• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Minh chứng thiên đường
  3. Trang 24

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 23
  • 24
  • 25
  • More pages
  • 45
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 23
  • 24
  • 25
  • More pages
  • 45
  • Sau

19Chỉ còn cách đối mặt

Đến thứ Sáu, cơ thể tôi vẫn không phản ứng mặc dù đã được tiêm qua đường tĩnh mạch ba loại thuốc kháng sinh trong bốn ngày liên tiếp. Gia đình và bạn bè từ khắp nơi đến thăm, và những ai chưa đến cũng đã bắt đầu tổ chức những nhóm cầu nguyện cho tôi ở nhà thờ của họ. Chị vợ của tôi, Peggy, và bạn thân của Holley, Sylvia, đến vào chiều hôm ấy. Holley đón họ với vẻ tươi tỉnh hết mức có thể. Betsy và Phyllis tiếp tục kiên trì với quan điểm anh-ấy-sẽ-ổn - duy trì tinh thần lạc quan bằng mọi giá. Nhưng mỗi ngày trôi qua, việc tin vào điều đó càng khó hơn. Ngay cả Betsy cũng đã bắt đầu tự hỏi, liệu cái mệnh lệnh không nói điều tiêu cực ở trong phòng của mình thật ra phải chăng có nghĩa là không nói về hiện thực ở trong phòng không.

“Nếu đổi vai trò, chị có nghĩ là Eben sẽ làm như vậy cho chúng ta không?”, Phyllis hỏi Betsy vào sáng hôm đó, sau thêm một đêm dài gần như mất ngủ nữa.

“Ý em là gì?”, Betsy hỏi.

“Ý em là nếu là chúng ta, chị có nghĩ rằng anh ấy sẽ dành trọn thời gian ở đây với chúng ta, gần như cắm trại trong phòng ICU không?”

Betsy đã có một câu trả lời đơn giản và tuyệt vời nhất, dưới dạng một câu hỏi: “Em có hình dung được là mình có thể ở nơi nào khác ngoài ở đây không?”.

Cả hai đều đồng ý rằng nếu là họ thì tôi sẽ xuất hiện ngay khi cần, nhưng thật vô cùng khó để hình dung ra cảnh tôi có thể ngồi yên một chỗ hàng giờ liền. Sau này, Phyllis đã kể với tôi: “Mọi người chưa từng cảm thấy nó như một nghĩa vụ hay một việc gì đó mình buộc phải làm - tất cả đều cảm thấy mình muốn có mặt ở đó thôi”.

Điều khiến Sylvia bối rối nhiều nhất là chân và tay tôi bắt đầu co quắp, giống như những chiếc lá trên một cái cây bị thiếu nước. Điều này là bình thường đối với các bệnh nhân bị đột quỵ hay hôn mê, do các cơ chính ở tứ chi bắt đầu co lại. Nhưng việc nhìn thấy điều này không bao giờ là dễ dàng đối với gia đình và những người thân yêu của họ. Nhìn tôi, Sylvia cứ tự nhủ rằng hãy kiên định với linh cảm ban đầu của mình. Nhưng ngay cả với cô ấy, việc này cũng càng lúc càng khó hơn.

Holley đã bắt đầu tự trách mình càng lúc càng nhiều hơn (giá như cô đã đi lên lầu sớm hơn, giá như…, và giá như...) và mọi người cố gắng hết mức để giúp cô ấy tránh xa chủ đề này.

Cho đến lúc bấy giờ, mọi người đều biết rằng dù tôi có phục hồi đi chăng nữa thì từ “phục hồi” cũng không thể có được ý nghĩa tối đa của nó. Tôi sẽ cần ít nhất ba tháng cho sự phục hồi chức năng chuyên sâu, sẽ gặp vấn đề kinh niên về phát âm (nếu não tôi còn đủ khả năng để tôi có thể nói được chút gì), và tôi sẽ cần phải có một y tá chăm sóc thường trực trong suốt phần đời còn lại của mình. Đây là viễn cảnh khả quan nhất, và dù nghe có vẻ ảm đạm và đáng buồn, nó vẫn chỉ là một viễn cảnh trong mơ. Cơ may để tôi thậm chí có thể đạt được viễn cảnh đáng buồn đó cũng đang dần trở thành không.

Mọi người đã tránh để Bond không nghe đầy đủ chi tiết về tình trạng của tôi. Nhưng vào hôm thứ Sáu, sau khi tan học và đến bệnh viện, thằng bé tình cờ nghe một trong các bác sĩ của tôi đang tóm lược lại cho Holley những điều mà cô ấy đã biết.

Đã đến lúc phải đối diện sự thật, rằng hầu như chẳng còn hy vọng.

Tối hôm đó, khi đến giờ phải về nhà, Bond không chịu rời phòng tôi. Theo quy định thông thường, chỉ hai người được phép ở trong phòng cùng một lúc để các bác sĩ và y tá có thể làm việc. Vào khoảng sáu giờ, Holley nhẹ nhàng nhắc nhở Bond là đã muộn và đến giờ phải về nhà. Nhưng Bond không chịu đứng lên. Thằng bé cứ ngồi thừ ở chiếc ghế mà ngay trên bức tường phía sau là bức vẽ trận chiến giữa đội quân tế bào bạch cầu và quân xâm lược E. coli.

“Dù sao thì cha cũng đâu có biết là con đang ở đây”, Bond nói, giọng nửa cay đắng nửa khẩn nài. “Sao con lại không ở lại được chứ?”

Vậy là trong suốt thời gian còn lại của buổi tối, lần lượt từng người một vào thăm để Bond có thể vẫn ở nguyên đó.

Nhưng đến sáng hôm sau, tức thứ Bảy, Bond đổi ý. Lần đầu tiên trong cả tuần đó, khi Holley vừa ló đầu vào phòng Bond để gọi thằng bé dậy, Bond nói với cô ấy rằng nó không muốn đi đến bệnh viện.

“Sao vậy con?”, Holley hỏi.

“Vì con sợ”, thằng bé trả lời.

Lời thừa nhận đó, Bond đã nói thay cho mọi người.

Holley quay xuống bếp và ở đó trong vài phút. Rồi cô ấy thử lại một lần nữa, hỏi thằng bé rằng nó có chắc là mình không muốn đi gặp cha không.

Thằng bé im lặng một lúc lâu, nhìn chằm chằm vào cô ấy.

“Thôi được”, cuối cùng nó cũng đồng ý.

Thứ Bảy trôi qua, mọi người vẫn tiếp tục túc trực bên giường tôi. Tất cả giống như một nỗ lực nửa vời để tiếp tục nuôi hy vọng. Sức lực của mọi người đã cạn hơn so với ngày trước đó.

Vào đêm thứ Bảy, sau khi đưa mẹ tôi, Betty, về lại phòng khách sạn, Phyllis ghé qua nhà tôi. Nhà tối om, không ô cửa sổ nào có ánh sáng đèn, và thật khó để bước trúng những phiến đá lát trong khi cô ấy lội qua khoảng sân bùn lầy ướt nhẹp. Cho tới lúc đó, trời đã mưa liên tục trong năm ngày, kể từ buổi chiều tôi được đưa vào phòng ICU. Mưa không ngớt như thế này là điều rất bất thường đối với vùng cao nguyên Virginia, nơi mà vào tháng Mười Một, thời tiết thường hanh khô, trời trong và có nắng, như hôm Chủ nhật tuần trước, ngay trước ngày tôi bị hôn mê. Giờ thì ngày hôm đó dường như đã xa lắm rồi, và có cảm giác như thể bầu trời luôn mưa xối xả như thế này. Liệu cơn mưa này có ngừng không?

Phyllis mở khóa cửa và bật sáng các đèn trong nhà. Kể từ đầu tuần, mọi người cứ ghé qua đưa đồ ăn, và dù thức ăn vẫn tiếp tục được đưa tới, bầu không khí nửa hy vọng nửa lo âu khi mọi người cùng xúm lại, chung tay đương đầu với một tình trạng khẩn cấp tạm thời giờ đã trở nên u tối và tuyệt vọng hơn. Cũng như gia đình tôi, những người bạn của chúng tôi cũng bắt đầu biết rằng khoảng thời gian mà mọi người còn một chút hy vọng dành cho tôi đang gần kết thúc.

Trong một khoảnh khắc, Phyllis nghĩ tới việc đốt lò sưởi lên, nhưng theo ngay sau ý nghĩ đó là một ý nghĩ khác, khó chịu hơn. Để làm gì chứ? Đột nhiên cô ấy cảm thấy kiệt quệ và nản lòng hơn bao giờ hết. Cô ấy nằm xuống chiếc ghế dài trong phòng làm việc được lát sàn gỗ và chìm vào một giấc ngủ thật sâu.

Nửa tiếng sau, Sylvia và Peggy về đến, nhón chân thật khẽ đi ngang qua phòng làm việc và thấy Phyllis đang nằm ngủ như chết ở đó. Sylvia đi xuống tầng hầm và phát hiện ai đó đã để cửa tủ đông mở. Nước đọng thành vũng trên sàn, và thức ăn bắt đầu rã đông, trong đó có mấy miếng bít-tết có vẻ ngon.

Khi Sylvia báo với Peggy về chuyện nước rỉ ra ở tầng hầm, cả hai quyết định tận dụng cơ hội này. Họ gọi điện cho những người còn lại trong gia đình và một vài người bạn rồi bắt tay vào việc. Peggy ra ngoài, mang về thêm một vài món phụ nữa, rồi họ nhanh chóng bày ra một bữa tiệc ngẫu hứng. Chỉ một lát sau, Betsy cùng con gái Kate và chồng mình, Robbie, đến cùng tham gia với họ, và có cả Bond nữa. Mọi người chuyện trò với tâm trạng lo âu, cứ vòng vo quanh một chủ đề mà mọi người đều nghĩ tới: rằng tôi - vị khách danh dự vắng mặt - rất có thể sẽ không bao giờ quay lại căn nhà này nữa.

Holley đã trở lại bệnh viện để tiếp tục túc trực bên tôi, một việc mà không biết khi nào mới chấm dứt. Cô ấy ngồi bên giường tôi, cầm tay tôi, và liên tục lẩm nhẩm những câu niệm chú mà Susan Reintjes đã chỉ dẫn, cố tập trung vào ý nghĩa của những câu đó và đặt niềm tin vào đó bằng tất cả lòng thành.

“Hãy đón nhận những lời nguyện cầu.”

“Anh đã chữa lành cho những người khác. Bây giờ là lúc anh được chữa lành.”

“Rất nhiều người yêu thương anh.”

“Cơ thể anh biết phải làm gì. Anh chưa tới lúc phải chết.”