
Vài phút sau, một phụ nữ to béo lao qua cửa phòng thường trực, sà xuống chỗ Joshua và nâng cậu ta lên chỉ bằng một cái nhấc tay. “Joshua!” Cô ta kêu lên. Lúc đầu hơi chệch choạc trong cái ôm siết của cô ta, dần dần cái cổ tay như bị loạn dưỡng cơ đó vòng qua vai cô ta. Chiếc áo sơ mi của cậu ta để lại những vết đỏ loang lổ trên chiếc áo mưa màu trắng ngà của cô ta. Khuôn mặt nhỏ bé vùi vào chiếc cổ rộng của cô ta. Em đồng thời vừa xúc động vừa ghen tị. Đây là cuộc tái ngộ mà em đã chối bỏ. Mẹ yêu con nhiều lắm. Thật nhẹ nhõm khi thấy con không sao! Em, em không thể cảm thấy hoàn toàn nhẹ nhõm khi con trai chúng ta không sao. Từ lúc em nhìn qua cửa kính xe đó, dường như chính cái sự không sao của nó là thứ bắt đầu giày vò em.
Ba người bọn họ đi qua cánh cửa vào bên trong. Người nhân viên sau quầy trực ban phớt lờ em. Chẳng còn cách nào khác, em chỉ có thể biết ơn nhiệm vụ nhỏ bé của mình với chiếc điện thoại di động, thứ mà em giữ trong tay như thể đang lần tràng hạt, liên tục quay số giúp cho em có chút việc để làm. Để công việc của mình phong phú hơn một chút, em chuyển sang gọi vào máy bàn, nhưng nó liên tục chuyển vào hộp thư thoại, và em cúp máy trước đoạn băng ghi âm khô khan đó, cảm thấy ghét chính giọng nói của mình trong đó. Em đã để lại ba, bốn lời nhắn, ban đầu thì vẫn tự chủ, sau thì khóc lóc. Nhận ra rằng cả hai ta đều về muộn, Robert chắc chắn đã dẫn Celia đến McDonald vì con bé rất thích món bánh táo ở đó. Sao cậu ta không gọi cho em? Cậu ta có số di động của em cơ mà. Liệu Robert đã xem tin tức chưa? À, phải rồi, ở McDonald chỉ phát sóng Muzak và cậu ta không cần bật đài trên xe khi chỉ đi một quãng đường ngắn như vậy. Nhưng chẳng nhẽ không có ai nhắc đến chuyện này khi đứng xếp hàng ư? Làm sao mà mọi người ở hạt Rockland có thể nói về chuyện gì khác chứ?
Đến khi hai cảnh sát đưa em vào một căn phòng nhỏ để lấy lời khai, em đã mất trí đến mức không còn lịch sự. Có lẽ nghe giọng em hơi lè nhè nữa, em thấy việc liên lạc với luật sư của gia đình chẳng có ý nghĩa gì khi mà dường như chẳng có nghi ngờ nào rằng Kevin đã làm việc đó. Và đây là lần đầu tiên có ai đó thấy hợp lý khi cho mẹ nó biết dù là một cách sơ sài nhất rằng nó đã làm gì. Con số thương vong ước tính mà một viên cảnh sát đã trích dẫn qua-thực-tế hóa ra đã bị phóng đại, nhưng khi đó em chẳng có lý do gì để tìm hiểu rằng những số liệu kinh khủng ban đầu hầu như luôn bị thổi phồng. Hơn nữa, có khác gì nhau giữa việc có một đứa con trai giết chỉ chín người thay vì mười ba đâu? Và em thấy những câu hỏi của họ thật vặt vãnh, vô nghĩa: Kevin ở trường thế nào, sáng hôm đó nó có biểu hiện gì không.
“Thằng bé có chút thách thức với chồng tôi. Ngoài ra, chẳng có gì đặc biệt! Tôi phải làm gì đây? Con trai tôi thô lỗ với bố nó và tôi phải gọi cho cảnh sát ư?”
“Hãy bình tĩnh bà Kachourian…”
“Khatchadourian!” Em nhấn mạnh. “Cậu có thể làm ơn đọc đúng tên tôi được không?”
Ồ, họ chắc sẽ làm vậy đấy.
“Vậy bà Khadourian. Con trai bà có thể lấy cây nỏ đó từ đâu?” “Đó là một món quà Giáng sinh! Tôi đã bảo Franklin đó là một sai lầm mà. Tôi đã bảo anh ấy rồi. Tôi có thể gọi cho chồng mình lần nữa không?”
Họ để cho em gọi, và sau một lần quay số vô ích nữa, em đã nản lòng. “Tôi xin lỗi,” em thì thào. “Tôi xin lỗi, rất xin lỗi. Tôi không cố ý xấu tính như vậy, tôi không quan tâm đến tên mình, tôi ghét tên mình. Tôi không muốn nghe cái tên ấy nữa. Tôi xin lỗi…”
“Bà Khadarian…” Một viên sĩ quan rón rén vỗ vào vai em. “Có lẽ chúng ta nên để khi khác lấy lời khai đầy đủ.”
“Chỉ là tôi còn một đứa con gái nhỏ, Celia, con bé đang ở nhà và… các anh có thể làm ơn…”
“Tôi hiểu. Giờ, tôi sợ rằng Kevin sẽ bị tạm giữ. Bà có muốn nói gì với cậu ta không?”
Hình dung ra biểu cảm lạnh lùng, không lay động của sự bình thản em bắt gặp qua ô cửa kính xe cảnh sát, em rùng mình, úp mặt vào lòng bàn tay. “Không. Làm ơn, không.” Em van xin, cảm thấy mình hèn nhát kinh khủng. Có lẽ khi đó em thật giống Celia khi con bé yếu ớt nài xin không đi tắm vì tất cả những thứ đen tối, kinh dị vẫn còn mắc kẹt trong lỗ thoát nước bồn tắm. “Làm ơn đừng bắt tôi. Xin đừng. Tôi không thể đối diện với nó.”
“Vậy có lẽ tốt nhất là bà nên về nhà đi.”
Em nhìn anh ta một cách ngu ngốc. Cảm thấy bản thân thật bẽ bàng, thực sự lúc đó em nghĩ rằng họ sẽ bắt mình vào tù.
Chỉ để lấp đầy khoảng lặng kỳ quặc khi em nhìn anh ta, anh ta nhẹ nhàng nói thêm, “Ngay khi có lệnh, chúng tôi sẽ phải khám nhà bà. Có thể là vào ngày mai. Nhưng đừng lo, những sĩ quan cảnh sát của chúng tôi rất biết điều. Họ sẽ không bới tung căn nhà lên đâu”.
“Các anh có thể đốt luôn cái nhà đó,” em nói. “Tôi ghét nó. Tôi vẫn luôn ghét nó.”
Hai người cảnh sát nhìn nhau, rồi họ tiễn em ra cửa.
Được giải thoát, em không thể tin được, ra ngoài bãi xe, em đi lang thang một cách tuyệt vọng qua chiếc xe của mình, không nhận ra nó ngay, mọi thứ thuộc về cuộc sống trước kia của em giờ trở nên thật xa lạ. Và em đã đứng chết trân. Sao họ có thể để cho em đi? Ngay cả ở thời điểm này, em đã bắt đầu cảm thấy một nhu cầu sâu sắc để bị đưa vào danh sách, để bị quy trách nhiệm. Em phải ngăn không cho mình đập vào cửa đồn cảnh sát và nài nỉ nhân viên trực ban cho em qua đêm trong phòng giam. Chắc chắn em thuộc về nơi này. Em tin rằng tấm ván duy nhất mà em có thể nằm lên một cách bình yên đêm đó là một tấm nệm rẻ tiền với lớp áo nệm đã xổ lông từ trung tâm từ thiện, và khúc hát ru duy nhất có thể đưa em vào giấc ngủ chính là tiếng máy khoan trên bê tông và tiếng chìa khóa lách cách.
Nhưng khi tìm thấy chiếc xe, em trở nên bình tĩnh kỳ lạ. Bình thản. Ngăn nắp, cẩn thận. Giống như Kevin. Chìa khóa. Đèn. Dây an toàn. Cần gạt nước ở kính chắn gió vì có một lớp sương mỏng. Tâm trí em trống rỗng. Em ngừng nói chuyện với chính mình. Em lái xe về nhà thật chậm rãi, phanh lại khi nhìn thấy đèn vàng, trở nên hoàn toàn tuân thủ pháp luật ở ngã tư, mặc dù chẳng có phương tiện giao thông nào khác. Và khi em nhận ra chẳng có chiếc đèn giao thông nào bật, em cũng chẳng nghĩ gì. Em không muốn nghĩ.
Em đỗ xe. Chiếc xe tải của anh đang ở trong ga-ra. Em di chuyển chậm chạp. Em tắt cần gạt và đèn xe. Em khóa cửa xe. Em bỏ chìa khóa vào chiếc túi Ai Cập của mình. Em ngừng lại để nghĩ về những thứ nhỏ nhặt thường ngày mà em phải làm trước khi bước vào nhà, em nhặt một chiếc lá khỏi kính chắn gió, cuộn sợi dây nhảy của anh lại và treo nó lên móc.
Lúc bật đèn bếp lên, em nghĩ thật chẳng giống anh chút nào khi vẫn để nguyên chiếc đĩa đầy dầu mỡ từ bữa sáng ở đó. Chiếc chảo anh dùng để rán xúc xích ở ngay trên giá nhưng chiếc mà em dùng để chiên bánh cho Celia thì không, và hầu hết đĩa cùng với những cốc nước quả vẫn còn ở trên bàn bếp. Các phần của tờ Thời đại nằm ngổn ngang trên bàn, mặc dù việc xếp báo thành chồng trong ga-ra mỗi sáng là một trong những nỗi ám ảnh gọn gàng của anh. Nhấp vào công tắc đèn tiếp theo, em có thể nhận thấy ngay rằng không có ai ở trong phòng khách hay phòng làm việc, đó là mặt tiện lợi của một căn nhà không có cửa. Em vẫn đi qua hết tất cả các phòng. Thật chậm.
“Franklin? Celia?” Em gọi. Tiếng của chính em khiến em bồn chồn. Nó thật nhỏ bé và yếu ớt, chẳng có lời đáp lại nào.
Khi đi xuống hành lang, em dừng lại ở cửa phòng Celia và ép mình phải bước vào. Trong đó rất tối. Giường con bé trống trơn. Phòng ngủ chính, phòng tắm, ngoài hiên cũng như vậy. Không có gì. Không có ai. Hai người đang ở đâu? Anh có đi tìm em không? Em có điện thoại di động. Anh biết số của em. Và tại sao anh không dùng chiếc xe tải của mình? Đây là một trò chơi ư? Anh đang trốn, cười khúc khích cùng với Celia trong một chiếc tủ nào đó. Tại sao anh lại chọn tối nay để chơi trò này?
Căn nhà trống trơn. Em cảm thấy một sự hối thúc dâng trào, khiến em bắt máy gọi cho mẹ mình.
Em kiểm tra căn nhà lần thứ hai. Mặc dù em đã kiểm tra các phòng trước đó, lần thứ hai em cảm thấy mình run rẩy hơn. Như thể có ai đó khác ở trong nhà, một người lạ, một tên trộm, và hắn ta đang đứng ngoài tầm nhìn của em, rình rập sau lưng em, chui dưới tủ với một con dao trên tay. Cuối cùng, em run rẩy quay lại bếp.
Người chủ trước hẳn đã lắp đặt những chiếc đèn rọi sàn đó trong sự mong đợi những bữa tiệc hoang phí sau vườn. Chúng ta không có hứng thú gì với những bữa tiệc ngoài vườn và hiếm khi sử dụng đèn rọi sàn, nhưng em đã quen với vị trí công tắc, ngay bên trái tủ bếp, sát bên cánh cửa trượt bằng kính mở ra hiên sau của chúng ta. Đây là nơi mà em thường đứng nhìn anh ném bóng mềm với Kevin, cảm thấy thèm muốn, thấy bản thân bị bỏ lại. Em nghĩ mình có chút giống như vậy vào thời điểm đó, bị bỏ lại. Như thể anh đã tổ chức một lễ kỷ niệm gia đình có ý nghĩa quan trọng mà trong tất cả mọi người, em lại không được mời. Em có lẽ đã giữ tay mình trên công tắc đó khoảng ba mươi giây trước khi gạt nó lên. Nếu được làm lại, em sẽ đợi lâu hơn chút nữa. Em sẽ trả bất kể là bao nhiêu tiền để mọi khoảnh khắc trong đời mình không còn hình ảnh đó.
Trên đỉnh đồi, bảng mục tiêu bắn cung sáng lên. Không lâu sau em sẽ nhận ra sự khôi hài đằng sau cuộc gọi vào giờ ăn trưa của Kevin tới Lamont, khi nó rõ ràng đã nói với Robert rằng cậu ta không phải đến đón Celia sau giờ học nữa vì con bé “không khỏe”. Dựa lưng vào mục tiêu là Celia, đứng nghiêm, im lặng và tin tưởng, như thể háo hức chơi trò “William Tell”.
Khi em vặn tay nắm cửa và mở ra, sự vội vàng của em là không cần thiết. Celia sẽ đợi. Con bé đã bị gắn chặt vào bảng mục tiêu bằng năm mũi tên, thứ đang giữ thân người nó giống như những chiếc ghim nhỏ gắn vào bức ảnh chân dung quăn keo của con bé trên bảng thông tin của lớp. Khi em gần như suýt gọi tên Celia, con bé đã nháy mắt với em, một cách dị thường, với cái đầu ngửa ra sau. Mặc dù em nhớ đã lắp cho con bé con mắt giả, nhưng giờ nó đã mất tích.
Có những điều chúng ta luôn biết ngay cả khi không cần chủ động nghĩ về chúng, ít nhất là với những lời tự thức tỉnh cứ liên tục hiện lên trong tâm trí. Nó là như thế đó. Em đã biết mình sẽ tìm ra điều gì tiếp theo mà không cần phải tự chỉ ra một cách cụ thể. Vậy nên khi bước lên chỗ tập bắn, bị vấp phải thứ gì đó mắc trong bụi cây, em có lẽ đã nôn nao, nhưng em không ngạc nhiên. Em nhận ra vật cản ngay lập tức. Em đã mua những đôi giày brogan màu nâu sô cô la đó từ Banana Republic quá thường xuyên.
Ôi anh yêu. Em quá khẩn thiết để tự kể cho mình một câu chuyện, nhưng em đã cảm thấy buộc phải dệt nên một vài sợi dây liên kết giữa người nhếch nhác vô nghĩa ở sân sau hôm đó với những điều tốt đẹp nhất ở người đàn ông mà em đã lấy làm chồng.
Còn hai mươi phút trước giờ đi học, anh để bọn trẻ ra sân chơi. Thực tế, điều đó khích lệ anh rằng lần đầu tiên, hai đứa nó có thể xích lại gần nhau, sự gắn kết. Anh thong thả với tờ Thời đại, mặc dù thứ Năm có mục Sinh mổ tại nhà không được lôi cuốn cho lắm. Nên anh bắt đầu ăn sáng. Anh nghe thấy tiếng hét. Em không nghi ngờ gì việc anh đã chạy qua chiếc cửa trượt đó chỉ trong nháy mắt. Từ dưới chân đồi, anh tiến về phía nó. Anh là một người đàn ông mạnh mẽ, thậm chí ở tuổi năm mươi, anh vẫn nhảy dây bốn nhăm phút mỗi ngày. Nó hẳn sẽ rất vất vả để ngăn được người đàn ông như anh. Và anh đã gần đến nơi, chỉ cách đỉnh dốc vài mét, với cơn mưa tên.
Vậy nên đây là giả thuyết của em: Em nghĩ anh đã dừng lại. Ngoài hiên nhà, khi con gái chúng ta bị ghim vào bảng mục tiêu với một mũi tên xuyên qua ngực, trong khi đứa con đầu lòng của chúng ta xoay người trên gò đất và hướng về phía cha mình qua trục ngắm của cây nỏ Giáng sinh của nó, anh chỉ đơn giản là không tin vào chuyện đó. Có một thứ tồn tại như là một cuộc sống tươi đẹp. Có thể anh là một người cha tốt, đưa con đi những buổi dã ngoại cuối tuần, kể những câu chuyện trước giờ đi ngủ và vì thế nên anh nuôi dạy một đứa con trai đàng hoàng, mạnh mẽ. Đây là nước Mỹ. Và anh đã làm mọi việc đúng đắn. Vậy thì chuyện này không thể xảy ra.
Trong một khoảnh khắc chết chóc duy nhất, sự quả quyết đầy tự phụ này, thứ mà anh muốn thấy, đã tự xen vào đầy ác ý. Cũng có thể là não bộ của anh đã tự tái cấu trúc hình ảnh này, để hòa âm lại bản nhạc nền: Celia, Celia xinh đẹp làm-hết-sức-có-thể, con yêu Celia nhìn-vào-mặt-tích-cực, chỉ là để quen thêm với khuyết tật của con bé và hất tung mái tóc vàng óng của mình thật vui vẻ vào gió xuân. Con bé không la hét, nó đang cười. Nó đang hét lên bằng tiếng cười. Lý do duy nhất mà con bé thích giúp đỡ Kevin có thể hình dung ra khi đứng ngay trước tấm bia bắn là dốc hết lòng lấy các mũi tên cho anh trai mình. Còn đứa con đẹp trai của anh, nó đã luyện tập bắn cung sáu năm rồi. Nó đã được hướng dẫn tỉ mỉ bởi những người chuyên nghiệp và tốn kém. Thằng bé ý thức rõ về sự an toàn và sẽ không bao giờ chĩa một cây nỏ đã lên dây vào đầu người khác, đặc biệt là với chính cha mình.
Rõ ràng, ánh nắng đã đánh lừa thị giác. Thằng bé chỉ đang vẫy tay. Nó chắc hẳn đang hy vọng, không cần phải nói quá nhiều, vì sau cùng thì nó vẫn là một đứa trẻ mới lớn, để xin lỗi cho sự công kích trong bữa sáng với tất cả sự chối bỏ xấu xí, khắc nghiệt với những gì cha nó đã cố gắng làm vì nó. Nó có quan tâm đến cách hoạt động của máy Canon và nó hy vọng anh sẽ giải thích về tiêu cự trong một lần khác. Nó thực lòng ngưỡng mộ sự táo bạo của cha mình khi nhanh chóng nắm vững được một loại nghề nghiệp đặc biệt như vậy, một nghề cho phép sự sáng tạo thoải mái và sự độc lập. Việc đó chỉ kỳ lạ với một cậu bé mới lớn. Bọn trẻ độ tuổi này rất cạnh tranh. Chúng muốn đánh bại người khác. Thằng bé vẫn cảm thấy tồi tệ vì đã để mọi chuyện bộc phát như vậy. Sự tự ái hoàn toàn là nói dối. Nó trân trọng tất cả những chuyến đi đến chiến trường cũ của cuộc nội chiến, vì chiến tranh là thứ mà chỉ đàn ông với nhau mới hiểu, và nó đã học được một cái thá gì đó trong vô vàn thứ ở bảo tàng. Một vài buổi tối ở trong phòng mình, nó lấy ra những chiếc lá rụng mà hai người cùng nhặt trong khuôn viên ngôi nhà của tổ tiên Theodore Roosevelt và ép vào cuốn Bách khoa toàn thư Britannica năm ngoái. Nhìn những màu sắc dần nhạt đi nhắc nhở nó về sự hữu hạn của mọi vật, đặc biệt là của cha nó, và nó khóc. Khóc. Anh sẽ không bao giờ thấy điều đó, nó cũng sẽ không bao giờ nói với anh. Nhưng nó không cần phải làm thế. Thấy không? Cái vẫy tay? Nó vẫy để anh mang theo máy ảnh. Nó đã thay đổi ý định, còn năm phút nữa mới phải đi ra bến xe buýt và sau cùng thì nó cũng muốn anh chụp vài tấm ảnh, để bắt đầu cuộn phim Trái tim dũng cảm của Palisades, để treo lên tường phòng nghỉ.
Bản làm lại tài tình này có thể chẳng kéo dài hơn một hoặc hai giây trước khi nó đổ bể, giống như một khung hình đóng băng sẽ bị rộp và cháy thủng trước đèn chiếu nóng. Nhưng nó đủ dài để Kevin phóng mũi tên đầu tiên, có lẽ là cái mà em tìm thấy xuyên qua cổ họng và lồi ra sau gáy anh. Nó chắc hẳn đã cắt đứt động mạch nào đó. Quanh đầu anh, bên dưới cái đèn rọi, cỏ có màu đen. Ba mũi tên khác: một mắc kẹt ở phần hõm giữa ngực anh, nơi mà em thường thích ngả đầu vào, một xuyên vào những thớ cơ bắp chân to lớn nhờ nhảy dây của anh, và một kéo dài từ háng, nơi có niềm thích thú mà chúng ta mới cùng nhau tìm lại. Chúng chỉ là “những cú chạm ở vùng an toàn”, giống như một vài cái cọc phụ xung quanh mép một chiếc lều đã được dựng chắc chắn.
Em tự hỏi anh đã vất vả thế nào để leo lên ngọn đồi đó khi thực sự đang khò khè, bắt đầu ngạt thở bởi máu của chính mình. Không phải anh không quan tâm đến con bé, nhưng anh có thể đã hiểu ngay khi nhìn thoáng qua rằng đã quá muộn để cứu Celia. Việc con bé không còn hét nữa là một dấu hiệu không tốt. Để cứu chính mình, có lẽ nó đã không ở trong lòng anh. Chết đứng khi nhìn dòng máu tuôn ra, càng rõ nét hơn bởi chiếc bóng hằn lên của mũi tên trên cổ mình, cảm xúc trên mặt anh… đầy thất vọng.