• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Minh chứng thiên đường
  3. Trang 22

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 45
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 45
  • Sau

17N bằng 1

Vào hôm thứ Năm, các bác sĩ khẳng định rằng chủng E. coli của tôi không giống với chủng siêu-đề-kháng mà không hiểu sao đã xuất hiện ở Israel vào đúng thời điểm tôi đang ở đó. Nhưng điều này chỉ khiến cho trường hợp của tôi càng khó xác định hơn. Dù dĩ nhiên là việc tôi không mang trong mình một chủng vi khuẩn có khả năng xóa sổ một phần ba dân số của một quốc gia là một tin tốt lành, nhưng đối với khả năng bình phục của cá nhân tôi, việc này chỉ càng khẳng định thêm điều mà các bác sĩ đã nghi ngờ ngay từ đầu: rằng về cơ bản, trường hợp của tôi là chưa có tiền lệ.

Tình thế cũng nhanh chóng chuyển từ tuyệt vọng sang vô vọng. Các bác sĩ đơn giản là không có câu trả lời cho việc làm sao tôi lại rơi vào tình trạng này, hay làm thế nào để khiến tôi tỉnh lại. Họ chỉ biết chắc một điều: họ chưa từng biết một ai bị bệnh viêm màng não do vi khuẩn gây ra có thể phục hồi hoàn toàn sau khi đã hôn mê vài ngày. Và hôm đó đã là ngày thứ tư tôi hôn mê.

Tình trạng căng thẳng bắt đầu khiến mọi người kiệt quệ. Phyllis và Betsy đã quyết định từ hôm thứ Ba rằng không ai được phép nói về khả năng tử vong của tôi khi ở bên giường bệnh của tôi, vì họ nghĩ rằng một phần nào đó trong tôi vẫn có ý thức để nghe được những câu trao đổi đó. Sáng sớm hôm thứ Năm, Jean hỏi một y tá trong phòng ICU về cơ hội sống sót của tôi. Ở phía bên kia giường của tôi, Betsy nghe thấy liền nói: “Làm ơn đừng nói về chuyện đó trong phòng này”.

Jean và tôi rất thân nhau. Chúng tôi là một phần của gia đình mình, cũng như hai cô em gái do chính cha mẹ chúng tôi sinh ra, nhưng việc hai chúng tôi “được cha mẹ lựa chọn”, như cách cha mẹ vẫn nói, khiến giữa hai chúng tôi như có một sợi dây liên kết đặc biệt. Chị ấy lúc nào cũng quan tâm đến tôi, và cảm giác bức bối vì bất lực, không làm gì được cho tôi trong tình trạng hiện tại khiến chị ấy gần như muốn nổ tung.

Jean rớm nước mắt. “Chị phải về nhà một lúc”, chị ấy nói.

Sau khi nhìn lại và thấy rằng đã có dư người thức trông bên giường tôi, tất cả đều đồng ý rằng các y tá có lẽ sẽ vui hơn khi số người trong phòng tôi có thể bớt đi được một người.

Jean đi về nhà của chúng tôi, gói ghém hành lý, rồi lái xe về nhà mình ở Delaware ngay chiều hôm đó. Khi rời đi như vậy, chị ấy là người đầu tiên thể hiện ra bên ngoài cái cảm xúc mà tất cả mọi người trong gia đình đều đang bắt đầu cảm thấy: sự bất lực. Hầu như không có việc gì khiến người ta bức bối hơn là nhìn thấy một người thân yêu của mình ở trong tình trạng hôn mê. Bạn muốn giúp, nhưng không thể. Bạn mong người đó mở mắt, nhưng mắt họ vẫn nhắm nghiền. Những người trong gia đình của bệnh nhân hôn mê thường phải dùng đến cách tự tay mở mắt bệnh nhân ra. Đó là một cách để thúc ép tình huống - ra lệnh cho bệnh nhân phải tỉnh dậy. Dĩ nhiên là chẳng có kết quả, mà còn có thể gây thêm tổn thương về tâm lý. Bệnh nhân hôn mê sâu mất khả năng điều phối mắt và con ngươi. Khi mở mí mắt của một bệnh nhân trong tình trạng ấy, bạn thường sẽ thấy hai mắt họ đang hướng về hai hướng khác nhau. Đó là một cảnh tượng gây lo sợ, và trong tuần đó, cảnh tượng này đã khoét sâu thêm nỗi đau của Holley sau vài lần cô ấy mở mí mắt của tôi ra và nhìn thấy thực chất là hai nhãn cầu xiên xẹo của một xác chết.

Sau khi Jean rời đi, mọi việc bắt đầu khó khăn hơn. Giờ thì Phyllis bắt đầu biểu hiện hành vi mà tôi đã vô số lần nhìn thấy ở những người nhà bệnh nhân khi tôi còn làm việc. Cô ấy bắt đầu bực tức với các bác sĩ của tôi.

“Tại sao họ không cho chúng ta thêm thông tin gì vậy?”, cô ấy tức giận hỏi Betsy. “Em thề, nếu Eben mà ở đây, anh ấy chắc chắn sẽ nói cho chúng ta biết chuyện gì đang xảy ra.”

Sự thật là các bác sĩ của tôi đang làm mọi điều có thể cho tôi. Dĩ nhiên là Phyllis biết điều đó. Nhưng nỗi đau và sự bất lực trong tình cảnh hiện tại đơn giản là đang làm cho những người thân yêu của tôi kiệt sức.

Vào thứ Ba, Holley gọi cho tiến sĩ Jay Loeffler, người trước đây đã cùng tôi phát triển chương trình xạ phẫu định vị lập thể (phương pháp điều trị cho các bệnh lý não) tại Bệnh viện Brigham & Women ở Boston. Lúc đó, Jay đang là trưởng khoa xạ trị ung thư tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, và Holley nghĩ rằng anh ấy là người có thể cho cô vài câu trả lời.

Khi Holley mô tả tình trạng của tôi, Jay nghĩ rằng cô ấy hẳn đã nhầm lẫn một vài chi tiết nào đó về bệnh tình của tôi. Theo những gì anh ấy biết thì những gì cô ấy diễn tả hầu như không thể nào xảy ra. Nhưng sau khi Holley cuối cùng cũng đã thuyết phục được Jay rằng tôi thật sự đang hôn mê và nguyên nhân là do bệnh viêm màng não gây ra bởi một chủng E. coli hiếm gặp mà không ai có thể giải thích được nó đến từ đâu, thì Jay bắt đầu gọi điện cho các chuyên gia về bệnh nhiễm khuẩn trên khắp cả nước. Không một ai trong số họ từng nghe nói về trường hợp như của tôi. Lục tìm trong y văn đến tận năm 1991, anh ấy cũng không tìm thấy bất kỳ một ca viêm màng não do khuẩn E. coli nào ở người lớn mà bệnh nhân trước đó chưa từng trải qua phẫu thuật não.

Từ hôm thứ Ba, Jay gọi điện thoại ít nhất mỗi ngày một lần để cập nhật tình hình của tôi từ Phyllis hay Holley và nói cho họ biết những nhận định của mình từ những kết quả mà anh ấy thấy ra được. Steve Tatter, một người bạn tốt khác của tôi và là một bác sĩ giải phẫu thần kinh, cũng hằng ngày gọi điện để cho lời khuyên và an ủi. Nhưng ngày qua ngày, điều duy nhất họ nhận ra là trường hợp của tôi là trường hợp đầu tiên trong lịch sử y khoa. Viêm màng não ngẫu nhiên do vi khuẩn E. coli hiếm gặp ở người lớn. Mỗi năm chỉ có dưới một phần mười triệu người trên thế giới mắc phải. Và, giống như tất cả mọi biến thể của vi khuẩn gram âm gây ra bệnh viêm màng não, con vi khuẩn này đặc biệt hung hăng. Hung hăng đến nỗi những người nhiễm bệnh bị suy giảm thần kinh sớm ngay từ đầu, như trường hợp của tôi, có khả năng tử vong đến hơn 90%. Và đó là tỷ lệ tử vong khi tôi mới được đưa vào phòng cấp cứu. Con số 90% ảm đạm đó tăng dần đến con số 100% khi tuần đó cứ thế trôi qua trong khi cơ thể tôi không phản ứng gì với các loại thuốc kháng sinh. Những người hiếm hoi sống sót khỏi tình trạng nghiêm trọng như của tôi thường phải được chăm sóc 24/7 trong suốt phần đời còn lại. Như vậy là tình trạng của tôi đã chính thức được xác định là “N bằng 1”, một thuật ngữ dùng để chỉ những nghiên cứu y khoa mà trong đó, chỉ một bệnh nhân duy nhất đại diện cho toàn bộ nghiên cứu đó. Đơn giản là chẳng có ai khác để các bác sĩ có thể đưa vào để so sánh với trường hợp của tôi cả.

Bắt đầu từ thứ Tư, Holley đưa Bond đến thăm tôi mỗi chiều sau khi tan học. Nhưng đến thứ Sáu thì cô ấy bắt đầu tự hỏi liệu những chuyến viếng thăm này có thể có hại nhiều hơn là có lợi chăng. Những hôm đầu tuần đó, thỉnh thoảng tôi có cử động. Người tôi vung loạn xạ. Một y tá xoa đầu tôi rồi cho tôi thêm thuốc an thần, rồi cuối cùng tôi cũng yên trở lại. Chứng kiến cảnh này khiến cho cậu con trai mười tuổi của tôi bối rối và đau lòng. Việc nhìn vào một cơ thể hầu như không còn trông giống cha mình chút nào nữa đã đủ tồi tệ rồi, lại còn phải nhìn thấy cái cơ thể ấy chuyển động một cách máy móc, đến nỗi không tài nào nhận ra nổi là của cha mình, càng làm cho mọi việc thêm khó khăn đối với nó. Ngày qua ngày, tôi càng ít giống hơn với người cha mà nó biết, và càng trở thành một thân thể khó nhận ra là ai trên giường bệnh: một người anh em sinh đôi xa lạ và hung ác của người cha mà nó từng biết.

Đến cuối tuần, những cử động loạn xạ kiểu này đã ngưng hẳn. Tôi không cần thêm thuốc an thần nữa, bởi khả năng cử động - ngay cả những cử động phản xạ vô thức gây ra bởi những vòng phản xạ sơ khai của phần dưới cuống não và tủy sống của tôi - đã suy giảm xuống gần như không còn gì.

Thêm nhiều bạn bè và người thân trong gia đình gọi điện hỏi xem họ có nên đến thăm không. Đến thứ Năm, mọi người đã quyết định rằng họ không nên đến. Đã có quá nhiều sự huyên náo trong phòng ICU của tôi rồi. Các y tá yêu cầu một cách dứt khoát rằng bộ não của tôi cần được nghỉ ngơi - càng yên lặng càng tốt.

Cũng có một sự khác đi thấy rõ trong âm sắc giọng nói của những người gọi đến. Những giọng nói chuyển dần từ hy vọng sang vô vọng. Thi thoảng, khi nhìn ra xung quanh, Holley cảm thấy như cô ấy đã mất tôi rồi.

Chiều thứ Năm, Michael Sullivan nghe có tiếng gõ cửa. Đó là thư ký của ông ấy ở Nhà thờ Giám nhiệm St. John.

“Có người gọi đến từ bệnh viện”, cô ấy nói. “Một trong những y tá đang chăm sóc cho Eben muốn nói chuyện với ông. Cô ấy nói là việc gấp.”

Michael nhấc máy.

“Michael”, cô y tá nói với ông, “ông cần phải đến ngay. Eben sắp đi rồi.”

Là mục sư, Michael đã từng gặp tình huống như thế này trước đây. Các mục sư chứng kiến cái chết và những dư chấn mà nó để lại cũng nhiều gần như các bác sĩ. Tuy vậy, Michael vẫn sốc khi nghe từ “đi” mà cô y tá dùng để nói về tôi. Ông gọi điện cho vợ mình, bà Page, và dặn bà cầu nguyện: vừa cho tôi, vừa cho ông, có sức mạnh để đương đầu với tình huống này. Rồi ông lái xe trong cơn mưa giá lạnh kéo dài đến bệnh viện, cố gắng nhìn đường đi qua màn nước mắt.

Khi ông đến phòng tôi, cảnh tượng giống hệt như lần trước ông ghé thăm. Phyllis vẫn đang ngồi bên giường tôi, thức canh và cầm tay tôi - như thể cô ấy đã ngồi như thế mà không nghỉ ngơi phút nào suốt từ đêm thứ Hai, khi cô ấy đến đây. Lồng ngực của tôi nâng lên rồi hạ xuống mười hai lần một phút nhờ máy thở, và cô y tá trực ICU đang lặng lẽ làm việc của mình như thường lệ, đi qua đi lại giữa những cái máy đặt xung quanh giường tôi và ghi chép lại các thông số.

Một y tá khác bước vào, và Michael hỏi có phải cô ấy là người đã gọi điện cho thư ký của ông không.

“Không ạ”, cô ấy đáp. “Tôi đã ở đây suốt buổi sáng, và tình trạng của anh ấy không chuyển biến gì từ tối hôm qua. Tôi không biết ai đã gọi cho ông.”

Đến 11 giờ, Holley, mẹ tôi, Phyllis và Betsy đều đang ở trong phòng tôi. Michael đề nghị mọi người cùng cầu nguyện. Tất cả mọi người, kể cả hai cô y tá, nắm tay nhau đứng quanh giường tôi, và Michael một lần nữa cầu nguyện với tất cả lòng thành cho sức khỏe của tôi được hồi phục.

“Chúa ơi, xin ngài hãy mang Eben trở lại với chúng con. Con biết điều đó thuộc quyền năng của ngài.”

Vẫn không ai biết người nào đã gọi cho Michael. Nhưng dù đó là ai đi chăng nữa, thì cuộc gọi đó cũng là một việc tốt lành. Bởi những lời cầu nguyện hướng về tôi từ thế giới bên dưới này - thế giới nơi tôi đã bắt đầu cuộc hành trình của mình - cuối cùng đã bắt đầu đến được với tôi.