“Nếu bạn muốn trở thành một người đi tìm chân lý đích thực, thì ít nhất một lần trong đời, bạn cần phải hoài nghi, hoài nghi nhiều nhất có thể, về tất thảy mọi thứ.”
- René Descartes (1596-1650)
“Nếu bạn muốn trở thành một người đi tìm chân lý đích thực, thì ít nhất một lần trong đời, bạn cần phải hoài nghi, hoài nghi nhiều nhất có thể, về tất thảy mọi thứ.”
- René Descartes (1596-1650)
Phải sau khoảng hai tháng thì mọi kiến thức về giải phẫu thần kinh mới trở lại trọn vẹn trong trí tôi. Tạm thời chưa đề cập đến việc kiến thức quay trở lại là một sự thật kỳ diệu ở khía cạnh cơ bản (cho đến hiện giờ vẫn chưa có tiền lệ y học nào cho trường hợp não bị tấn công trong một thời gian dài ở một mức độ nghiêm trọng như thế bởi vi khuẩn gram âm như E. coli lại có thể hồi phục hoàn toàn mọi khả năng hoạt động như trong trường hợp của tôi), nhưng một khi mọi thứ đã trở lại, tôi lại tiếp tục vật lộn với việc những gì tôi đã học được trong bốn thập niên nghiên cứu và làm việc về bộ não con người, về vũ trụ, và những gì tạo nên thực tại mâu thuẫn với những gì tôi đã trải qua trong suốt bảy ngày bị hôn mê. Vào thời điểm rơi vào hôn mê, tôi là một bác sĩ sống trong thế giới này, và đã dành trọn sự nghiệp của mình làm việc tại một số những viện nghiên cứu uy tín nhất trên thế giới, cố gắng tìm hiểu những mối tương quan giữa bộ não con người và ý thức. Không phải là tôi không tin vào ý thức. Chỉ là tôi hiểu hơn hầu hết mọi người rằng khả năng ý thức có thể tồn tại một cách độc lập là hoàn toàn không có cơ sở - hoàn toàn không!
Vào những năm 1920, nhà vật lý Werner Heisenberg (và những nhà sáng lập ngành cơ học lượng tử khác) đã có một khám phá kỳ lạ đến nỗi thế giới đến nay vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận được nó. Khi quan sát các hiện tượng hạ nguyên tử, việc chia tách hoàn toàn người quan sát (ở đây là nhà khoa học đang thực hiện thí nghiệm này) khỏi đối tượng được quan sát là không thể được. Trong thế giới đời sống hằng ngày của mình, chúng ta dễ dàng bỏ qua sự thật này. Chúng ta nhìn thấy vũ trụ như một nơi đầy ắp những vật thể tách biệt (bàn và ghế, con người và các hành tinh), đôi khi tương tác với nhau, nhưng về cơ bản là vẫn tồn tại riêng rẽ. Tuy nhiên, trên bình diện hạ nguyên tử, vũ trụ gồm những vật thể riêng rẽ này hóa ra lại hoàn toàn là ảo tưởng. Trong thế giới của những vật thể siêu-siêu-nhỏ, mọi vật thể trong thế giới vật chất đều kết nối một cách mật thiết với mọi vật thể khác. Thật ra là không hề có những cái được gọi là “vật thể” trong thế giới này, mà chỉ có các rung động về năng lượng và các mối quan hệ.
Ý nghĩa của điều này đáng ra là rất hiển nhiên, dù không nhiều người thấy như vậy. Việc theo đuổi thực tại cốt lõi của vũ trụ mà không dùng đến ý thức là hoàn toàn không thể. Ý thức không hề là một sản phẩm phụ và thứ yếu của các quá trình vật chất (như quan điểm của tôi trước khi hôn mê); ý thức không chỉ rất thực - thật ra nó còn thực hơn toàn bộ sự tồn tại vật chất còn lại, và rất có thể là thứ cơ bản nhất trong mọi thứ. Nhưng những sự thật này vẫn chưa bao giờ thật sự được xem là điều cốt yếu trong cái nhìn của khoa học về thực tại. Nhiều nhà khoa học vẫn đang cố gắng làm như thế, nhưng cho đến lúc này vẫn chưa có một “thuyết vạn vật” thống nhất có khả năng kết hợp các quy luật của cơ học lượng tử với những quy luật của thuyết tương đối theo một cách mà có thể bao hàm cả ý thức.
Mọi vật thể trong vũ trụ vật chất được tạo thành từ các nguyên tử. Đến lượt các nguyên tử lại được tạo thành bởi các proton, electron, và neutron. Và đây là các hạt cơ bản (theo khám phá của các nhà khoa học vào những năm đầu của thế kỷ 20). Và các hạt thì được tạo thành bởi... Chà, thật tình thì các nhà vật lý cũng không thật sự biết. Nhưng có một điều chúng ta biết về các hạt, đó là mỗi hạt đều được kết nối với tất cả các hạt khác trong vũ trụ. Ở tầng sâu nhất, tất cả chúng đều liên kết với nhau.
Trước khi tôi trải nghiệm được những gì ở bên trên thế giới này, tôi đã có nhận thức khái quát về tất cả những ý niệm khoa học hiện đại này, nhưng những ý niệm đó xa vời với tôi. Trong thế giới mà tôi sống và gắn bó - thế giới của những ô-tô, nhà cửa, bàn mổ và những bệnh nhân mà việc họ hồi phục tốt hay không một phần tùy thuộc vào việc ca mổ của tôi có thành công hay không, những sự thật về vật lý hạ nguyên tử nói trên là những chuyện xa vời và tách biệt với thế giới của tôi. Chúng có thể là sự thật nhưng lại chẳng liên quan gì đến thực tại hằng ngày của tôi.
Nhưng khi đã rời khỏi cơ thể vật chất của mình, tôi đã trải nghiệm trực tiếp những sự thật này. Thật ra, tôi có thể tự tin nói rằng, khi ở Lối Vào và Cốt Lõi, tôi cũng đang “làm khoa học”, dù lúc đó tôi không biết đến thuật ngữ này. Thứ khoa học dựa trên công cụ nghiên cứu khoa học chân thật nhất và tinh tế nhất mà ta sở hữu:
Chính là ý thức.
Càng đào sâu hơn, tôi càng bị thuyết phục rằng khám phá của tôi không đơn thuần là một khám phá thú vị hay đáng chú ý. Nó là một khám phá khoa học. Tùy vào việc bạn đang nói chuyện với ai, ý thức có thể hoặc là một bí ẩn vĩ đại nhất mà khoa học đang cần chứng minh, hoặc là một thứ hoàn toàn chẳng đáng bận tâm. Điều đáng ngạc nhiên là ngày càng nhiều các nhà khoa học tin vào vế sau. Đối với nhiều, hay hầu hết, các nhà khoa học, ý thức thật sự không đáng bận tâm bởi nó chỉ là một sản phẩm phụ của các quá trình vật chất. Nhiều nhà khoa học còn đi xa hơn khi nói rằng ý thức không chỉ là một hiện tượng thứ yếu, mà hơn nữa, nó thậm chí còn không thực.
Tuy vậy, nhiều nhà nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực khoa học thần kinh về ý thức và triết lý về tâm trí lại không tán thành nhận định này. Trong một vài thập niên qua, họ đã tiến đến việc nhận ra “vấn đề khó khăn về ý thức”. Dù ý tưởng này đã được đề cập đến từ hàng thập niên trước, chính David Chalmers mới là người chính thức định nghĩa nó trong quyển sách xuất sắc được xuất bản năm 1996 của mình, có tên là The Conscious Mind (tạm dịch: Tâm trí có ý thức). Vấn đề khó khăn này đề cập đến bản thân sự tồn tại của kinh nghiệm ý thức và có thể được chắt lọc lại thành các câu hỏi sau:
Ý thức biểu hiện ra ngoài sự vận hành của bộ não người như thế nào?
Nó liên quan như thế nào đến hành vi mà nó đi kèm?
Thế giới qua nhận thức liên quan như thế nào đến thế giới thực?
Vấn đề khó khăn này khó giải quyết đến nỗi một vài nhà nghiên cứu đã nói rằng câu trả lời hoàn toàn nằm ngoài phạm vi “khoa học”. Tuy nhiên, việc hiện tượng ý thức nằm ngoài biên giới của khoa học hiện thời không có nghĩa là nó là thứ yếu; thật ra, đây chính là một manh mối để chúng ta khám phá ra vai trò sâu sắc của nó trong vũ trụ này, một vai trò vượt trên sự hiểu biết của chúng ta.
Sự thống trị của phương pháp khoa học chỉ đơn thuần dựa trên thế giới vật chất trong suốt hơn bốn trăm năm qua đã tạo ra một vấn đề lớn: chúng ta đã mất liên lạc với bí ẩn sâu sắc nằm ở trung tâm của sự tồn tại - ý thức của chúng ta. Ý thức (được nói đến bằng nhiều tên gọi khác nhau và từ những thế giới quan khác nhau) là một ý niệm đã được biết đến rộng rãi và nắm giữ bởi các tôn giáo tiền hiện đại, nhưng nó đã trở nên nhạt nhòa trong nền văn hóa phương Tây thế tục, khi mà chúng ta càng lúc càng mê đắm sức mạnh của công nghệ và khoa học hiện đại.
Cùng với tất cả những thành công của nền văn minh phương Tây, thế giới đã phải trả giá bằng phần quan trọng nhất của sự hiện hữu - phần tâm linh của con người. Mặt tối của công nghệ cao - chiến tranh hiện đại, việc giết người và tự sát, sự thoái hóa của đời sống đô thị, sự hỗn loạn của hệ sinh thái, nguy cơ thảm họa do biến đổi khí hậu, sự phân cực của các nguồn tài nguyên kinh tế - đã đủ tệ hại. Tệ hơn nữa là, việc chúng ta quá chú trọng vào phát triển khoa học và công nghệ theo cấp số nhân đã khiến cho nhiều người trong chúng ta gần như bị tước đoạt đi niềm vui và ý nghĩa cuộc sống; bị tước đoạt đi sự hiểu biết rằng cuộc sống của mỗi chúng ta là một mảnh ghép hoàn hảo trong sự tồn tại bao la và vĩnh hằng.
Chúng ta đều thấy rằng những câu hỏi liên quan đến linh hồn, kiếp sau, sự đầu thai, Thượng đế, và Thiên đường là những câu hỏi khó có thể được trả lời thông qua các phương tiện khoa học thông thường - các phương tiện vốn đã luôn hàm ý rằng những ý niệm trên có lẽ là không tồn tại. Cũng tương tự như vậy, các hiện tượng ý thức mở rộng hơn, chẳng hạn như khả năng nhìn xa, ngoại cảm, di chuyển đồ vật từ xa, thần nhãn, thần giao cách cảm, và khả năng dự cảm về tương lai, dường như ngoan cố kháng cự với việc hiểu biết thông qua những nghiên cứu khoa học “đúng chuẩn”. Trước khi trải qua thời gian hôn mê, tôi đã luôn hoài nghi tính xác thực của những ý niệm trên, chủ yếu là do tôi chưa từng có trải nghiệm về chúng ở một mức độ sâu sắc, và vì thế giới quan khoa học giản đơn của tôi không dễ dàng lý giải được chúng.
Cũng giống như nhiều người theo xu hướng hoài nghi khác trong giới khoa học, tôi thậm chí từ chối xem xét những dữ liệu về các câu hỏi liên quan đến những hiện tượng này. Tôi xét đoán các dữ liệu này và những người cung cấp chúng, bởi góc nhìn hạn hẹp của tôi không có một ý niệm dù là mờ nhạt nhất về khả năng những điều như vậy có thể xảy ra. Những ai khẳng định rằng không hề có bằng chứng về những hiện tượng cho thấy có sự tồn tại của ý thức mở rộng, bất chấp việc có vô số bằng chứng chứng minh điều ngược lại, đều là những kẻ cố tình ngu dốt. Họ tin rằng mình biết sự thật mà không cần phải nhìn vào những dữ kiện.
Với những ai còn bị kẹt trong cái bẫy của chủ nghĩa hoài nghi khoa học, tôi xin giới thiệu quyển sách Irreducible Mind: Toward a Psychology for the 21st Century (tạm dịch: Tâm trí bất khả quy giản: Hướng về tâm lý học cho thế kỷ 21), được xuất bản vào năm 2007. Bằng chứng cho thấy ý thức tồn tại bên ngoài cơ thể được trình bày một cách rành mạch trong quyển sách này, với những phân tích tuân thủ phương pháp khoa học một cách nghiêm ngặt. Irreducible Mind là một tác phẩm cột mốc của một nhóm tác giả rất có uy tín, làm việc ở Phân hiệu Nghiên cứu về Nhận thức (the Division of Perceptual Studies), có trụ sở tại trường Đại học Virginia. Các tác giả đưa ra những xem xét thấu đáo về các dữ liệu có liên quan, và kết luận không thể tránh khỏi là: những hiện tượng này là có thật, và chúng ta phải tìm cách để hiểu bản chất của chúng nếu chúng ta muốn hiểu được thực tế sự tồn tại của mình.
Chúng ta đã bị cám dỗ theo lối suy nghĩ cho rằng thế giới quan khoa học đang nhanh chóng tiến đến Thuyết Vạn Vật, và như vậy thì có lẽ sẽ không còn chỗ cho linh hồn hay đời sống tâm linh của chúng ta, hay Thiên đường, hay Thượng đế. Hành trình đi sâu vào trong cơn hôn mê của tôi, ra khỏi thế giới vật chất ở tầng thấp này và đi vào nơi trú ngụ cao cả của Đấng Tạo Hóa toàn năng, đã cho tôi thấy được rằng có một vực thẳm bao la mà ngôn từ không thể diễn tả tồn tại giữa tri thức của loài người chúng ta và cõi giới lớn lao diệu kỳ của Thượng đế.
Mỗi người trong chúng ta đều quen thuộc với ý thức hơn bất kỳ điều gì khác, thế nhưng chúng ta lại hiểu biết về những phần còn lại của vũ trụ nhiều hơn rất nhiều so với những gì chúng ta hiểu về cơ chế vận hành của ý thức. Ý thức quá gần gũi và mật thiết với chúng ta đến nỗi nó gần như mãi mãi vượt quá khả năng lĩnh hội của chúng ta. Tính chất vật lý của thế giới vật chất (hạt quark, electron, hạt photon, nguyên tử…) và đặc biệt là cấu trúc tinh vi và phức tạp của bộ não không cho chúng ta một manh mối nào, dù là mờ nhạt nhất, về cơ chế vận hành của ý thức.
Thật ra, manh mối lớn nhất để chúng ta nhận thức được thực tại của thế giới tâm linh chính là bí ẩn sâu sắc này về sự tồn tại của ý thức của chúng ta. Bí ẩn này hoàn toàn vượt khỏi khả năng khám phá của các nhà vật lý học hay các nhà khoa học thần kinh, và chính sự thất bại này của họ đã gây ra tình trạng mối quan hệ mật thiết giữa ý thức và cơ học lượng tử, tức thực tại vật chất, bị che mờ.
Để thật sự nghiên cứu vũ trụ ở một mức độ sâu sắc, chúng ta phải thừa nhận vai trò nền tảng của ý thức trong việc tạo nên bức tranh thực tại. Những thử nghiệm trong cơ học lượng tử đã gây sửng sốt cho chính những người thông thái là cha đẻ của lĩnh vực này, và nhiều người trong số đó (đơn cử một vài cái tên như Werner Heisenberg, Wolfgang Pauli, Niels Bohr, Erwin Schrödinger, Sir James Jeans) đã tìm đến với thế giới quan thần bí để tìm kiếm câu trả lời. Họ đã nhận ra rằng chúng ta không thể nào tách người làm thí nghiệm khỏi thí nghiệm và lý giải thực tế mà không thông qua ý thức. Khi ở thế giới bên ngoài cơ thể, tôi đã khám phá ra sự bao la và phức tạp vô cùng của vũ trụ, ngoài khả năng diễn đạt của mọi ngôn từ, và rằng ý thức chính là nền tảng của toàn thể vũ trụ đang hiện hữu đó. Tôi và thế giới mà tôi đang di chuyển trong đó đã hoàn toàn kết nối đến mức thường xuyên không có sự phân biệt thật sự nào giữa “tôi” và nó. Nếu phải tóm gọn lại tất cả những điều này, thì điều đầu tiên tôi sẽ nói là, vũ trụ này rộng lớn hơn nhiều so với những gì người ta nhìn thấy được tức thời ở hình tướng bên ngoài của nó. (Đây thật ra chẳng phải là một phát hiện có tính cách mạng gì, bởi khoa học thường thức cũng công nhận rằng 96% vũ trụ được tạo thành từ “vật chất và năng lượng tối”. Những thực thể tối này là gì vậy?1 Cho đến giờ vẫn chưa ai biết. Nhưng điều khiến cho trải nghiệm của tôi khác thường chính là việc tôi đã được trải nghiệm vai trò cơ bản của ý thức, hay linh hồn, một cách tức thời đến choáng ngợp. Điều tôi học được ở thế giới trên kia không phải là lý thuyết, mà là một thực tế tức thời và choáng ngợp, như đang ở Bắc cực và bị một luồng không khí giá rét táp vào mặt.) Điều thứ hai là: chúng ta - mỗi chúng ta - đều kết nối, một cách vi tế và không thể tách rời với vũ trụ rộng lớn hơn. Đó mới chính là ngôi nhà thật sự của chúng ta, và việc nghĩ rằng thế giới vật chất này là tất cả những gì quan trọng chẳng khác nào tự nhốt mình vào trong một cái tủ nhỏ hẹp rồi tưởng tượng rằng chẳng còn gì khác ở bên ngoài không gian nhỏ hẹp đó nữa. Và điều thứ ba là: sức mạnh chủ chốt của niềm tin trong việc tạo điều kiện cho “tâm trí-thắng-vật chất”. Khi còn là một sinh viên y khoa, tôi vẫn thường bị bối rối bởi sức mạnh của hiệu ứng giả dược - rằng các nghiên cứu y học phải xử lý đến khoảng 30% sai lệch trong kết quả nghiên cứu do niềm tin của bệnh nhân về lợi ích có được từ loại thuốc mà họ được cho dùng, dù loại thuốc này chỉ đơn giản là một chất trơ. Thay vì nhìn thấy được sức mạnh tiềm ẩn của niềm tin và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe của chúng ta, ngành y lại có góc nhìn “chiếc ly vơi nửa” - rằng hiệu ứng giả dược là một trở ngại đối với việc chứng minh hiệu quả của một phương thức điều trị.
1 70% vũ trụ là “năng lượng tối”. Nguồn lực đầy huyền bí này đã được các nhà thiên văn học phát hiện vào giữa những năm 1990 khi họ tìm thấy bằng chứng không thể chối cãi căn cứ vào siêu tân tinh loại Ia, rằng trong suốt năm tỷ năm qua, vũ trụ đang rơi lên - rằng tốc độ mở rộng của toàn thể không gian đang càng lúc càng tăng. 26% còn lại là “vật chất tối”, là thứ lực hấp dẫn “vượt quá mức” một cách bất thường mà hơn một vài thập niên qua đã bộc lộ ra trong sự xoay của các thiên hà và cụm thiên hà. Người ta có thể đưa ra các lý giải khác nhau, nhưng những bí ẩn của các thế giới bên trên sẽ không bao giờ dừng lại.
Bên trong cốt lõi của bí ẩn cơ học lượng tử, ta tìm thấy sự sai lầm trong ý niệm của chúng ta về vị trí trong không gian và thời gian. Phần còn lại của vũ trụ - tức phần chiếm đại đa số rộng lớn vô cùng của nó - thật ra không ở quá xa chúng ta về mặt không gian. Đúng vậy, không gian vật lý dường như có vẻ thật, nhưng nó vẫn có giới hạn. Toàn bộ chiều dài và chiều cao của vũ trụ vật chất không là gì so với thế giới tâm linh mà từ đó nó biểu hiện ra - cõi giới của ý thức hay tâm thức (một vài người có thể gọi là “nguồn sống”).
Phần vũ trụ còn lại rộng lớn vô cùng này chẳng phải “ở nơi nào đó xa xôi” như mọi người vẫn nghĩ. Thật ra là nó ở ngay đây - ngay nơi tôi đang ngồi viết ra những dòng này, và ngay nơi bạn đang ngồi và đọc chúng. Nó không xa xôi về mặt vật lý, nó chỉ đơn giản là tồn tại ở một tần số khác. Nó ở ngay đây, ngay bây giờ, nhưng chúng ta không nhận thức được nó bởi chúng ta đa phần gần với những tần số mà nó biểu hiện ra thành hình tướng. Chúng ta sống trong các chiều không gian và thời gian thân thuộc, bị bó hẹp trong những giới hạn đặc thù của các giác quan và trong phổ nhận thức ở nhiều cấp độ từ hạ nguyên tử cho đến toàn thể vũ trụ. Những chiều không gian và thời gian này, tuy có rất nhiều thứ diễn ra bên trong, nhưng cũng đóng cánh cửa dẫn chúng ta đến các chiều không gian khác đang tồn tại song hành với chúng ta.
Những người Hy Lạp cổ đại đã khám phá ra điều này từ cách đây rất lâu, và tôi cũng chỉ mới tự mình khám phá ra điều mà họ đã khám phá: điều mà chỉ người từng trải qua mới hiểu. Do cấu trúc đặc thù của vũ trụ này với nhiều chiều không gian và cấp độ, cho nên để thật sự hiểu được bất kỳ phần nào, chúng ta phải trở thành một phần của chiều không gian-thời gian đó. Hay nói một cách khá chính xác hơn, chúng ta phải mở rộng tâm thức để tự thấy mình thuộc về phần vũ trụ đó, cái phần mà bạn đã sở hữu nhưng vẫn chưa ý thức được.
Vũ trụ không có bắt đầu và không có kết thúc, và Thượng đế hiện hữu trọn vẹn bên trong mỗi phân tử của nó. Đa số - thật ra là hầu hết - những điều người ta nói về Thượng đế và các thế giới tâm linh bên trên đều có chiều hướng mang những thế giới đó xuống ngang tầng của chúng ta, thay vì nâng nhận thức của chúng ta lên tầng cao của những thế giới đó. Với những miêu tả đầy thiếu sót của mình, chúng ta làm hoen ố bản chất thật sự kỳ diệu của chúng.
Nhưng dù cho nó không bắt đầu và sẽ không bao giờ kết thúc, vũ trụ vẫn có những dấu nghỉ, với mục đích đưa các thực thể vào thế giới hiện hữu và cho phép các hữu thể này hòa nhập vào vùng hào quang của Thượng đế. Vụ nổ Big Bang tạo ra vũ trụ của chúng ta là một trong những “dấu nghỉ” mang tính tạo lập này. Om nhìn mọi thứ từ bên ngoài, tầm nhìn bao trùm tất cả mọi Tạo Vật của Om và thậm chí vượt trên cả những tầm nhìn cao hơn mà tôi đã nhìn thấy. Ở đó, nhìn thấy cũng chính là biết. Với tôi lúc ấy, không có sự phân biệt nào giữa việc trải nghiệm và hiểu một điều gì đó.
Câu nói trong Kinh Thánh - “Con đã mù, nhưng nay con đã thấy” - với tôi giờ đây mang một ý nghĩa mới, khi tôi hiểu được như thế nào là sự “mù lòa” của con người trên trái đất chúng ta khi không nhìn thấy được bản chất toàn vẹn của vũ trụ tâm linh. Trong số những người “mù lòa” đó có những người như tôi trước kia, những người tin rằng vật chất chính là thực tại cốt lõi, còn những thứ khác - như suy nghĩ, ý thức, ý tưởng, cảm xúc, linh hồn - chỉ đơn giản là sản phẩm của nó.
Phát hiện này truyền cho tôi niềm cảm hứng lớn lao, bởi nó cho phép tôi nhìn thấy những đỉnh cao không ngờ của sự hòa hợp và sự hiểu biết mà tất cả chúng ta có thể đạt đến, khi mỗi người trong chúng ta từ bỏ những giới hạn của thân thể và bộ não vật chất.
Khiếu hài hước. Óc châm biếm. Tính xúc cảm. Tôi từng luôn nghĩ đó là những phẩm chất mà loài người chúng ta phát triển để đương đầu với thế giới nhiều bất công và đầy rẫy khổ đau này. Và đúng như vậy. Nhưng ngoài vai trò là những niềm an ủi, các phẩm chất này còn là những nhận thức - chóng vánh, thoáng qua, nhưng vô cùng quan trọng - về một sự thật rằng bất kể những thử thách và khổ đau mà chúng ta đã đối mặt và vượt qua được là gì đi chăng nữa, thì chúng ta cũng không thể nào thật sự chạm đến được sự hiện hữu rộng lớn hơn và vĩnh hằng mà vốn là sự hiện hữu đích thực của chúng ta. Tiếng cười và sự châm biếm về bản chất chính là những lời nhắc nhở rằng chúng ta không phải là những tù nhân trong thế giới này, mà chính là những nhà du hành đi qua thế giới.
Một mặt khác của tin tốt lành này là bạn không cần phải đợi đến khi sắp chết mới có thể hé nhìn ra từ sau bức màn, nhưng bạn phải làm phần việc của mình. Học hỏi về cõi giới đó từ sách vở và các bài thuyết giảng cũng là một sự khởi đầu - nhưng rốt cuộc thì mỗi người trong chúng ta đều phải tự đi sâu vào bên trong ý thức của bản thân mình, thông qua việc cầu nguyện hay hành thiền, để tiếp cận được những chân lý này.
Thiền có nhiều hình thức khác nhau. Hình thức thiền mà tôi thấy là hữu ích nhất đối với mình từ khi tôi bị hôn mê là hình thức được phát triển bởi Robert A. Monroe, giám đốc sáng lập của Viện Monroe ở Faber, Virginia. Sự độc lập khỏi mọi triết lý giáo điều mang lại cho hình thức thiền này một ưu thế rõ rệt. Giáo điều duy nhất đồng hành với hệ thống các bài tập thiền của Monroe là: Tôi không chỉ là cơ thể vật chất của mình. Sự thừa nhận đơn giản này có những hàm ý sâu sắc.
Robert Monroe là một nhà sản xuất chương trình radio thành công vào những năm 1950 ở New York. Trong quá trình tìm hiểu công dụng của các bản thu âm như một kỹ thuật hỗ trợ việc học trong khi ngủ, ông bắt đầu có những trải nghiệm bên ngoài cơ thể. Các nghiên cứu đi vào chi tiết trong hơn bốn thập niên của ông đã hình thành nên một hệ thống mạnh mẽ giúp phát huy khả năng khám phá ý thức ở chiều sâu dựa vào kỹ thuật âm thanh mà ông phát triển có tên gọi là “Hemi-Sync”.
Hemi-Sync có thể nâng cao ý thức chọn lọc và hiệu suất thông qua việc tạo ra một trạng thái thư giãn. Tuy nhiên, Hemi-Sync còn có nhiều tác dụng hơn thế nữa - các trạng thái ý thức bậc cao cho phép tiếp cận luân phiên các chế độ ý thức khác nhau, trong đó có những trạng thái thiền sâu và thần bí. Hemi-Sync bao hàm khía cạnh vật lý của việc đồng bộ hóa cộng hưởng các sóng não, mối quan hệ của sóng não với tâm lý học hành vi và tâm lý học nhận thức của ý thức, cũng như với hệ sinh lý cơ bản của tâm trí-não và ý thức.
Hemi-Sync sử dụng các mẫu sóng âm stereo đặc biệt (với các tần số hơi khác nhau ở mỗi bên tai) để tạo nên hoạt động sóng não được đồng bộ hóa. Các “nhịp song âm” này được tạo ra ở một tần số nằm trong khoảng chênh lệch toán học giữa hai tần số sóng. Bằng cách sử dụng một hệ thống tính thời gian cổ xưa nhưng có độ chính xác cao tại phần cuống não vốn thường có khả năng định vị các nguồn âm thanh trên mặt phẳng ngang xung quanh đầu, những nhịp song âm này có thể đồng bộ hóa hệ thống RAS ở gần kề (là hệ thống kích hoạt lưới lọc não bộ, cung cấp các tín hiệu thời gian ổn định cho phần đồi thị và vỏ não để tạo ra ý thức). Các tín hiệu này tạo ra sự đồng bộ cho sóng não trong quãng từ 1 đến 25 hertz (Hz, hay là số vòng trên giây), bao gồm vùng chủ chốt dưới ngưỡng nghe thông thường của con người (20 Hz). Quãng nghe thấp nhất này gắn liền với các sóng não delta (< 4 Hz, thường được tìm thấy trong giấc ngủ sâu không mộng mị), sóng theta (4 đến 7 Hz, thường thấy ở trạng thái thiền và thư giãn sâu, và ở trong giấc ngủ không REM), và các quãng nghe sóng alpha (7 đến 13 Hz, đặc trưng của giấc ngủ REM hay ngủ mơ, trạng thái ngủ gà gật, và trạng thái khi mới tỉnh dậy).
Trong hành trình hiểu biết của tôi sau hôn mê, Hemi-Sync có tiềm năng cung cấp cho tôi một phương tiện để ngừng kích hoạt chức năng lọc của bộ não vật lý bằng cách đồng bộ hóa một cách toàn bộ hoạt động điện tại phần vỏ não của tôi, y như cách mà bệnh viêm màng não đã làm, để giải phóng ý thức bên ngoài cơ thể của tôi. Tôi tin rằng Hemi- Sync đã giúp tôi quay trở lại cõi giới tương tự nơi mà tôi đã ghé thăm khi ở trong trạng thái hôn mê sâu mà không cần phải trải qua một trận ốm thập tử nhất sinh. Nhưng cũng như những giấc mơ thấy mình có thể bay khi còn nhỏ, thử nghiệm này cũng là một quá trình cho phép hành trình khám phá tự diễn ra - vì nếu tôi cố sức, hay nghĩ ngợi quá nhiều về nó, hay cố gắng bảo bọc cho tiến trình này quá mức, nó sẽ chẳng mang lại kết quả.
Tôi cảm thấy dùng từ toàn trí là không phù hợp, bởi sự siêu vượt và sức sáng tạo mà tôi đã được chứng kiến là không thể gọi tên. Tôi nhận ra rằng các giới luật của một vài tôn giáo ngăn cấm việc gọi tên Đấng Tối Cao hay mô tả các bậc thánh trí thật ra đều giúp chúng ta có được sự nhận thức đúng đắn thông qua trực giác về họ, bởi thực tại của Đấng Tối Cao thật sự hoàn toàn vượt trên mọi nỗ lực của con người chúng ta khi cố gắng miêu tả Đấng Tối Cao bằng ngôn từ hay hình ảnh trong khi chúng ta vẫn đang ở đây, trên trái đất này.
Cũng như việc mà nhận thức của tôi vừa mang tính cá nhân lại vừa hoàn toàn hợp nhất với vũ trụ, thì biên giới của cái mà tôi cảm nhận là “bản ngã” của mình có lúc thu nhỏ, có lúc lại trải rộng ra để bao trùm tất cả mọi thứ đang hiện hữu cho đến vĩnh hằng. Biên giới mờ nhạt giữa nhận thức của tôi và cõi giới xung quanh tôi có lúc mở rộng ra, xa đến nỗi tôi trở thành toàn thể vũ trụ. Một cách khác nữa để diễn tả điều này là trong một khoảnh khắc, tôi thấy mình chính là vũ trụ, và điều này từ trước đến giờ vốn đã luôn như thế mà trước kia tôi đã không nhìn thấy được.
Một phép so sánh tôi vẫn thường dùng để miêu tả ý thức của mình ở tầng sâu nhất ấy là nó tương tự như một quả trứng gà. Khi tôi ở trong Cốt Lõi, thậm chí tôi là một với Quả Cầu Ánh Sáng và toàn thể vũ trụ ở chiều cao hơn và vĩnh hằng, và hòa mình vào với Chúa một cách mật thiết, tôi có một cảm nhận mạnh mẽ rằng phương diện nguyên thủy sáng tạo ra vạn vật (nguyên động lực) của Chúa chính là cái vỏ bao quanh phần bên trong của quả trứng, gắn kết mật thiết và xuyên suốt (vì ý thức của chúng ta là một phần mở rộng trực tiếp của Đấng Thiêng Liêng), nhưng mãi mãi vượt lên trên khả năng đồng nhất hoàn toàn với ý thức của vật mà Chúa sáng tạo ra. Thậm chí khi ý thức của tôi đã trở nên đồng nhất với cái toàn thể và bất diệt, tôi vẫn cảm thấy rằng tôi không thể hoàn toàn là một với động lực nguồn sáng tạo ra mọi thứ. Ngay ở nơi cốt lõi của sự hiện hữu hòa hợp mà ta gọi là nhất thể vĩnh hằng, tính nhị nguyên vẫn tồn tại. Có thể tính nhị nguyên được biểu hiện ra để có thể nhìn thấy được như thế, đơn giản là do sự cố gắng đưa nhận thức ấy về lại với thế giới này.
Tôi chưa bao giờ trực tiếp nghe được giọng của Om, hay nhìn thấy gương mặt của Om. Như thể Om đã nói với tôi bằng ý nghĩ, những ý nghĩ như những “bức tường sóng” ào tới xuyên qua tôi, lay chuyển mọi thứ xung quanh tôi và cho tôi thấy rằng ở sâu bên dưới có một cấu trúc của sự tồn tại - một cấu trúc mà tất cả chúng ta vốn vẫn luôn là một phần của nó, nhưng nhìn chung chúng ta đều không nhận biết được điều này.
Vậy có phải là tôi đang giao tiếp trực tiếp với Chúa không? Hoàn toàn đúng như vậy. Diễn tả theo cách này nghe có vẻ to tát. Nhưng khi việc đó đang diễn ra thì tôi không cảm thấy như vậy. Thay vào đó, tôi cảm thấy mình đang làm điều mà mọi linh hồn đều có khả năng làm khi họ rời bỏ thân xác của mình, và là điều mà tất cả chúng ta đều có thể làm ngay bây giờ thông qua nhiều phương pháp như cầu nguyện và thiền định sâu. Giao tiếp với Đấng Tối Cao là trải nghiệm phi thường nhất mà ta có thể tưởng tượng được, nhưng đó lại cũng là điều tự nhiên nhất, bởi Chúa hiện diện trong chúng ta mọi lúc, mọi nơi. Toàn trí, toàn năng, hiện hữu cho mỗi chúng ta - và yêu thương chúng ta vô điều kiện. Chúng ta đều kết nối với nhau trong Nhất Thể thông qua sợi dây liên lạc thiêng liêng với Chúa.