Franklin thân yêu,
Em biết đây là chuyện dễ khiến anh tự ái. Nhưng em thề rằng, nếu anh không tặng nó cây nỏ vào Giáng sinh đó, thì đó sẽ là cung tên hoặc những phi tiêu tẩm độc. Nếu thế, Kevin cũng sẽ đủ lý do để dùng đến Bản sửa đổi thứ hai90 và giành lấy cho mình những khẩu súng lục hay súng săn hươu mà những kẻ có “tư duy hiện đại” thường chọn lựa. Thành thật mà nói, những vũ khí thường thấy trong các vụ xả súng trường học không chỉ cải thiện khả năng xảy ra sai sót mà còn tăng cao khả năng cạnh tranh về con số thương vong, đó rõ ràng là một trong số những tham vọng của nó, vì trước khi vụ Columbine xảy ra mười hai ngày sau đó, số thương vong của Kevin đứng đầu bảng xếp hạng. Và anh có thể chắc chắn nó đã cân nhắc chuyện này trong một thời gian dài. Chính nó khi mười bốn tuổi từng nói: “Lựa chọn vũ khí quyết định một nửa cuộc chiến”. Nhìn vào bề nổi, lựa chọn một thứ vũ khí cổ xưa có vẻ khá đặc biệt. Chúng gây bất lợi, hoặc dường như là thế.
90 Bản sửa đổi thứ hai của Hiến pháp Hoa Kỳ bảo vệ quyền cá nhân được giữ và mang vũ khí.
Có thể nó giống như em. Có lẽ em đã vượt qua những suy nghĩ tầm thường của chính mình để tự đặt cho bản thân một thử thách, thứ đã thôi thúc em mang thai một cậu bé ngay từ đầu. Và mặc dù nó có thể thích gán cho mẹ mình, người luôn ảo tưởng bản thân thật “đặc biệt”, một lời lăng mạ về sự sáo rỗng. Dù thích hay không, quý bà Chu-du-khắp-thế-giới sẽ trở thành một bà mẹ nhạt nhẽo kiểu Mỹ, và nó biết em đau lòng thế nào khi chiếc VW Luna bóng bẩy của mình trở nên phổ biến ở Northeast, và nó vẫn thích ý nghĩ khiến cho mình là người nổi bật. Từ sau vụ Columbine nó luôn càu nhàu “Thằng ngu nào chẳng bắn được súng”, nó hẳn đã nhận ra là một “thằng nhóc dùng nỏ” sẽ đánh dấu phi vụ nhỏ của nó trong trí tưởng tượng của nhiều người. Thực tế là vào mùa xuân năm 1999, thị trường thực sự rất đông đúc, và những cái tên từng gây ấn tượng khó phai như Luke Woodham và Michael Carneal bắt đầu mờ nhạt.
Hơn nữa, nó chắc chắn là muốn khoe khoang. Jeff Reeves có thể chơi một đoạn nhạc ghi-ta dạo đầu trung bình, Soweto Washington có thể vung những cú ném tự do, và Laura Woolford có thể khiến cả đội bóng phải nhìn theo nhưng Kevin Khatchadourian có thể bắn xuyên một mũi tên qua một quả táo hoặc một cái tai ở cách xa năm mươi mét.
Tuy vậy, em vẫn tin rằng động lực chính của nó là do những quan niệm. Không phải cái thứ nhảm nhí “Tôi có cốt truyện” mà nó đã nói với Jack Marlin. Hơn thế, em đã suy nghĩ về “sự thuần khiết” mà nó yêu thích ở những con virus máy tính. Đặt mình vào những khuôn khổ xã hội để rút ra những bài học to lớn, sâu sắc từ mọi vụ giết người ngu ngốc, nó chắc chắn đã phải tỉ mỉ phân tích những sai lầm có thể mắc phải của chính mình trong tương lai.
Ít nhất thì bố nó cũng suốt ngày lôi nó đến những bảo tàng người Mỹ bản địa đông đúc hay những chiến trường thê lương của những cuộc chiến tranh giải phóng, vậy nên ai muốn mô tả nó như là nạn nhân bị bỏ rơi của một cuộc hôn nhân mà cha mẹ chỉ lo công việc thì đều không thể, và dường như nó có thể cảm nhận được rằng chúng ta sẽ không ly hôn: không có tờ đơn nào ở đó. Nó không phải thành viên của giáo phái sa-tăng nào cả, hầu hết bạn bè nó cũng không đến nhà thờ, vậy nên sự vô thần không hề giống như một lời cảnh báo. Nó cũng không bị tẩy chay, nó có những người bạn nhạt nhẽo, bạn bè cùng tuổi cũng chẳng ai muốn phiền đến nó, nên những thứ như “đứa trẻ khó hòa nhập đáng thương bị hành hạ”, hay “chúng ta phải làm gì đó để ngăn chặn bắt nạt học đường” sẽ chẳng đi đến đâu. Không giống như những kẻ thiếu kiềm chế mà nó luôn khinh miệt, những kẻ đã truyền tay những mẩu giấy trong lớp và đưa ra những lời cảnh báo ngông cuồng cho mấy người bạn tâm phúc, nó giữ kín mọi thứ. Nó không đăng tải lên một trang web giết người hay viết một bài tiểu luận về việc thổi bay trường học của mình, và một nhà phê bình xã hội sáng tạo nhất cũng khó mà coi một lời chế nhạo dòng xe thể thao như một trong những “dấu hiệu cảnh báo” rõ ràng thúc đẩy những bậc phụ huynh và giáo viên cảnh giác gọi đến đường dây nóng bí mật. Nhưng hơn hết, nếu nó hoàn thành màn biểu diễn của mình hoàn toàn chỉ với một cây nỏ, thì mẹ nó và những đứa bạn đầu óc bã đậu sẽ không thể diễu cái mặt nó trên những tấm áp phích đòi Quốc hội tăng cường kiểm soát súng. Tóm lại, sự lựa chọn vũ khí của nó để đảm bảo tuyệt đối cho ngày thứ Năm là không ai có thể đoán trước được.
Khi em thức dậy vào sáu rưỡi sáng ngày 8 tháng Tư năm 1999, em chưa phải viết ngày đó bằng chữ in hoa. Em chọn một chiếc áo cánh mà mình ít khi mặc, anh ôm em khi em đang đứng cài khuy trước gương và nói rằng có thể em không muốn thừa nhận nhưng em rất hợp với màu hồng, và rồi anh hôn lên trán em. Những ngày này anh thường bộc lộ rõ những cử chỉ ân cần dù nhỏ nhất, và em đỏ mặt vì hạnh phúc. Một lần nữa em mong rằng anh sẽ suy nghĩ lại về việc chia tay mặc dù em đã phải miễn cưỡng hỏi thẳng anh và đánh liều phá hỏng những ảo tưởng. Em pha cà phê rồi gọi Celia, giúp con bé làm sạch và lắp mắt giả. Con bé vẫn gặp khó khăn trong việc tháo lắp, và việc lau sạch những mảng đóng vảy màu vàng khỏi cái mắt, lông mi và hốc mắt có thể mất đến mười phút. Mặc dù thật tốt khi ta đã có thể dần làm quen, nhưng em vẫn thấy thật nhẹ nhõm mỗi khi con mắt thủy tinh được lắp vào, cái nhìn màu xanh nước biển của con bé đã được quay trở lại.
Ngoài việc Kevin thức dậy mà không cần phải gọi đến ba lần, mọi chuyện diễn ra như một buổi sáng bình thường. Như mọi khi, em ngạc nhiên khi thấy anh gần đây ăn uống ngon miệng trở lại. Anh có lẽ là người thuộc tầng lớp trung lưu duy nhất ở Mỹ vẫn ăn một bữa sáng bình thường với hai quả trứng, thịt ba chỉ xông khói, xúc xích và bánh mì nướng. Em không bao giờ có thể ăn uống được gì khác ngoài cà phê, nhưng em thích âm thanh xì xèo của thịt trên chảo, mùi hương của bánh mì nướng xém và không khí có mùi thức ăn thúc đẩy cho một ngày dài phía trước. Sức mạnh tuyệt đối mà anh dùng để chuẩn bị bữa ăn này hẳn cọ rửa những động mạch của anh cho những gì sắp xảy ra.
“Nhìn con kìa!” Em kêu lên khi Kevin xuất hiện. Em đang cẩn thận chiên miếng bánh mì kiểu Pháp cho Celia cho đến khi khô giòn kẻo một chút trứng chưa chín có thể giống như chút nhầy. “Chuyện gì xảy ra thế, tất cả quần áo cỡ một của con ở trong máy giặt cả rồi à?”
“Có những ngày chỉ là đột nhiên thức dậy...” Nó vừa nói vừa cài gấu chiếc áo trắng của mình vào cạp chiếc quần đen mà nó từng mặc vào buổi tối ở nhà hàng Hudson. “... và có cảm giác hôm nay là ngày đặc biệt.”
Nó cất năm bộ khóa Kryptonite vào ba-lô. Em nghĩ rằng nó đã tìm được người mua ở trường.
“Kevin trông thật đẹp trai,” Celia ngại ngùng nói. “Đúng thế, anh trai con sát gái lắm đấy,” em nói.
Em rắc đầy đường bột lên miếng bánh mì, cúi xuống mái tóc vàng của Celia và thì thầm, “Giờ đừng lề mề nữa, con không muốn lại muộn học nữa chứ? Con nên ăn miếng bánh chứ không phải làm bạn với nó”.
Em vén tóc con bé ra sau tai và hôn lên đầu nó, và khi em làm thế, Kevin liếc nhìn về phía em khi nó đang xếp mấy cái khóa. Mặc dù nó bước vào bếp với một năng lượng hiếm thấy, nhưng giờ ánh mắt nó đã trở nên chết chóc.
“Này Kev,” anh gọi. “Bố đã chỉ cho con mấy cái máy ảnh này hoạt động thế nào chưa? Chút kiến thức về nhiếp ảnh cũng không hại gì, nó chắc chắn còn giúp bố kiếm ra tiền. Lại đây, vẫn còn thời gian mà. Bố không biết con có bận gì không nhưng bố còn bốn nhăm phút nữa mới phải đi.” Anh gạt chiếc đĩa đầy dầu mỡ sang một bên và mở chiếc túi đựng máy ảnh dưới chân ra.
Bất đắc dĩ, Kevin tiến đến. Có vẻ sáng nay nó không sẵn lòng cho mấy trò Trời ơi, Bố!. Khi anh nói về ánh sáng, vị trí tiêu cự, em cảm thấy một sự công nhận gượng ép. Phiên bản kỳ quặc về sự thân mật của chính cha anh là luôn cố gắng giải thích quá nhiều thông tin so với những gì người ta muốn biết là những thiết bị đó hoạt động như thế nào. Anh đã không đồng ý với niềm tin của Herbert rằng tháo dỡ chiếc đồng hồ của vũ trụ là để mở rộng phạm vi những bí ẩn của nó, nhưng anh lại viện đến sự cứu cánh của những thứ cơ học như là vịn vào một cái nạng cảm xúc.
“Nhắc mới nhớ,” anh xen vào giữa màn thuyết trình. “Hôm nào đó bố muốn chụp một cuộn hình con tập bắn cung. Lưu lại ánh mắt kiên định và cánh tay vững chắc cho hậu thế. Con nghĩ sao? Chúng ta có thể ghép thành một bức tổng hợp và treo trên tường: Trái tim dũng cảm của Palisades!”
Vỗ vào vai nó có vẻ là một sai lầm, nó co rúm lại. Và trong một tích tắc em đã cảm thấy thật đúng đắn khi chúng ta không can thiệp nhiều vào những gì diễn ra trong đầu Kevin, bởi vì khi chiếc mặt nạ rơi xuống, gương mặt nó hằn lên một sự hỗn loạn. Cho phép mình nhìn vào hoạt động của nó thật nhanh, nó hẳn phải có những thứ khác nữa trong đầu.
“Vâng, bố,” nó gượng gạo. “Điều đó thật… tuyệt.”
Tuy nhiên em đã chọn sáng nay giữa những buổi sáng khác để ngắm nhìn gia đình chúng ta trong một khung hình mờ ảo. Tất cả những đứa trẻ mới lớn đều ghét bố mẹ chúng, và có điều gì đó thật vô giá với những ác cảm đó nếu như ta có thể chấp nhận chúng. Ánh nắng chiếu lên mái tóc vàng óng của Celia khi con bé cắt miếng bánh mì thành những miếng nhỏ đến kỳ quặc và anh thì đang chìm đắm trong bài thuyết trình về sự nguy hiểm khi chụp ảnh ngược sáng trong khi Kevin vặn vẹo vì mất kiên nhẫn. Em đã say mê khoảnh khắc như tranh của Norman Rockwell đó đến nỗi cứ muốn nán lại cho đến khi bọn trẻ phải đi học, có thể em sẽ đưa Celia đi học thay vì để việc đó cho anh. Em đã cho phép mình bị cám dỗ! Nhưng trẻ con cần luyện những thói quen, em đã quyết định thế, và nếu em không lên xe trước giờ cao điểm thì quãng đường qua cầu sẽ chẳng khác nào địa ngục.
“Im đi,” Kevin đột nhiên gắt gỏng. “Đủ rồi. Im đi!”
Thật thận trọng, cả ba đều nhìn vào sự vô lễ bộc phát này.
“Con không quan tâm dùng máy ảnh như thế nào,” nó tiếp tục với cùng một tông giọng. “Con không muốn làm một người do thám vị trí cho một đống những sản phẩm vớ vẩn. Con không có hứng thú. Con không thích bóng chày hay những người sáng lập hay những trận quyết chiến từ Cuộc Nội Chiến. Con ghét bảo tàng và di tích quốc gia và những chuyến dã ngoại. Con không muốn phải học thuộc Bản tuyên ngôn độc lập trong thời gian rảnh của mình, hoặc là đọc sách của de Tocqueville. Con không thể chịu đựng được việc tua đi tua lại Tora, Tora, Tora! hay phim tài liệu về Dwight Eisenhower. Con không muốn chơi ném đĩa ở sân sau hay chơi thêm một ván Cờ tỷ phú với một tên lùn một mắt nhát chết, sụt sùi. Con không quan tâm đến mấy trò sưu tầm tem hay đồng xu hiếm hay ép mấy cái lá rụng vào từ điển. Và con đã ngán đến tận cổ mấy cuộc trò chuyện tâm tình bố-con về định hướng cuộc đời con vì đó không phải việc của bố.”
Anh sững sờ. Em bắt gặp ánh mắt của anh, nhưng em chỉ biết lắc đầu. Em đâu có thường xuyên là người khuyên nhủ nó phải biết kiềm chế. Nhưng chiếc nồi áp suất đã rất phổ biến từ thời của mẹ em. Sau một sự cố giờ đã thành huyền thoại trong gia đình em có liên quan đến lễ madagh91 mà khiến bọn em phải cạo sạch trần nhà bằng chổi, em đã sớm học được rằng khi cái vòng tròn kia đang kêu lên và thổi hơi nóng, việc tệ nhất có thể làm là mở cái nồi ra.
91 Lễ tưởng nhớ những nạn nhân của nạn diệt chủng người A-me-ni-a.
“Được rồi,” anh cất những ống kính vào túi. “Bố nghe rồi.” Cũng đột ngột như cách nó bùng nổ, nó ngay lập tức trở lại thành một học sinh lớp mười tự mãn, tầm thường chuẩn bị cho một ngày buồn tẻ khác ở trường. Em có thể thấy nó đã dập tắt cảm xúc đang bị tổn thương của anh, em cho rằng một phần cũng là vì nó không quan tâm. Không ai nói gì trong khoảng năm phút, và rồi dần dần mỗi người đều giả vờ quay lại công việc thường ngày, không ai nhắc gì đến sự bộc phát của Kevin theo cách mà những người lịch sự vờ như không nghe thấy một tiếng xì hơi. Tuy mùi của nó vẫn còn vương lại.
Mặc dù vội nhưng em vẫn chào tạm biệt Celia hai lần. Em cúi xuống và vuốt tóc nó, nhặt những mẩu dỉ còn sót lại ở lông mi dưới của con bé, nhắc nhở nó những cuốn sách phải mang đi và rồi ôm nó một cái thật chặt, nhưng sau khi em quay đi để lấy đồ của mình, em nhận ra con bé vẫn đứng đó, trông rất căng thẳng, hai bàn tay cứng ngắc giữ ra xa khỏi cơ thể như thể chúng bị dính đất bẩn. Em bế con bé lên, mặc dù nó đã gần tám tuổi và nâng toàn bộ cơ thể nó khá là nặng. Con bé quặp chân quanh eo em, dụi đầu vào cổ em và nói: “Con sẽ nhớ mẹ lắm!”. Em nói mình cũng sẽ nhớ nó mặc dù khi đó em không biết rằng mình sẽ nhớ nó đến nhường nào.
Có lẽ đang bực bội bởi bài diễn thuyết không giải thích nổi của Kevin và cần một cảm giác an toàn, nụ hôn tạm biệt của anh lần này không phải là cái hôn vội lên má mà là một nụ hôn bồn chồn với miệng hơi mở. (Cảm ơn anh, Franklin. Em đã sống lại khoảnh khắc đó nhiều lần đến nỗi những tế bào bộ nhớ hẳn phải nhợt nhạt và sắp đứt ra, giống như những xớ vải của chiếc quần bò yêu thích.) Về việc trước kia em không chắc bọn trẻ có muốn nhìn thấy bố mẹ hôn nhau hay không thì chỉ cần nhìn mặt Kevin là vấn đề được giải quyết. Chúng không thích.
“Kevin, có buổi tập bắn cung cá nhân ở phòng thể chất phải không?” Em nhắc nó vì muốn củng cố sự bình thường giữa em và nó trong khi chui vào chiếc áo khoác của mình. “Đừng quên mang bộ dụng cụ đi.”
“Mẹ không phải lo.”
“Mà còn nữa, con nên nghĩ xem mình muốn làm gì vào sinh nhật sắp tới đi. Chỉ còn ba ngày nữa thôi mà sinh nhật mười sáu tuổi là một cột mốc đấy, phải không?”
“Cũng có thể,” nó trả lời vô thưởng vô phạt. “Chẳng biết là cột mốc hay cột đá nữa.”
“Chủ nhật được không?” “Chắc là bó tay rồi.”
Em bực bội vì nó luôn khiến người ta cảm thấy thật khó khăn để tử tế với nó, nhưng đã đến lúc em phải đi. Em không hôn Kevin, những đứa mới lớn không thích chuyện đó, nên em vuốt trán nó bằng mu bàn tay của mình và em đã bất ngờ khi thấy nó hơi ẩm và lạnh. “Con hơi lạnh đấy, con ổn chứ?”
“Chưa bao giờ ổn hơn.” Em đi ra cửa thì Kevin gọi với lại. “Mẹ chắc rằng mình không muốn chào tạm biệt Celia thêm một lần nữa chứ?”
“Vui đấy,” em nói và đóng cánh cửa sau lưng mình. Em đã nghĩ nó chỉ đang trêu chọc em. Nhưng giờ nhìn lại, nó đã đưa ra một lời khuyên sâu sắc mà khi đó em thực sự nên nghe theo.
Em không biết cảm giác sẽ thế nào khi thức dậy vào một ngày quyết tâm khủng khiếp như vậy. Nếu là mình, em sẽ lăn lộn trên giường và tự nhủ, Nghĩ lại, mình chẳng thèm bận tâm! hoặc là Kệ xác, để mai!. Rồi ngày mai nối tiếp ngày mai. Dám chắc thứ kinh hoàng mà chúng ta gọi tên là “thiếu suy nghĩ” là hoàn toàn đã được suy nghĩ rất nhiều, và biết bao nhiêu đứa trẻ từng tưởng tượng về việc báo thù cho muôn vàn những đau khổ suốt mười năm học mà chúng phải chịu đựng. Đó không phải chỉ là một ảo ảnh hay thậm chí là một kế hoạch nửa vời khiến con trai chúng ta khác biệt. Nó có một khả năng đáng kinh ngạc để chuyển từ kế hoạch thành hành động.
Dù đã suy nghĩ nát óc, em chỉ có thể tìm thấy sự tương đồng duy nhất với cuộc đời mình là một sự căng thẳng khủng khiếp: tất cả những chuyến đi mà em phải vật lộn vì không muốn thực hiện.
Em sẽ tự khiến nó dễ dàng hơn bằng cách tách những chuyến đi có vẻ to tát thành những mẩu cấu thành nhỏ nhất. Thay vì thách thức bản thân dành hai tháng ở Ma-rốc tìm kiếm những bí ẩn, em chỉ dám nhấc điện thoại lên. Việc đó không quá khó. Và với một đứa nhóc ở đầu dây bên kia, em sẽ phải nói gì đó, vậy nên em sẽ đặt một chiếc vé, trông cậy vào sự nhân từ của lịch trình hàng không đối với khoảng cách kỳ diệu như vậy mà họ có thể không bao giờ vượt qua được. Nhìn kìa, một chiếc vé đã đến bằng đường thư điện tử: kế hoạch biến thành hành động. Em sẽ thách mình nắm bắt được lịch sử Bắc Phi, rồi em sẽ tự thách mình đóng gói đồ vào va-li. Tất cả những thử thách đã qua đều là có thể vượt qua được. Cho đến khi em tự dám bước lên taxi và máy bay, thì đã là quá muộn để quay lại. Một thành công lớn là những thành công nhỏ nối tiếp nhau, và đó hẳn cũng là điều mà Kevin đã bắt đầu hiểu ra khi đặt mua những chiếc khóa càng đó, cất từng cái vào ba-lô của mình. Xử lý từng phần một, và rồi kết quả tổng hòa tự mở ra như thể có phép thuật.
Về phần em vào ngày thứ Năm đó, vẫn là một ngày thứ Năm bình thường, em đã rất bận rộn. Bọn em sắp đến ngày hẹn với nhà in. Nhưng trong khoảnh khắc nhàn rỗi kì lạ, em đã suy nghĩ về sự bộc phát khác thường của Kevin hồi sáng. Những lời chỉ trích rõ ràng là thiếu vắng những thứ giống như thế, ý là, kiểu như vậy, và em nghĩ điều đó thường điểm xuyết chút bắt chước của một thiếu niên bình thường. Thay vì uể oải ở một góc nhà, nó đứng thẳng, nói ra từ chính miệng mình thay vì những cái nhếch mép. Em chắc chắn đã rất buồn khi nó làm tổn thương cha mình bằng việc bỏ rơi như vậy, nhưng chàng trai trẻ đã đưa ra những tuyên bố mạnh mẽ, không lòng vòng dường như là một chàng trai hoàn toàn khác so với người em đã sống cùng hàng ngày. Em cảm thấy muốn gặp lại chàng trai đó, đặc biệt là khi mà trạng thái tâm lý của cậu con trai kỳ lạ này dễ chịu hơn. Một viễn cảnh viển vông mà đến giờ em vẫn tiếp tục mong đợi.
Khoảng sáu giờ mười lăm tối, có một cuộc náo loạn ngoài văn phòng, những nhân viên túm tụm bàn tính gì đó mà em đoán là một cuộc tụ tập khi hết giờ làm. Ngay khi em định khước từ việc làm thêm giờ buổi tối của mình, Rose, người mà em cho rằng là đại diện của họ, ngập ngừng gõ cửa phòng em. “Eva,” giọng cô ấy có vẻ nghiêm trọng. “Con trai bà học ở trường Trung học Gladstone phải không?”
Câu chuyện đã đầy trên mạng Internet.
Những chi tiết không đầy đủ: “Số thương vong khủng khiếp trong vụ thảm sát trường Trung học Gladstone”. Ai hay bao nhiêu người bị bắn không rõ. Thủ phạm chưa biết là ai. Thực tế, những mẩu tin vắn như vậy rất gây ức chế: “Nhân viên bảo vệ” đã bắt gặp “một cảnh giết chóc” trong phòng thể chất mà cảnh sát đang “cố gắng xâm nhập vào”. Em biết mình đang cuống, nhưng những tin đó chẳng có ý nghĩa nào với em.
Em ngay lập tức gọi vào di động của anh, chửi rủa khi nó đã bị tắt. Anh suốt ngày làm thế để trân trọng sự cô đơn không bị gián đoạn trên chiếc xe của mình khi anh đi vòng quanh New Jersey để tìm cho ra con bò đúng màu. Em tôn trọng nếu anh không muốn nghe điện thoại của một người từ Kraft hay những người bảo vệ của anh ở đại lộ Madison, nhưng anh phải nghĩ đến việc bật nó lên vì em chứ? Mục đích của việc có cái thứ chết tiệt đó là gì? Em bực dọc. Em gọi về nhà nhưng bị chuyển vào hộp thư thoại. Đó là một buổi tối mùa xuân dễ chịu nên cũng có thể Robert đã đưa Celia ra sân sau chơi. Thực ra việc Kevin không nghe máy khiến dạ dày em như bị khuấy tung lên, nhưng em sẽ ngay lập tức suy luận rằng tất nhiên nó cũng có thể đã trốn ra ngoài với Lenny Pugh, người mà nó đã trở nên ngày càng thân thiết một cách khó hiểu kể từ sau buổi điều trần của Pagorski. Có lẽ việc trao đổi các đệ tử mù quáng không nhanh đến mức một tên đàn em thích tự nhục có thể dễ dàng được thay thế.
Em lấy áo khoác và quyết định đi thẳng đến trường. Khi em ra khỏi phòng, các nhân viên nhìn em với một nỗi kinh hoàng giống như khi họ trông thấy những người có chút liên quan mơ hồ nhất đến những mẩu tin vắn chạy trên trang chủ của America On-Line.
Em chạy xuống ga-ra đến chiếc VW của mình, vụt qua trung tâm thành phố và rồi bị kẹt lại ở cao tốc phía Tây. Cùng làm rõ một chuyện này. Em nghĩ Kevin hét lên trong chiếc cũi của mình vì những cơn thịnh nộ tự do chứ không phải vì nó cần cho ăn. Em cực kỳ tin rằng nó biết sẽ làm người phục vụ tổn thương khi trêu chọc cô gái ấy là “mặt phân”, và rằng nó phá hỏng những tấm bản đồ trên tường phòng làm việc của em là do ác ý đã được suy tính trước, không phải một sự sáng tạo sai lầm. Em vẫn tin rằng nó đã lên kế hoạch dụ dỗ Violetta cào những lớp da từ phần cơ thể lành lặn hơn của mình và rằng nó cứ tiếp tục muốn mặc tã cho đến tận khi lên sáu không phải vì nó bị khủng hoảng hay bối rối hay chậm phát triển, mà vì nó vẫn thực hiện chiến tranh bằng chân toàn thời gian với mẹ mình. Em nghĩ nó phá những món đồ chơi và những cuốn sách truyện em đã cẩn thận tạo ra bởi vì chúng tượng trưng cho sự vô ơn tại-mẹ của nó hơn là thứ đồ chơi ủy mị, và em chắc chắn nó bí mật học đếm và đọc để cố ý tước đi bất cứ cảm giác được làm một người mẹ có ích nào của em. Em tin chắc nó chính là người vặn bộ nhả phanh ở bánh trước xe đạp của Trent Corley. Em không ảo tưởng rằng một cái tổ sâu tự nhiên rơi vào ba-lô của Celia hay con bé tự trèo lên cao bảy mét trên cây sồi để rồi bị mắc kẹt một mình trên cành cây. Em tin rằng không thể nào con bé lại nghĩ ra việc trộn lẫn sáp dưỡng ẩm và sốt cà ri Thái cho bữa trưa cũng như bày trò chơi “bắt cóc” và “William Tell”. Và em cũng khá chắc chắn điều mà Kevin thì thầm vào tai cô bé tạm-gọi-là-Alice ở buổi vũ hội lớp tám hoàn toàn không phải là lời khen ngợi chiếc váy của con bé. Và mặc dù Liquid-Plumr bị đổ vào mắt trái của Celia, em hoàn toàn chắc chắn anh trai nó có liên quan đến chuyện đó nhưng không phải với vai trò vị cứu tinh cao quý của con bé. Em coi việc nó thủ dâm ở nhà với cánh cửa để mở là một sự lạm dụng tình dục bẩn thỉu đối với mẹ nó chứ không phải sự sôi sục không thể kiểm soát do hooc-môn tuổi thiếu niên. Mặc dù em nói với Mary rằng Laura nên học cách chấp nhận, nhưng em thấy hoàn toàn có khả năng con trai chúng ta đã nói với cô con gái mỏng manh, thiếu ăn của cô ta rằng con bé béo. Chẳng có gì là bí ẩn với em về chuyện một danh sách xuất hiện trong tủ của Miguel Espinoza, và mặc dù em nhận hoàn toàn trách nhiệm khi lan truyền virus máy tính cho cả công ty của mình, nhưng em chẳng thấy gì hay ho ở việc sưu tầm virus ngoài gây phiền phức và phá hoại. Em vẫn giữ vững quan điểm rằng Vicki Pagorski đã bị hãm hại trong một phiên tòa mà chính Kevin Khatchadourian là kẻ bày trò. Cứ cho là em đã sai khi buộc tội con trai chúng ta ném những miếng gạch xuống đường, và cho đến mười ngày trước em mới phát hiện ra sự biến mất của bức ảnh quý giá ở Amsterdam như một nạn nhân nữa của sự thù oán trong lòng con trai mình. Vậy nên như em từng nói, em luôn nghĩ đến trường hợp xấu nhất. Nhưng ngay cả sự cay độc trái với bản năng làm mẹ này cũng có giới hạn của nó. Khi Rose nói với em rằng có một vụ tấn công khủng khiếp vào trường học của Kevin và một số học sinh có thể đã chết, em chỉ lo lắng cho tính mạng của con trai mình. Không hề nghĩ ngay đến chuyện nó chính là thủ phạm.
Lời khai của những nhân chứng về một vụ việc thì luôn lộn xộn, đặc biệt là ngay khi nó vừa xảy ra. Tại hiện trường, quy tắc tin tức không chính xác. Sự thật chỉ rõ ràng sau khi trật tự đẩy lùi sự hỗn loạn. Vì thế chỉ cần vài cú nhấp chuột, em có thể biết được nhiều phiên bản khác nhau tường thuật lại hành động của con trai chúng ta theo trình tự thời gian một cách thô sơ nhất. Em đã nắm được vài mẩu của câu chuyện này khi lái vào bãi đỗ xe của trường với đài radio vẫn bật, nhưng hàng năm trời suy ngẫm đã trải dài ra trước mắt em để từ từ sắp xếp thành trò chơi ghép hình nhiều người yêu thích này, cũng như Kevin dành nhiều năm thâm nhập vào cửa hàng đồ gỗ thiếu trang bị để gọt giũa, phủ lên và đánh bóng lý do của nó.
Các trường học không nhất thiết phải coi những mẫu văn bản như là chìa khóa sức mạnh, và em không chắc chúng đều được cất giữ cẩn thận. Tuy nhiên Kevin đã có được nó, Kevin đã tập trung trong lớp tiếng Anh của Dana Rocco đủ nhiều để nắm được cấu trúc của những bức thư yêu cầu đó. Bởi vì người ta không dùng từ lóng phổ biến hoặc chơi trò chơi từ-có-ba-chữ trong những văn bản như vậy. Sau đó, công văn chính thức gửi cho Greer Ulanov chẳng hạn, vừa đủ để sử dụng dịch vụ bưu chính lờ đờ của Nyack, phô bày cùng một sự thông minh và độ chính xác mà Kevin từng thể hiện khi đóng vai Ron Howard với anh và nạn nhân rụt rè, bối rối với Alan Strickland:
Greer thân mến,
Những giáo viên của trường Trung học Gladstone rất tự hào về tất cả những học sinh của mình, những người đã đóng góp tài năng đặc biệt của bản thân cho cộng đồng. Tuy nhiên một số học sinh nhất định luôn khiến chúng tôi phải chú ý vì các em đã nổi bật hơn hẳn trong nghệ thuật hoặc đã cống hiến nhiều hơn phần của mình để tạo nên một môi trường học tập năng động. Và chúng tôi rất vui mừng được vinh danh những cá nhân đặc biệt xuất sắc này vào cuối năm học.
Sau khi tham khảo ý kiến của các giáo viên và hội đồng nhà trường, chúng tôi đã soạn ra một danh sách chín học sinh gương mẫu xứng đáng nhất với Giải thưởng Hứa hẹn Rực rỡ và Tỏa sáng (GHRT). Tôi vinh dự được thông báo em là một trong chín người này, được chọn ra nhờ những đóng góp vượt trội trong chính trị và nhận thức công dân.
Để xúc tiến, chúng tôi mong rằng tất cả những người được nhận được GHRT có mặt tại nhà thể chất vào thứ Năm, ngày 8 tháng Tư lúc ba rưỡi chiều. Chúng tôi mong rằng em có thể bắt đầu tập hợp cho chương trình tổng hợp mà GHRT sẽ được trao vào đầu tháng Sáu. Một vài mô tả về món quà mong muốn của em sẽ được cân nhắc. Những người có khả năng nghệ thuật có thể biểu diễn các kỹ năng, những người khác với tài năng học thuật hơn có thể sẽ phải luyện tập tính sáng tạo như một cách tốt nhất để minh chứng cho thành tích của mình.
Mặc dù chúng tôi đã đưa ra quyết định dựa trên thành tích, nhưng chúng tôi đã cố gắng pha trộn giới tính, chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo và xu hướng tính dục để GHRT có thể phù hợp với sự đa dạng của cộng đồng chúng ta.
Lời cuối, chúng tôi mong em giữ kín việc được lựa chọn cho giải thưởng này. Nếu tôi nghe thấy bất kỳ lời khoe khoang nào, hội đồng có thể sẽ buộc phải xem lại tư cách ứng viên của em. Chúng tôi thực sự mong mình đủ khả năng để trao cho mỗi học sinh một giải thưởng vì đã là một cá nhân thật đặc biệt, và việc tránh cho em khỏi những sự ghen tị không cần thiết trước khi giải thưởng được công bố là rất quan trọng.
Chân thành chúc mừng. Trân trọng,
Donald Bevons
Hiệu trưởng
Những thông báo giống hệt như vậy đã được gửi cho tám học sinh khác, với chỗ trống được điền phù hợp. Denny Corbitt được khen ngợi về kỹ năng diễn xuất, Jeff Reeves về ghi-ta cổ điển, Laura Woolford về “diện mạo cá nhân”, Brian “Mouse” Ferguson về khả năng máy tính, Ziggy Randolph thì không chỉ về múa ba-lê mà còn vì “thúc đẩy công nhận sự khác biệt”, Miguel Espinoza về những thành tích học tập và “khả năng từ vựng”, Soweto Washington về tài năng thể thao và Joshua Lukronsky là về những “nghiên cứu điện ảnh” và “đã ghi nhớ toàn bộ những kịch bản của Quentin
Tarantino”, em chê trách Kevin ở điểm này vì đã không kiểm soát được bản thân, mặc dù hầu hết mọi người đều không nhìn nhận sự tâng bốc này là rất đáng ngờ. Dana Rocco thì nhận được một lá thư hơi khác yêu cầu cô ấy chủ trì buổi gặp mặt vào thứ Năm này nhưng cũng nhắc rằng cô ấy đã được chọn để nhận giải thưởng Giáo viên được yêu thích nhất với yêu cầu tương tự rằng các giáo viên khác cũng rất được yêu thích nên cô ấy phải giữ chuyện này bí mật.
Dù cái bẫy đã được giăng ra cẩn thận, nó cũng khó tránh khỏi những lỗ hổng. Dana Rocco có thể sẽ đề cập đến buổi gặp mặt với Bevons, người chẳng hề biết gì và làm bại lộ mọi chuyện. Ta có thể nói rằng Kevin đã may mắn hay không? Cô ấy đã không kể.
Buổi tối ngày 7 tháng Tư, Kevin đặt chuông báo thức sớm hơn nửa tiếng so với bình thường và trải sẵn quần áo để buổi sáng hôm sau có thể dễ dàng thay đồ, chọn cho mình chiếc sơ mi trắng bảnh bao với ống tay bồng kiểu đấu kiếm sẽ giúp nó trông ăn ảnh hơn. Nếu là em, em sẽ lăn lộn suốt cả đêm hôm đó trong sự đau khổ, nhưng em sẽ chẳng bao giờ thực hiện kế hoạch kỳ quặc này ngay từ đầu. Vậy nên em chỉ có thể nghĩ rằng nếu Kevin có mất ngủ thì là do nó quá phấn khích.
Đi xe buýt đến trường vào sáng hôm sau, nó hẳn sẽ rất vướng víu, những chiếc khóa xe đạp đó nặng gần ba ki-lô-gram mỗi chiếc, nhưng Kevin đã sắp xếp cho buổi tập bắn cung độc lập này ngay từ đầu học kỳ, chú tâm vào một trò tiêu khiển ít phổ biến khó có thể được coi là đặc biệt. Những học sinh khác đã quen với việc nó mang đồ bắn cung đến trường. Không ai đủ cảnh giác để chú ý đến môn thể thao cũ kỹ này và cảm thấy khó chịu khi Kevin không đeo cây cung bình thường mà là một cái nỏ, thứ mà hội đồng nhà trường đã cố hết sức giải thích rằng chúng không bao giờ được phép mang vào khuôn viên trường học. Mặc dù nó mang theo rất nhiều mũi tên và buộc phải đựng trong một chiếc túi đồ lề, chẳng ai để ý đến cái túi, chiếc túi thuyền mà bạn bè đã quen thuộc từ khi Kevin học lớp tám chỉ to ra vào năm hai trung học.
Sau khi giấu đồ bắn cung của mình ở phòng dụng cụ của nhà thể chất như mọi khi, nó tham dự tất cả các tiết học. Trong giờ tiếng Anh, nó hỏi cô Dana Rocco “maleficence” là gì và cô ấy tươi cười.
Buổi tập bắn cung độc lập của nó được xếp vào cuối ngày, vì sự nhiệt tình chắc chắn đã được chứng minh, giáo viên thể dục không còn kiểm tra nó nữa khi nó chỉ phóng những mũi tên của mình vào mục tiêu mạt cưa. Vì thế, Kevin có dư thời gian để dọn dẹp bất cứ thứ dụng cụ nào như là túi tập đấm, bục nhảy ngựa hay những tấm nệm. Vừa hay chỗ ngồi ở khán đài đã được dựng lên và để chắc chắn, nó đóng hai ổ khóa nhỏ quanh phần tiếp giáp của giá đỡ cả hai phía, đảm bảo rằng chúng không thể gập được xuống. Khi nó dọn dẹp xong, căn phòng chẳng còn gì ngoài sáu tấm thảm mỏng màu xanh xếp thành một vòng tròn ở giữa.
Công tác chuẩn bị đã được tiến hành hoàn hảo. Nhà thể chất là một công trình độc lập, cách khu lớp học ba phút đi bộ. Có năm lối cửa vào gian chính: từ phòng thay đồ nam và nữ, từ phòng dụng cụ cũng như từ tiền sảnh, một cánh cửa trên tầng hai nối với một hốc tường, dùng để đặt các máy điều hòa không khí, từ đây có thể nhìn bao quát khắp phòng. Tuy nhiên không có một lối vào nào nằm ngoài tòa nhà. Phòng thể chất cao một cách lạ thường, và chỉ có cửa sổ ở trên cao, không ai có thể nhìn thấy bên trong nếu đứng từ ngoài. Không có sự kiện thể thao nào được tổ chức chiều hôm đó.
Chuông reo lúc ba giờ, và đến ba giờ mười lăm thì tiếng hò hét vọng lại từ những học sinh đang rời đi tắt dần. Phòng thể chất giống như một hoang mạc, mặc dù Kevin vẫn phải thêm vào những tiếng leng keng khi đi qua phòng thay đồ nam và gỡ chiếc khóa Kryptonite đầu tiên đang quàng trên vai mình. Nó là một người luôn có phương pháp dù là trong những hoàn cảnh bình thường nhất, vậy nên chúng ta có thể chắc chắn rằng nó đã xoay chính xác chìa khóa cho mỗi chiếc ổ khóa phủ nhựa màu vàng đó. Cuốn một dây xích nặng quanh tay nắm của những cánh cửa kép, nó kéo dây xích thật căng. Sau khi kéo chặt dây xích, nó vòng chiếc khóa vào chỗ nối, bấm khóa, vặn chìa và thả nó vào túi của mình. Em dám chắc rằng nó đã thử cánh cửa, giờ chỉ có thể mở ra một khoảng rất nhỏ. Nó lặp lại với cánh cửa ở phòng thay đồ nữ, rồi với cánh cửa nối với phòng dụng cụ, thoát ra ngoài bằng lối cửa sau liền với phòng tạ.
Giờ em đã biết những chiếc khóa đó là tối tân trong việc bảo vệ xe đạp. Phần hình chữ U của chiếc ổ khóa nhỏ, chắc chỉ khoảng năm xen-ti-mét, chống lại mọi nỗ lực trộm cắp bằng khả năng đòn bẩy của một chiếc xà beng. Những mối liên kết của sợi xích đều được rèn ở nhà máy, mỗi mối nối dày hơn một phân. Xích Kryptonite nổi tiếng vì chống được nhiệt kể từ khi những tên trộm chuyên nghiệp biết dùng đèn xì, và công ty đã tự tin với công nghệ của mình đến nỗi tuyên bố nếu chiếc xe đạp của bạn bị đánh cắp, họ sẽ đền bù đầy đủ trị giá chiếc xe. Không giống như mô hình của những đối thủ cạnh tranh, sự bảo hiểm thậm chí còn được áp dụng cả ở New York.
Mặc dù nó đã thổ lộ sự coi thường đối với công việc của anh, nhưng Kevin đang chuẩn bị khởi động một chiến dịch quảng cáo thành công nhất từ trước tới giờ cho Kryptonite.
Đến ba giờ hai mươi, khúc khích với niềm vui tự chúc mừng, những người chiến thắng GHRT đầu tiên đã bắt đầu xuất hiện qua cửa chính từ sảnh, cánh cửa vẫn chưa bị khóa.
“Sạch sẽ quá má ơi!” Soweto kêu lên.
“Này, chúng ta là Rực rỡ và Tỏa sáng.” Laura vừa nói vừa hất mái tóc như lụa của mình. “... chẳng nhẽ không có cái ghế nào để ngồi sao?”
Mouse tiến đến phòng dụng cụ để tìm vài chiếc ghế gấp, nhưng khi nó quay lại để thông báo rằng cửa đã bị khóa, Greer nói: “Tôi không biết nữa, nó có thể phải gọn gàng kiểu như vậy. Chúng ta có thể ngồi khoanh chân như khi đốt lửa trại”.
“Làm ơn đi!” Laura, người mà đang mặc đồ hơi thiếu vải. “Khoanh chân? Trong cái váy này? Và đây là đồ Versace đấy, Chúa ơi! Tôi không muốn làm bẩn nó bằng mồ hôi.”
Kevin có thể nghe thấy tiếng những người thắng giải của mình từ góc trong hốc, chỉ cần nó đứng sát vào tường thì không ai có thể nhìn thấy nó từ phía dưới. Ba chiếc máy tập đạp xe, máy chạy bộ và máy chèo thuyền đã được kéo đi khỏi hành lang căn phòng đó. Nó có hàng trăm mũi tên dựng đứng được chuyển từ chiếc túi vải sang hai chiếc xô chữa cháy.
Bị hấp dẫn bởi độ vang tuyệt vời, Denny đã biểu diễn một vài câu từ vở Đừng uống nước đó, trong khi Ziggy, người có thói quen lượn lờ khắp trường trong bộ đồ ba-lê liền mảnh và quần tất để khoe bắp chân, không thể ngăn mình xoay một vài vòng trên mũi chân dọc theo chiều dài của phòng thể chất và kết thúc với một cú xoạc trên không trung, thứ mà Kevin sau này gọi là “một màn ra mắt bóng chúa”. Nhưng Laura, người mà chắc chắn thấy rằng chẳng có gì hay ho khi nhìn mấy thằng đồng bóng, chỉ chăm chăm nhìn về phía Jeff Reeves. Mặc dù trầm tính và luôn nghiêm nghị, cậu chàng mắt xanh đẹp trai với túm tóc đuôi ngựa có hàng tá những cô gái được biết đến như là những tình nhân nhỏ bé. Laura Woolford cũng là một trong những người hâm mộ cuồng nhiệt của Jeff theo như một bài phỏng vấn người bạn thân của con bé với đài NBC, điều này còn hơn cả việc chơi thành thạo đàn ghi-ta mười hai dây, giải thích cho việc tại sao thằng bé cũng được coi là Rực rỡ và Tỏa sáng.
Miguel, người hẳn phải tự nhủ rằng mình không nổi tiếng vì sự thông minh hay vì gốc gác La-tinh, bất kỳ thứ gì ngoài một vóc dáng thấp bé, nhanh chóng quăng mình xuống tấm thảm xanh, cắm cúi với cái nhăn trán nghiêm túc vào cuốn sách Sự khép lại của tinh thần Mỹ của tác giả Alan Bloom đã cũ sờn. Bên cạnh thằng bé, Greer, người phạm một sai lầm phổ biến khi cho rằng những người bơ vơ thì đều giống nhau và luôn bị từ chối, đang cố lôi kéo bạn vào một cuộc thảo luận về sự can thiệp của NATO vào Kosovo.
Dana Rocco đến lúc ba giờ ba mươi lăm. “Thôi nào các em!” cô ấy tập hợp bọn trẻ. “Ziggy, mọi động tác đều rất kịch tính nhưng đây không phải một buổi tập ba-lê. Chúng ta có thể tập trung vào việc ở đây được không? Đây là một dịp vui nhưng vẫn là việc ngoài giờ với tôi, và tôi muốn về nhà trước chương trình của Letterman.”
Lúc này, nhân viên căn-tin xuất hiện, mang theo một khay bánh mì kẹp gói giấy bóng. “Bà muốn để cái này ở đâu?” Ông ta hỏi cô Rocco. “Chúng tôi nhận được yêu cầu từ ông Bevons để mang đồ ăn đến.”
“Don thật chu đáo!” Cô ấy kêu lên.
Chà thực ra là ai đó đã thật chu đáo. Và em phải nói rằng những chiếc bánh mì kẹp là một chi tiết hay, đó là cách người ta thường thêm vào những sự kiện thực sự của trường học. Nhưng Kevin có vẻ đã hơi làm quá và hành động này sẽ khiến nó hơi tốn kém một chút.
“Thưa bà, ca của tôi đã kết thúc, bà có phiền không nếu tôi ném vài phát bóng? Chỉ ở phía xa cuối phòng kia thôi, không làm phiền gì đến mọi người đâu. Khu tôi ở không có cột bóng rổ nào cả. Tôi sẽ rất biết ơn.”
Cô Rocco có vẻ ngần ngại vì những tiếng ồn gây xao nhãng, nhưng nhân viên đó là người da đen.
Kevin hẳn đã tự đá cho mình một cái vì đã để lại cái cột bóng rổ ở góc phòng, nhưng đã ba giờ bốn mươi, nó bị phân tâm nhiều hơn bởi sự vắng mặt. Chỉ có chín trong số mười vị khách của nó có mặt, cùng với một vị khách không mời mà tới. Kế hoạch này không dành cho những người đến muộn, và khi cuộc họp mặt được bắt đầu nó sẽ phải điên cuồng dựng nên một kế hoạch bất ngờ để đối phó với sự xuất hiện chậm trễ của Joshua Lukronsky.
“Eo ô-oiiii!” Laura vừa nói vừa đẩy cái khay đi. “Bánh cuộn gà tây kìa, thật là phí ca-lo.”
“Trước hết, các em, cô muốn chúc mừng tất cả các em vì đã giành được giải thưởng đặc biệt này,” cô Rocco nói.
“Được rồi!” Cánh cửa phía sảnh chính bật mở. “Hãy cùng nhập vai nào!”
Kevin chưa từng hạnh phúc đến vậy khi nhìn thấy sự quá khích của Joshua Lukronsky. Khi vòng tròn được mở rộng ra một chút để nhường chỗ cho Josh, Kevin lén ra khỏi góc trong hốc và trượt xuống dưới với một cái khóa Kryptonite khác. Mặc dù nó cố yên lặng hết mức có thể, dây xích vẫn va vào nhau đôi chút, và nó nên cảm thấy biết ơn tiếng đập bóng của người nhân viên căn-tin. Quay lại chỗ trên hốc tường, nó trượt cái khóa cuối cùng quanh tay nắm bên trong của cánh cửa kép.
Voilà. Cá đã nằm trong lưới.
Liệu nó có suy nghĩ lại, hay chỉ đơn giản là tận hưởng? Buổi họp mặt tiến hành thêm năm phút nữa trước khi Kevin rón rén tiến về phía hành lang với chiếc nỏ đã lên dây của mình. Mặc dù nó đã đứng thẳng sừng sững ở đó, nhưng cả nhóm quá mải mê lên kế hoạch cho giải thưởng của chính mình nên chẳng ai nhìn lên.
“Em có thể có một bài phát biểu,” Greer đề nghị. “Ví dụ như tại sao nên bãi bỏ những văn phòng công tố đặc biệt? Bởi vì em nghĩ Kenneth Starr chính là ác quỷ hiện hình!”
“Một cái gì đó ít gây chia rẽ hơn thì sao?” Cô Rocco đề nghị. “Em không muốn chọc giận những người đảng Cộng hòa…”
“Muốn cá không?”
Một âm thanh nhẹ nhàng lướt qua. Chỉ như một khoảng lặng nhỏ giữa tia sét và tiếng sấm, một thoáng im lặng ngột ngạt giữa tiếng vút của mũi tên đâm xuyên chiếc áo Versace của Laura Woolford và lúc mà những học sinh khác bắt đầu hét lên.
“Ôi trời ơi!”
“Nó từ đâu thế?”
“Cô ấy đang chảy máu kìa!”
Vút. Chưa phải vật lộn với đôi chân của mình, Miguel nhận một mũi tên vào bụng. Vút. Một mũi tên cắm giữa hai bả vai của Jeff khi cậu ta đang cúi xuống đỡ Laura Woolford. Em chỉ có thể suy luận rằng suốt những giờ Kevin dành ra để luyện tập ở sân sau nhà chúng ta, cái chấm đen chính giữa những vòng tròn đồng tâm đó trong tâm trí nó chính là vòng tròn hoàn hảo trên chiếc áo Versace kia. Bị bắn vào giữa tim, con bé đã chết.
“Cậu ta ở trên kia!” Denny chỉ ra.
“Các em, ra ngoài, chạy đi!” Cô Rocco ra lệnh mặc dù cô ấy chẳng cần làm thế, những người chưa bị thương còn lại đã rầm rập chạy về lối cửa chính, nơi khiến họ tăng lên một mức hoảng loạn mới. Tuy rằng đã xác định được vị trí của Kevin, nhưng chẳng có một mét vuông nào trong phòng mà không thể bị xuyên qua từ trên hành lang đó, và tất cả bọn họ sẽ sớm nhận ra.
“Chết tiệt. Đáng lẽ mình phải biết rồi!” Joshua hét lên với một cái liếc mắt lên cao, cố gắng giật cánh cửa phòng dụng cụ mà Mouse vừa thử trước đó. “Là Khatchadourian.”
Vút. Khi cậu ta đang đập vào cửa chính để cầu cứu thì mũi tên đã mắc kẹt trên cái lưng run rẩy, một mũi tên khác cắm vào gáy Jeff Reeves. Khi Mouse chạy về phía cửa phòng thay đồ nam và cánh cửa cũng đã khóa chặt, cậu ta trúng một mũi tên vào mông, mũi tên đó không giết chết cậu ta, nhưng khi cậu ta tập tễnh tiến về phía cửa phòng thay đồ nữ, cậu ta chắc chắn bắt đầu nhận ra rằng còn nhiều thời gian cho người muốn giết cậu ta.
Cô Dana Rocco chạy đến cửa phòng thay đồ nữ gần như cùng lúc đó, nặng nề vì đang đỡ Laura trên cánh tay mình, một nỗ lực vô ích nhưng can đảm sẽ được vinh danh trong lễ tưởng niệm. Mouse nhìn vào mắt cô Rocco và lắc đầu. Khi những người bạn học đang la hét thành vòng tròn từ cánh cửa này đến cánh cửa khác như bột trong một cái âu trộn, Mouse hét lên át những tiếng ồn, “Cửa bị khóa rồi! Tất cả cửa đều bị khóa rồi! Tìm chỗ nấp đi!”.
Nấp sau cái gì đây?
Người nhân viên căn-tin, dù ít thích ứng với những vụ thảm sát trường học hơn các học sinh, cũng đã trải qua toàn bộ những công tác chuẩn bị nên nhập vai ngay lập tức, anh ta đi dọc theo bức tường như thể cảm thấy đó là lối thoát bí mật như trong những cuốn truyện trinh thám, di chuyển thật chậm, cố gắng không gây sự chú ý. Những bức tường xi măng là hoàn toàn vô dụng, anh ta giờ cúi mình với hai tay giữ quả bóng nằm giữa mũi tên và đầu anh ta. Kevin chắc chắn đã rất bực mình vì để lọt bất kỳ trở ngại nào ở lại trong phòng dù là nhỏ, và một sự phòng vệ dù không hiệu quả cũng chỉ khiến lửa giận bùng lên. Phụt. Quả bóng đã bị lệch đi.
“Kevin!” Giáo viên tiếng Anh của nó kêu lên, che chắn cho Mouse ở một góc xa nhất có thể. “Hãy dừng lại! Làm ơn dừng lại đi! Làm ơn!”
“Maleficence.” Kevin rít lên một tiếng rành mạch từ trên cao. Joshua sau này nhắc lại rằng thật kỳ lạ vào lúc đó ta có thể nghe thấy giọng nói gần như im lặng của Kevin trên tất cả những tiếng ầm ĩ. Suốt cả buổi hôm đó, đấy là từ duy nhất mà Kevin nói ra. Sau đó, nó cố định tầm ngắm của mình về phía người đồng minh trung thành nhất trong số những giáo viên ở trường Gladstone và phóng một mũi tên vào giữa hai mắt cô ấy.
Khi cô ấy ngã xuống, Mouse trơ trọi trong góc phòng, và mặc dù thằng bé cố gắng co quắp để tự che chắn cho mình, nó nhận thêm một mũi tên ghim vào phổi. Thằng bé hẳn nhận ra nó đã chia sẻ những bí mật về virus máy tính với một kẻ không hề đam mê mà chỉ thực sự quan tâm đến bắn cung.
Nhưng nhìn Mouse, Joshua đã nảy ra một ý tưởng, lúc này cậu ta nhặt tất cả những tấm thảm xanh mỏng manh để cố gắng tạo ra một kiểu khiên nào đó mà không thực sự có tác dụng như thường thấy trên phim ảnh, và hai mũi tên đã sượt qua chỉ cách đầu cậu ta vài xen-ti-mét. Chạy đến góc của Mouse trong khi Kevin đang bận rộn khoan thủng cặp đùi mạnh mẽ của Soweto Washington, Joshua tự ứng biến dựng cho mình một lá chắn trong góc bằng những miếng xốp màu xanh, cô Dana Rocco, Laura Woolford, và cơ thể nửa tỉnh nửa mê đang rên rỉ của Mouse Ferguson. Từ chính cái lều ngột ngạt này, Joshua có thể quan sát đoạn kết, lén nhìn qua nách Laura khi Mouse bắt đầu sùi bọt mép. Ở trong đó nóng, khó thở bởi những thứ mùi bốc lên từ những giọt mồ hôi sợ hãi và một thứ khác, mùi kinh khủng hơn cả chính là cơn buồn nôn đã lên đến tận họng.
Từ bỏ việc tìm kiếm một nơi trú ẩn an toàn, Greer Ulanov tiến đến bức tường sát hành lang của góc trong hốc, đứng chỉ cách sáu mét dưới chân của Cupid độc ác. Con bé cuối cùng cũng tìm thấy một kẻ tàn độc đáng ghét hơn cả Kenneth Starr.
“Tao ghét mày, đồ ngu ngốc đáng ghê tởm!” Con bé rít lên. “Tao mong mày bị hủy diệt! Tao mong người ta bơm đầy chất độc vào người mày và tao sẽ nhìn mày chết!” Đó là một sự thay đổi bất ngờ. Chỉ mới một tháng trước đây, con bé đã viết một bài tiểu luận đầy say mê phản đối án tử hình.
Vươn người qua hàng rào hành lang, Kevin bắn thẳng xuống, nhắm trúng chân Greer. Mũi tên xuyên xuống sàn, ghim chặt con bé ở chỗ nó đang đứng. Khi con bé đang tái nhợt và vật lộn để kéo mũi tên lên khỏi sàn nhà, Kevin ghim luôn bàn chân còn lại của con bé. Nó có khả năng để chơi đùa một chút, nó vẫn còn phải đến năm, sáu chục mũi tên.
Lúc này, những người bị thương khác đã bò đến bức tường ở xa, nơi mà chúng ngã xuống như những con búp bê voodoo bị gắn ghim. Hầu hết chúng chụm lại trên sàn, cố gắng tạo thành một mục tiêu nhỏ nhất có thể. Nhưng Ziggy Randolph, hiện tại vẫn chưa trúng tên, đang sải bước đến chính giữa phòng nơi mà cậu ta ưỡn ngực, chạm hai gót chân vào nhau. Nước da ngăm và những đặc điểm ưa nhìn, cậu ta nổi bật với vẻ ngoài oai vệ, nhưng tác phong lại yếu ớt. Em không bao giờ biết được cái cử chỉ cổ tay mềm oặt của người đồng tính đó là bẩm sinh hay do luyện tập.
“Khatchadourian!” Giọng Ziggy vang lên át đi những tiếng nức nở. “Nghe tôi nói này! Cậu không cần phải làm thế này! Chỉ cần đặt cây cung xuống sàn và chúng ta cùng nói chuyện. Nhiều người trong số họ sẽ ổn thôi nếu chúng ta gọi cấp cứu ngay.”
Em nên nhắc thêm ở đây rằng khi Michael Carneal bắn nhóm người cầu nguyện ở Paducah, Kentucky năm 1997, một học sinh năm cuối trường Trung học Heath sùng đạo, con trai của một nhà truyền giáo với cái tên rất tiểu thuyết, Ben Strong đã được vinh danh từ bờ biển này đến bờ biển khác vì đã xoa dịu kẻ xả súng, thuyết phục cậu ta bỏ súng xuống và tự đặt bản thân vào tình huống nguy hiểm chết người. Theo như huyền thoại được kể lại, để đáp lại thì Carneal đã buông súng sụp xuống. Vì khắp nơi đều khao khát những người hùng trong các sự kiện mà mặt khác đã trở thành một sự kỳ quặc mang tính quốc tế không thể thay đổi, câu chuyện được lan truyền rộng rãi. Strong đã xuất hiện trên tạp chí Thời đại và được mời đến Larry King Live. Sự quen thuộc của Ziggy với ví dụ này đã củng cố lòng dũng cảm của cậu ta để đối mặt với kẻ tấn công họ, và một sự ngưỡng mộ chưa từng thấy với “màn thú nhận giới tính” của Ziggy trong cuộc gặp mặt học kỳ trước hẳn đã làm cậu ta thêm vững tin vào khả năng thuyết phục trong bài hùng biện của mình.
“Tôi biết cậu đang rất buồn vì chuyện gì đó,” Ziggy tiếp tục. Phần lớn nạn nhân của Kevin còn chưa chết, vậy mà vài người đã lo lắng cho nó. “Tôi biết cậu đang tổn thương trong lòng. Nhưng không có cách giải thoát nào khi…”
Không may cho Ziggy, bản chất giả tạo của trò Michael, đặt khẩu súng xuống! đầy mê hoặc, lạnh lùng của Ben Strong đã không bị bại lộ cho đến tận mùa xuân năm 2000. Khi cha mẹ các nạn nhân đâm đơn kiện ra tòa hơn năm mươi bên khác, bao gồm các bậc phụ huynh, các giáo viên, các lãnh đạo trường học, những thiếu niên khác, hàng xóm, những người tạo ra trò chơi “Doom” và “Quake” và đoàn làm phim Nhật ký bóng rổ. Dưới lời thề, Strong thú nhận trước thầy hiệu trưởng rằng màn kịch cẩu thả về sự kiện đó đã được truyền thông tô vẽ quá mức và cứ thế ngày càng đi quá xa. Mắc kẹt với lời nói dối, cậu ta đã đau khổ suốt thời gian đó. Hóa ra là trước khi vị anh hùng của chúng ta xuất hiện, Michael Carneal đã ngừng bắn và gục xuống rồi, sự đầu hàng đó không liên quan đến bất kỳ lời hùng biện, bất chấp cái chết nào. “Cậu ta đã xong việc,” Strong khai, “và cậu ta cứ thế buông súng”.
Vút. Ziggy lảo đảo bước lùi lại.
Em mong mình không liên kết sự sắp xếp theo trình tự thời gian này một cách thật công tâm khiến em có vẻ tàn nhẫn. Chỉ là sự thật thì vẫn luôn to lớn hơn, rõ ràng hơn và tỏa sáng hơn sự đau buồn nhỏ bé của bất kỳ ai. Em chỉ đang nhắc lại các sự kiện được xâu chuỗi bởi tờ Tuần san.
Chỉ nhại lại như vẹt, em không giả vờ có bất cứ cái nhìn sâu sắc nào vào trạng thái tâm trí của Kevin, cái mảnh đất ngoại quốc mà em không muốn đặt chân đến nhất. Những mô tả của Joshua và Soweto về biểu cảm của con trai chúng ta khi đứng từ trên cao chỉ là nhặt nhạnh từ phóng sự về những vụ việc tương tự. Những đứa trẻ Columbine chẳng hạn, thất thường, mắt mở trừng trừng, cười điên loạn. Mặt khác, Kevin được mô tả là “tập trung” và “lãnh đạm”. Nhưng nó cũng chỉ luôn trông như vậy mỗi khi tập bắn cung, nếu chỉ là trong phạm vi việc bắn cung: như thể nó trở thành một mũi tên và rồi khám phá ra trong sự hiện thân này cảm giác có mục đích mà nhân cách nhạt nhòa hàng ngày của nó thiếu một cách nghiêm trọng.
Nhưng em ngẫm lại một thực tế rằng với phần lớn chúng ta, có một thứ rào cản không thể vượt qua giữa sự đồi bại khó tưởng tượng nhất và việc thực thi trong đời sống thật. Đó cũng chính là tấm chắn thép vững chãi đã tự chèn vào giữa con dao và cổ tay em vào lúc em tuyệt vọng nhất. Vậy thì Kevin đã làm thế nào mà có thể nâng cái nỏ đó lên, hướng nó về phía xương ức của Laura Woolford, và rồi thực sự, trong không gian và thời gian, ấn nút nhả tên? Em chỉ có thể nghĩ rằng nó đã khám phá ra thứ mà em chưa từng mong đợi. Rằng chẳng có rào cản nào cả. Rằng cũng giống như những chuyến đi ra nước ngoài của em hay âm mưu lố bịch với những chiếc khóa xe và lời mời trên những giấy tờ tiêu chuẩn của nhà trường, việc ấn nút nhả cũng có thể được chia thành một loạt các phần nhỏ đơn giản. Có thể việc siết cò một khẩu súng hay bắn một cái cung tên cũng chẳng thần kỳ hơn là mấy so với việc uống một ngụm nước. Điều bí mật. Như mọi khi, bí mật là chẳng có bí mật nào cả. Nó có lẽ đã gần như muốn cười khúc khích mặc dù đó không phải phong cách của nó, lũ trẻ Columbine đã cười như thế. Và một khi ta khám phá ra rằng không có gì ngăn cản mình, cái rào cản tưởng như không thể vượt qua đó, tất cả chỉ là trong đầu mình, hoàn toàn có thể bước đi rồi bước lại cái ngạch cửa đó, phát bắn này rồi phát bắn khác, như thể một đứa nhãi vẽ một đường qua tấm thảm mà ta không được bước qua nhưng rồi ta phóng qua, và quay lại, rồi lại bước qua với một điệu nhảy chế nhạo.
Vậy đấy, đó là mảnh ghép cuối cùng khiến em giày vò nhất. Chẳng có phép ẩn dụ nào có thể giúp được chúng ta.
Nếu như nghe có vẻ bất thường khi không có ai đáp lại những lời kêu cứu, thì lý do là vì nhà thể chất là một khối biệt lập, và vài học sinh đang đi lại trong trường sau này thú nhận rằng chúng có nghe thấy tiếng hét và tiếng kêu nhưng cho rằng đó là do một sự kiện thể thao thú vị hoặc căng thẳng đang diễn ra. Chẳng có tiếng nổ súng nào. Và lý giải rõ ràng nhất về sự thiếu cảnh giác này, mặc dù kể lại thì dài, nhưng cuộc hỗn chiến không kéo dài hơn mười phút. Nếu Kevin đã bước vào một kiểu trạng thái tinh thần khác, nó sẽ duy trì liên tục hơn mười phút rất nhiều.
Soweto đã ngất đi, điều này có lẽ đã cứu mạng cậu ta. Khi Joshua vẫn án binh bất động, pháo đài bằng người của cậu ta rung lên bởi một cơn mưa tên liên tục, một vài mũi tên kết thúc hẳn mạng sống của Mouse Ferguson. Những tiếng kêu cứu hay rên rỉ vì đau đớn dọc bức tường tắt dần bởi mỗi nhát tên bắn thêm ra. Kevin cứ chậm rãi làm vơi dần hai xô đựng tên Franklin ạ, cho đến khi hàng người bị thương lê lết tua tủa như một gia đình nhím. Nhưng kinh khủng hơn trò tập bắn cung rẻ tiền này chính là khi kết thúc, những nạn nhân của nó không còn được coi là mục tiêu di chuyển nữa. Giết người bằng nỏ khó một cách bất ngờ. Kevin đã biết điều đó. Và vì thế nên nó chờ đợi. Khi cuối cùng lúc năm giờ bốn mươi, một nhân viên bảo vệ đi kiểm tra và bàng hoàng bởi chiếc ổ khóa Kryptonite, hé nhìn qua khe cửa chỉ để nhìn thấy toàn màu đỏ, Kevin đã đợi. Khi cảnh sát xuất hiện với chiếc máy cắt khổng lồ nhưng vô dụng (khiến sợi xích chỉ bị méo đi) và rồi phải chuyển sang dùng một chiếc cưa điện khạc ra lửa, tất cả những việc này đều rất mất thời gian, Kevin đứng trên lan can căn phòng trong hốc và chờ đợi. Khoảng thời gian xen giữa mũi tên cuối cùng của nó và khi cảnh sát cuối cùng cũng có thể xông vào qua cửa chính lúc sáu giờ năm mươi lăm giống như khoảng thời gian ở nhà một mình khi nó lên sáu mà em đã khuyên nó nên tìm một cuốn sách để đọc.
Laura Woolford và Dana Rocco đã chết ngay khi trúng tên vào những chỗ hiểm. Ziggy, Mouse, Denny, Greer, Jeff, Miguel, và nhân viên căn-tin chảy máu đến chết, nhỏ thành từng giọt, từng giọt.