• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mình về nhà thôi
  3. Trang 10

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 21
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 21
  • Sau

6Sự thật

K

hi thức giấc, tôi thấy mẹ, Sophie, và mình đang nằm rúc vào nhau. Mẹ nằm ngửa giữa hai chị em, hai cánh tay đặt bên dưới đầu chúng tôi. Mẹ vuốt tóc tôi nhè nhẹ.

Tôi nghĩ nằm thế này chỉ để giữ ấm cho nhau thôi.

Tôi ngóc đầu dậy và nhìn Sophie. Con bé đã thức, nhưng không hề phát ra tiếng động nào, chỉ khua khoáy múa may đôi tay trên không trung. Trông con bé cực kì thoải mái. Điều này nghĩa là: Sophie tin rằng sẽ được gặp lại Chu. Đêm hôm trước tôi đã nói vậy với em, và chắc hẳn em tin tôi.

Chúng tôi lại được ở trong quả bong bóng yên bình một lần nữa.

Con bé có một vết xước trên má, và tóc em bết chặt bùn khô. Nhưng tôi rất vui khi được nhìn ngắm em. Tôi đã quá vui khi tìm thấy con bé nên chẳng để tâm tới những vấn đề khác nữa. Ví dụ như nền đất rất cứng, và chúng tôi chẳng có gì để lót cho êm. Và chuyện tìm cách tắm gội cho sạch sẽ cũng chẳng còn quan trọng nữa. Hoặc chuyện sau tất cả mớ hỗn độn này, chúng tôi đã ngủ thiếp đi mà chưa hề ăn tối.

Cả ba chúng tôi lại được ở bên nhau. Đó là điều duy nhất tôi cảm thấy quan trọng lúc này.

“Con dậy rồi à?” Mẹ hỏi.

Tôi chẳng nói năng gì. Bởi ngay khi nghe thấy tiếng mẹ, não tôi lại gợi nhắc tới điều gì đó. Tuy chưa rõ chuyện đó là gì, nhưng tôi chắc chắn đó chẳng phải điều vui vẻ hay hạnh phúc gì đâu. Tôi thấy bứt rứt khó chịu, giống như cái cảm giác bị mác quần áo cứa vào sau gáy, hay có sợi chỉ trong tất vướng vào ngón chân ấy.

“Con sao rồi?” Mẹ nói, như thể tôi có nhiệm vụ phải trả lời câu đó của mẹ vậy.

Thế rồi tôi sực nhớ ra.

Tôi cố dằn lại trong lòng một chút để cảm nhận sức nặng của chuyện đó. Giống như bạn có một vết bầm, và bạn cố tình bấm vào để xem vết thương đó đau đớn đến mức nào ấy. Tôi có đầy đủ kinh nghiệm với mấy vết bầm rồi.

Mọi thứ cứ tự vỡ òa ra. Có cố kiềm chế cũng không được. Mà, tôi cũng chẳng thèm cố kiềm chế bản thân nữa.

“Cảnh sát có bắt được kẻ sát hại ba không ạ?”

Mẹ nhỏm dậy nhanh đến mức khiến tôi lăn đùng ngã ngửa. Đầu tôi đập lên sàn đất cứng, và sàn lều thì chẳng giống nệm chút nào.

Sophie kêu lên một tiếng vì giật mình. “Con hỏi cái quái gì vậy?”

“Con chỉ hỏi thôi mà. Mẹ đừng có hoảng thế.”

“Sao mẹ lại không hoảng được cơ chứ? Mẹ vừa mở mắt dậy thì con đã hỏi về chuyện của ba con. Thế mẹ nên cảm thấy thế nào đây? Tại sao con lại nghĩ đến chuyện đó chứ?”

Tôi ngồi dậy, lấy tay xoa xoa đầu rồi tự ôm lấy mình để giữ ấm. Nhưng tôi chẳng thấy ấm lên tẹo nào cả.

“Con nghĩ về chuyện đó suốt. Con nghĩ về ba hằng ngày mà.”

“Hằng ngày á? Mẹ không biết con lại nghĩ về chuyện đó hằng ngày đấy. Chuyện xảy ra từ tám năm trước rồi mà.”

“Nhưng đó là chuyện khá nghiêm trọng mà mẹ.”

”Tất nhiên là mẹ biết điều đó. Sao con dám nói với mẹ như thể mẹ cần được con dạy dỗ vậy nhỉ?” Thi thoảng, khi tôi chạm tới đúng nỗi đau của mẹ, mẹ lại nói giọng “người mẹ” như vậy. “Ba con là chồng mẹ, và mẹ yêu ông ấy. Đối với mẹ thì đó cũng là việc hệ trọng mà nhóc. Nhiều hơn con nghĩ đấy.”

“Nhưng mẹ không nghĩ về chuyện đó hằng ngày sao?” “Mẹ ghét kiểu chất vấn này. Rất ghét. Mẹ không hiểu sao con cứ muốn nói về chuyện này.”

“Mẹ vẫn trốn tránh câu hỏi của con. Cảnh sát có bắt được tên sát nhân không ạ?”

“Có thể là bọn sát nhân. Có thể là hai, hoặc ba tên gì đó.” “Mẹ vẫn trốn tránh.”

“Không! Không, được chưa nào? Không. Cảnh sát chẳng bắt được ai cả. Giờ chúng ta có thể nói về chuyện khác được chưa?”

“Được thôi,” tôi đáp.

Và tôi hoàn toàn thật lòng, bởi nếu ai đó định nói dối ngay trước mắt bạn, thì nói chuyện với họ cũng chẳng ích gì nữa. Bạn sẽ chẳng thu được kết quả gì hết.

Có vẻ tám năm vừa rồi của cuộc đời, tôi đã cố gắng mà chẳng có ích gì. Tôi không hề nhận ra điều đó, cho tới tận lúc này.

“Cả ba chúng ta sẽ đi tắm rửa thật sạch sẽ, sau đó mẹ sẽ đem cái xe kéo này đi trả. Thật tệ khi chúng ta không thể đem trả nó hôm qua được. Mẹ thấy bực ghê. Thêm một ngày thuê xe là tiền ăn của chúng ta lại bị ngót đi một phần.”

Tôi chẳng đáp. Vì tôi quyết định nghỉ nói chuyện với mẹ rồi.

Nhưng tôi có cảm giác mẹ còn chẳng để ý tới việc đó. Tôi định hỏi chúng tôi sẽ đi đâu tìm chỗ tắm. Chắc chắn tôi sẽ hỏi vậy, nếu như tôi vẫn nói chuyện với mẹ. Khi ấy tôi vẫn chưa biết rằng khu cắm trại có nhà tắm công cộng cho những người đến cắm trại.

Nhưng một lát sau tôi cũng biết điều đó, bởi tôi đi theo mẹ và Sophie, và chúng tôi dừng lại trước cửa nhà tắm.

Chúng tôi phải trả hai lăm xu cho mỗi lượt tắm.

Mẹ dùng hai đồng hai lăm xu còn lại để mẹ và Sophie vào tắm trước. Sau đó mẹ đưa tôi tờ một đô-la. Nếu muốn tắm, tôi sẽ phải chạy tới chỗ ông bà chủ trại để đổi tiền.

Lúc đó mới sớm tinh mơ, và tôi sợ mình sẽ khiến họ tỉnh giấc. Nhưng tôi thoáng thấy vợ ông chủ trại đi ngang qua chỗ cửa sổ xe kéo.

Tôi lách người xuống dưới mái hiên bạt rồi gõ cửa. Cánh cửa khẽ kêu cọt kẹt khi bật mở, và bà nhìn ra ngoài. Ở đuôi mắt và khóe miệng bà hiện rõ vài nếp nhăn, nhưng tôi chắc chắn ngày trước bà từng là một phụ nữ đẹp.

À… thực ra, bây giờ bà vẫn khá đẹp. Trông bà đẹp lão, thay vì nét đẹp trẻ trung khi xưa. Tôi thấy vết sẹo ngay trên cằm bà. Nó nhỏ xíu, nhưng tôi khó lòng rời mắt ra được.

“Cháu chào bà” tôi nói. “Chắc bà là Bà-chủ-trại phải không ạ?”

Bà bật cười. “Ta là Geralynne,” bà đáp.

“Cháu đang tự hỏi liệu bà có thể đổi tiền lẻ để cháu dùng nhà tắm không ạ?”

“Tất nhiên rồi.”

Bà lấy tờ một đô của tôi rồi đi mất. Khi bà quay lại với mấy đồng xu, tôi biết mình còn muốn nói thêm điều gì đó. Tôi nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay mình khi bà thả mấy đồng xu vào. Bà không hề chạm vào tôi.

“Cháu cũng muốn hỏi liệu chồng bà có ở gần đây không ạ?”

Bà nhìn tôi đầy tò mò.

“Không, ông ấy ra ngoài kiểm tra mấy cái thẻ rồi.”

Tôi chẳng biết thẻ là sao, nhưng tôi không hỏi. Chuyện đó không quan trọng.

“Vậy ạ. Cháu muốn cảm ơn ông ấy về chuyện tối qua.” “Cháu là cô bé có em gái đi lạc đó hả?”

“Vâng, thưa bà.”

“Chúng ta cũng có làm gì đâu. Chúng ta chỉ để mắt tới khu trại xem con bé có quay về không thôi.”

“Vâng, cháu rất cảm ơn ông bà vì điều đó ạ.”

“Chúng ta rất mừng vì con bé an toàn.”

Tôi bắt đầu nhận ra mối liên hệ của cuộc nói chuyện này với mấy đồng xu. Thực ra tôi không đến đây để cảm ơn hai người họ.

“Cháu cũng muốn xin lỗi ông ấy vì một chuyện nữa.” “Vậy sao?”

“Vâng ạ. Ông ấy đã kể cho cháu nghe về con trai hai người, và cháu...”

Ánh mắt bà khiến người tôi đông cứng. Bà sững người, ngay trước mặt tôi.

Sau đó bà nhìn ra phía sau lưng tôi và nói, “Ông ấy đang quay về đây đấy, cháu có thể tự nói điều đó với ông ấy kìa”.

Bà biến mất vào phía trong chiếc xe kéo, để lại cánh cửa vẫn hé mở hững hờ.

“Chào cháu” người đàn ông tôi không biết tên mở lời. “Cháu chào ông. Cháu tới đây để đổi tiền xu dùng cho nhà tắm. Nhưng vợ ông đã đổi giúp cháu rồi. Cháu cũng muốn cảm ơn ông vì chuyện hôm qua nữa. Và cháu còn muốn xin lỗi về một chuyện, nhưng có lẽ cháu vừa làm vợ ông buồn, nên chắc phải xin lỗi ông bà hai lần mới đủ.”

Tôi chờ đợi xem ông có định hỏi gì không. Nhưng ông chỉ tỏ vẻ bối rối, nên tôi nói tiếp.

“Khi ông nói với cháu về con trai ông, cháu nghĩ là thái độ của cháu hơi khiếm nhã. Cháu không cố ý như vậy đâu ạ.

Nhưng đáng lẽ không nên nói là ‘Mẹ con cháu sẽ không làm vậy’. Vì cháu còn chẳng biết mẹ và cháu đang làm gì nữa. Cháu chỉ biết điều mình muốn thôi. Nếu em cháu bắt đầu tự làm bản thân bị thương, hoặc mẹ con cháu không thể kiểm soát nổi em khi con bé lớn hơn, có thể con bé sẽ làm mẹ và cháu bị thương quá nhiều… hoặc chạy trốn thường xuyên… có lẽ gia đình cháu sẽ chẳng còn lựa chọn nào khác. Đáng lẽ cháu không nên nói như thể ông đã làm sai. Có lẽ ông thực sự không còn lựa chọn nào. Chỉ là cháu hy vọng mẹ con cháu sẽ không phải gửi em đi thôi. Đáng ra cháu nên nói với ông như vậy.”

Tôi thấy ông hít một hơi thật dài và sâu. Tôi nghĩ, Ông ấy giống mẹ mình thật, cũng không thích đối mặt với mấy chuyện nặng nề vào lúc sáng sớm thế này. Rồi tôi cảm thấy đó là lỗi của mình, rằng tôi đã sống lỗi cả đời này vì lúc nào cũng ném vào mặt người khác những thứ nên được ngủ yên. Thế đấy. Trong khi chính tôi lại là người không thích chia sẻ. Chí ít là trước đây tôi đã như vậy.

“Cháu đừng nghĩ như thể chuyện đó là điều tồi tệ nhất trên đời này,” ông nói.“Có nhiều trung tâm tốt mà. Cũng giống như nhà sinh hoạt cộng đồng ấy. Họ có thể dạy em gái cháu tự làm rất nhiều việc trong khả năng của con bé.”

“Em cháu mới sáu tuổi thôi ạ” tôi đáp. “Con bé còn chưa đủ tuổi đến trường.”

“Nhưng sau này…”

“À. Sau này. Vâng. Thực ra… Cháu còn chưa từng nghĩ về chuyện đó nữa. Có thể khi em đủ mười tám tuổi hay đại loại thế, khi đó cháu đã lớn, có công ăn việc làm và ra ở riêng, con bé cũng sẽ lớn lên và vào những ngôi nhà chung đó. Như vậy thì được. Vấn đề là, nếu mẹ và cháu gửi em đi ngay bây giờ, thì người ta sẽ nói như thể mẹ và cháu không nuôi con bé, như thể chúng cháu đã bỏ cuộc ấy ạ. Dù sao thì ông cũng không cần biết mấy chuyện đó đâu ạ. Cháu chỉ muốn nói xin lỗi ông thôi.”

“Cháu đừng lo về chuyện đó.”

Ông bước vào trong xe kéo, và ngay khi tôi bước chân qua cổng ngoài hàng rào, tôi nghe tiếng bà Geralynne vọng tới, “Sao ông lại nói với con bé chuyện Gary vậy?”.

Rồi tôi lại thấy thật tệ, bởi lúc nào cũng làm người khác buồn bực. Tôi luôn nhớ tới những chuyện người khác muốn quên. Tôi nghĩ dây thần kinh quên lãng của mình bị hỏng mất rồi.

Khi tôi quay lại chỗ nhà tắm, tôi cũng nghĩ về lời mình nói, “Mẹ và cháu nuôi con bé”. Kiểu như tôi có trách nhiệm với Sophie tương đương như mẹ tôi vậy. Rồi tôi nhớ Nellie đã nói điều ngược lại. Rằng mẹ tôi sinh ra Sophie, chứ không phải tôi. Rằng thực sự Sophie không phải vấn đề của tôi. Nhưng tôi không muốn nghĩ về Nellie, nên giấu suy nghĩ đó đi. Dù cũng giống như chuyện về ba, tôi cố gắng mà chẳng tài nào quên đi được.

Mẹ đứng bên chiếc xe, hai tay chống nạnh và nhìn tôi trừng trừng. Mẹ vẫn giận tôi vì câu hỏi về ba tôi, nhưng lại không thừa nhận điều đó.

“Con đi cùng mẹ à? Mẹ tưởng hôm qua con bảo đi bảo lại là không muốn đi cơ đấy?”

“Con không đi đâu. Mẹ chở con đến chỗ nhà ông Paul đi.”

“Mẹ và em sẽ đi hàng giờ đấy.”

“Vậy thì sao ạ?” Con sẽ ngồi nói chuyện với ông. Hoặc giúp ông dỡ đồ. Và nếu ông ấy không muốn nói chuyện, thì con sẽ đưa Rigby đi dạo, sau đó ngồi chờ mẹ ở dưới chân cầu thang.”

Mẹ bước nhanh tới chỗ tôi, ghé sát mặt lại, khiến tôi giật nảy mình.

“Thế Sophie thì sao?” Mẹ hỏi khẽ để Sophie - đang dính chặt vào ghế ô tô - không nghe thấy được. “Mục đích của việc dắt chó là để con bé đi cùng con cơ mà.”

Tôi không ngờ mình lại quên khuấy mất chuyện đó. Tôi cứ mải nghĩ rằng mình đến nhà ông Paul chỉ để chơi thôi.

Buổi sáng hôm đó, tôi và mẹ đều có rất nhiều điều không dám thừa nhận với nhau. Rất nhiều ấy.

“Con sẽ đưa Rigby tới chỗ xe ô tô nhà mình khi mẹ tới đón con. Khi đó Sophie có thể gặp nó. Rồi hôm sau con bé sẽ đi cùng bọn con. Nếu không thì con phải làm gì đây? Con cứ ngồi trong lều chờ đợi hàng giờ à? Thế thì con thà đến nhà ông Paul còn hơn.”

Mẹ lùi lại, nhìn tôi khó hiểu, rồi bước vào xe và nổ máy trước khi tôi kịp chui vào chỗ của mình.

Thật may là khu cắm trại này cho phép mọi người lái xe qua. Mẹ không giỏi lùi xe kéo cho lắm.

Suốt nửa quãng đường lái xe vào thị trấn, không ai trong chúng tôi hé răng nói lời nào.

Rồi mẹ hỏi, “Con chắc chắn rằng ông già này không phải biến thái đấy chứ?”.

“Vâng.”

“Và… nếu ông ta ghét tất cả mọi người đến vậy… làm thế nào hai người trở thành bạn của nhau vậy?”

Tôi thấy cứ tiếp tục thì sẽ giống như mình đang nói chuyện với mẹ, và tôi thì không muốn thế. Ý tôi là tôi không muốn nói chuyện với mẹ ấy, nên chỉ nhún vai một cái.

Ngoài ra thì tôi thực sự không biết trả lời câu hỏi đó ra sao. Tôi cũng thắc mắc về điều đó lắm. Nhưng tôi đâu có đủ kinh nghiệm để mà nhận xét.

“Cháu ở lại đây có vấn đề gì không ạ?”

Tôi đang chúi đầu vào một chiếc thùng các-tông khổng lồ trong bếp của ông Paul, lấy bát đĩa ra đưa cho ông, còn ông sắp xếp chạn ăn theo ý muốn của mình.

“Có sao đâu. Sao cháu hỏi thế?”

“Cháu không biết nữa. Cháu chỉ không muốn cứ tự tiện vào nhà người khác. Cháu chỉ hứa đến dắt chó cho ông, sau đó về nhà để không làm phiền ông thôi mà.”

“Chẳng sao cả. Những người tình nguyện giúp dỡ đồ luôn được chào đón ở bất cứ đâu.”

Chúng tôi lại tiếp tục im lặng xếp bát đĩa thêm một lúc. Tôi cứ nhìn Rigby mãi. Nó đang duỗi người trên sàn bếp. Độ dài người nó tính từ bàn chân trước đến bàn chân sau cũng gần bằng chiều rộng của gian bếp luôn.

“Cháu quý Rigby lắm” tôi nói.

Tôi không định nói ra điều đó. Chẳng qua là đang xúc động quá nên nói vậy. Tôi còn yêu nó nhiều hơn những gì tôi thừa nhận nữa kia. Thật lạ khi có thể yêu quý chó của người khác nhiều đến thế. Chuyện này cũng khó khăn lắm đây.

“Ta cũng vậy”ông đáp. “Nó là một cô chó ngoan.”

Nếu ông nghĩ tôi kì quặc thì có lẽ ông chẳng nói vậy đâu. Vậy nên tôi quyết định nói rõ hơn chút nữa.

“Hôm qua khi ông nói với cháu rằng Rigby đã già rồi, cháu chưa nghĩ nhiều về chuyện đó lắm, vì khi ấy cháu chẳng còn đầu óc mà nghĩ nữa. Sophie đang đi lạc mà, và cháu phải đi tìm con bé. Cháu còn không chắc liệu mình có thể thấy con bé sống sót trở về nữa không. Nhưng khi tìm được em rồi, thì đêm qua lúc cháu cố ngủ, cháu bắt đầu nghĩ về chuyện Rigby già đi. Và cháu thấy buồn. Cháu thực sự buồn vì điều đó. Nhưng thực ra thì hiện giờ chuyện gì cũng đều đáng buồn với cháu. Cháu phải nghĩ nhiều quá, nên cháu chẳng thể biết được mình đang buồn vì chuyện nào nữa.”

Tôi ngước lên và thấy ông đang nhìn chằm chằm vào mắt mình. Điều đó làm tôi lo lắng. Mặc dù trông ông có vẻ quan tâm, và rõ ràng ông đang tỏ ra tốt bụng với tôi. Tôi lại nghĩ về khoảng thời gian khi chúng tôi còn xung đột. Khi ông còn cáu kỉnh, và bảo tôi tránh xa ông. Một thời gian dài đã trôi qua, nên giờ đây tôi lại một lần nữa cảm thấy mọi thứ như xảy ra từ kiếp trước ấy.

Tại sao bao năm trôi qua và tôi cảm giác như chẳng có gì thay đổi, nhưng giờ đây cả thế giới lại có thể đổi thay tới ba hay bốn lần chỉ trong vòng vài tuần được nhỉ? Tôi chẳng bao giờ hiểu được.

“Khi cháu sáu tuổi” tôi nói, trong lòng vẫn tự hỏi liệu mình có thực sự muốn kể chuyện này với ông không, “ba cháu đã qua đời”.

“Ta rất tiếc. Vì sao vậy?” “Một khẩu súng ạ.”

“Tự tử ư? Hay có kẻ nào đã giết ba cháu?”

“Có kẻ nào đó đã sát hại ba. Khi đó cháu còn quá nhỏ để hiểu được những chuyện đã xảy ra. Nên cháu chấp nhận tin vào những gì mẹ kể cho cháu. Mẹ cháu bảo đó là một vụ cướp của giết người. Mẹ nói cảnh sát biết đó là vụ cướp, bởi khi họ tìm thấy ba, họ không thấy ví tiền, đồng hồ và nhẫn cưới của ông đâu cả. Cháu thì cảm thấy chuyện này đúng là ngẫu nhiên đến kì quặc. Ba cháu chỉ ra ngoài mua thuốc lá, thế rồi đột nhiên cả thế giới sụp đổ.”

“Ta có thể tưởng tượng cảm xúc của cháu khi đó. Nhưng trên đời vẫn có chuyện như vậy xảy ra mà.”

“Vâng. Cháu biết chứ. Nhưng giờ cháu không chắc liệu đó có thật là điều đã xảy ra với ba cháu không. Chắc cháu đã kể cho ông rằng mấy mẹ con cháu bị đuổi khỏi nhà Dì rồi nhỉ. Vậy nên mẹ cháu đã ném tất cả đồ đạc vào thùng, hộp, túi và chất lên xe kéo. Cực kì chóng vánh luôn ạ. Và mẹ để lẫn lộn mọi thứ với nhau. Thế là ngày hôm qua, cháu đi tìm khăn tắm, và ông thử đoán xem cháu tìm được gì?”

“Ta chịu thôi.”

Rigby duỗi người, hai bàn chân trước của nó tì vào một bên vách tường nhà bếp. Tôi thấy thật lạ khi nó tỏ ra thoải mái đến vậy. Còn tôi thì đang căng thẳng đến sắp phát ốm lên được.

“Đồng hồ, ví tiền và nhẫn cưới của ba cháu. Mẹ giấu chúng trong hộp trang sức cũ của mẹ.”

“Chắc cảnh sát trả lại cho mẹ cháu đấy.” “Nhưng đáng lẽ chúng phải biến mất chứ.”

“Có lẽ họ đã tìm được hung thủ và tìm thấy mấy thứ đó trên người hắn.”

”Đúng vậy. Cháu cũng nghĩ hệt như ông. Nên sáng nay cháu đã hỏi mẹ rằng cảnh sát đã tìm thấy hung thủ chưa. Mẹ cháu bảo là chưa. Và mẹ thực sự cũng không hề muốn nói về chuyện đó.”

”Hừmmm.” Ông gãi gãi một bên tóc mai. ”Thế thì ta nghĩ có hai khả năng thế này. Hoặc là cảnh sát đã tìm được mấy món đồ nhưng không tìm thấy hung thủ - chắc có người giao dịch phi pháp và bị cảnh sát bắt giữ - hoặc mấy món đồ đó vẫn ở trên người ba cháu khi họ tìm thấy anh ta. Nhưng mẹ cháu lại kể cho cháu một câu chuyện khác.”

”Và điều đó nghĩa là sao ạ? Nếu mấy món đồ vẫn ở trên người ba khi họ tìm thấy xác ba cháu?”

”Chà, ta không rõ lắm. Có thể nghĩa là vụ đó không phải là cướp của giết người. Nhưng ta không thể đoán được. Ta cần nhiều thông tin hơn. Sao cháu không thử hỏi lại mẹ lần nữa?

”Vì cháu nghĩ mẹ đang nói dối. Và nếu biết chắc đối phương không muốn nói thật, thì có cố hỏi cũng chẳng để làm gì hết.”

”Hừmmm,” ông lại trầm ngâm.

Tôi định đưa ông một chồng bát ăn súp, nhưng ông không nhận.

Ông chỉ hỏi, ”Nhà cháu có internet không?”.

”Nhà cháu á? Không ạ. Bọn cháu đang sống ở khu trại. Chúng cháu không những chẳng có máy tính, mà thậm chí đến ổ điện chúng cháu còn chẳng có luôn ạ.”

”Cháu muốn ta tìm thông tin về vụ đó giúp cháu không? ”

”Sao ông làm được ạ?”

Chúng tôi vẫn chưa cất chồng bát súp đi, và tôi cảm thấy khó khăn hơn khi nói chuyện với ông, vì không muốn cứ nhìn ông mãi như vậy, mà tôi lại chẳng biết mình nên nhìn đi đâu nữa.

”Không khó đâu. Đó là một vụ cướp, vậy nên chắc nó phải ở trên các mặt báo.”

”Ồ. Đúng vậy.”

”Cháu hãy viết lại tên ba cháu cho ta trước khi về nhé. Và địa chỉ nhà cháu lúc đó nữa. Và ngày tháng, càng chính xác càng tốt. Chỉ có điều…”

Ông ngập ngừng, khiến tôi thấy lo lắng.

”Điều gì ạ? Chỉ có điều gì cơ ạ?”

”Cháu có chắc mình muốn biết không đấy? Có thể mẹ cháu nói dối vì sự thật khó lòng chấp nhận thì sao. Cháu có chắc mình muốn biết sự thật không?”

”Ưm. Không ạ. Cháu không chắc lắm. Còn tùy vào việc sự thật đó khó chấp nhận đến đâu. Ông có thể tìm thông tin rồi nói cho cháu sự thật tồi tệ đến đâu cũng được ạ.”

”Có vẻ là quyết định khó khăn đối với ta đây.”

”Không quan trọng đâu ạ” tôi đáp. ”Ông không phải xét đoán gì cả. Một khi cháu biết sự thật khác với những gì cháu được nghe kể, thì cháu cần phải biết sự thật đó chứ. Phải không ạ?”

”Đối với ta thì đúng là vậy.”

”Ông có thể tiết lộ cho cháu từng chi tiết, nếu sự thật quá tồi tệ, và cháu có thể nói, ‘Vậy là đủ rồi ạ’ khi cháu không muốn nghe nữa.”

”Cách đó được đấy.”

Ông đón lấy chồng bát từ tay tôi. Hành động của ông khiến tôi giật mình. Tôi đã quên luôn là có chồng bát ở đó. Ông xếp chúng vào tủ bát, còn tôi lại cúi xuống lấy vài chiếc ly được gói riêng trong giấy báo.

”Đó không phải chuyện xấu hổ gì đâu” ông nói. Tôi chẳng hiểu ông muốn nói gì.

”Ai nói chuyện đó là xấu hổ ạ?”

”Ý ta là, kể cả nếu mẹ cháu nói dối, thì đó là mẹ cháu không tốt, chứ không phải cháu. Mặc dù… ta nghĩ là cháu muốn ta giữ bí mật với tất cả mọi người…”

”À. Chuyện đó. Cháu quên mất mình đã hứa sẽ nói với ông một điều về bản thân. Cháu không định nói chuyện này đâu. Chỉ là… trong đầu cháu hiện giờ toàn nghĩ về nó. Và cháu lại chẳng thể nói với mẹ cháu ấy.”

”Cháu không cần phải kể cho ta điều gì về cháu đâu.”

”Không. Cháu sẽ kể mà. Cháu không bận tâm đâu. Chỉ là cháu quên mất thôi.”

”Không sao mà. Ta tin cháu. Ta biết cháu sẽ không nói với ai về… chuyện của ta. Dù cháu làm gì thì cũng đừng nói với mẹ chuyện đó nhé. Mẹ cháu hay nhúng tay vào chuyện của người khác lắm. Ta không muốn chuyện đến tai Rachel đâu.”

”Bà ấy thậm chí còn không biết cảm xúc của ông sao ạ?”

”Này. Ta không nói là muốn kể chi tiết cho cháu nghe đâu nhé.”

”À vâng. Cháu xin lỗi.”

Chúng tôi quay lại làm việc trong im lặng một lúc lâu nữa. Dỡ xong chiếc thùng cỡ đại đó, rồi lại tiếp tục với một hộp đầy thìa dĩa và dụng cụ làm bếp.

”Cháu nghĩ cháu thích con gái” tôi nói.

Tôi đã ngờ ngợ biết mình sẽ thốt ra điều đó, nhưng chưa hề huẩn bị trước, và cũng chẳng thể rút lại lời đã nói. Tôi nghĩ mình cũng nên nói ra chuyện này.

Ông ngừng sắp xếp đống dao dĩa và nhìn tôi, nhưng tôi không nhìn ông.

”Đó là điều cháu định nói về bản thân à?”

”Cháu không biết nữa. Có thể ạ. Đó là một điều.”

”Nhưng cũng chẳng phải chuyện gì xấu hổ mà.”

”Và yêu một người cũng vậy. Đây chỉ là một trong những điều cháu không muốn ông nói với người khác.”

”Liệu mẹ cháu có buồn vì chuyện này không?”

”Thực ra cháu nghĩ mẹ sẽ buồn đấy. Mẹ cháu không ghét bỏ hay kì thị người đồng tính đâu ạ. Nhưng mẹ luôn mong cháu là một đứa con gái nữ tính, vì bà từng như vậy.

Bây giờ mẹ vẫn rất điệu đà. Mẹ muốn cháu để tóc dài. Mẹ nói cháu sẽ sớm thấy điều đó quan trọng, vì cháu sẽ để ý đến bọn con trai nhiều hơn. Thế là cháu nghĩ, Trời, mẹ ơi. Con mới mười bốn mà. Liệu cháu phải đợi đến năm bao nhiêu tuổi thì mẹ mới hiểu được rằng cháu không giống mẹ? Có Chúa mới biết mẹ có chịu để ý tới điều đó hay không.”

”Cháu có giống mấy đứa mười bốn tuổi đâu. Cháu giống thanh niên hai mươi tuổi hơn đấy. Cháu chỉ lùn hơn họ một chút thôi.”

”Mọi người đều nói vậy đấy ạ.”

”Ừm… ta không định tọc mạch đâu. Và cháu cũng không cần kể chi tiết cho ta nếu cháu không muốn. Nhưng… cháu nghĩ thế thôi à? Hay cháu đồng tính thật?”

”Cháu đồng tính thật. Nhưng lần đầu nói ra thì như vậy dễ nói hơn ạ.”

”Ừ. Ta cũng nghĩ vậy.”

”Sao ông lại nghĩ thế? Sao ông biết được ạ?”

“Ta không có ý đó. Ta không hề biết hay từng nghĩ cháu đồng tính. Ý ta là, khi cháu nói ‘Cháu nghĩ là…’ ấy, ta cho rằng khi một người nghĩ điều gì đó về mình, thì đó thường là sự thật.”

Một lúc lâu sau đó chúng tôi chẳng nói thêm gì, và kì lạ là cả hai chúng tôi đều thấy thoải mái. Không phải vì chúng tôi sợ trò chuyện. Chỉ đơn giản là chúng tôi dỡ và sắp xếp mấy chiếc bình nước, chảo chiên và mấy đồ đạc linh tinh khác, vậy là đủ rồi.

Khi tôi nghe thấy tiếng mẹ bấm còi xe, tôi nói với ông, ”Nhanh thật đấy.”

”Không hẳn. Cháu dắt Rigby về đây từ gần hai tiếng trước rồi mà.”

”Ông nói đùa đấy ạ?”

Ông giơ chiếc đồng hồ đeo tay của mình cho tôi xem giờ. Chiếc đồng hồ đó khá đẹp.

”Thời gian trôi nhanh hơn khi cháu trải lòng với người khác” ông nói.

Khi đó tôi đã biết ba tôi qua đời vì lí do khác, chứ không phải vì bị cướp của. Bởi đồng hồ đeo tay của ba chẳng đẹp đẽ sang trọng như của ông Paul. Tôi biết đồng hồ của ba thực sự chẳng có mấy giá trị để bị người khác cướp đi.

Tôi chạy xuống cầu thang cùng Rigby, và khi chúng tôi chạy ra phía con đường trải sỏi, tôi nghe tiếng Sophie ré lên vì vui sướng. Con bé ré khá to, vì mẹ tôi đậu xe ở khá xa so với nhà ông Paul.

Tôi mở cửa sau và giúp Rigby vào ngồi cùng Sophie. Chỉ vừa đủ chỗ cho cô chó ngồi thôi. Nó phải cúi thấp đầu xuống, để cúi xuống chỗ của Sophie. Và tất nhiên là Sophie thích vậy. Tôi phải nhấc đuôi nó lên thật cẩn thận trước khi đóng cửa xe.

Tôi lên ngồi cạnh mẹ. Mẹ đang cười toe toét. Tôi chẳng hiểu sao mẹ lại vui được đến mức đấy.

”Con cần giấy bút” tôi nói, bởi tôi chợt nhớ ra mình chưa viết lại mấy thông tin ông Paul cần, về chuyện của ba.

”Mình có giấy bút không mẹ?”

”Mẹ có việc rồi.”

”Mẹ đùa đấy à. Sao mẹ đã tìm được việc rồi vậy?”

”Trên đường rời thị trấn, mẹ đậu xe ở một quán ăn rẻ tiền để mua ít bánh nướng xốp đem đi. Con đoán xem mẹ nhìn thấy gì trên cửa sổ? Một tấm biển Tuyển nhân viên! Họ thuê mẹ ngay lập tức. May mắn chưa nào? Ngày mai mẹ bắt đầu đi làm đấy!”

Tôi chưa tiếp thu được tin mới này ngay. Tôi thực sự chỉ nghĩ về việc muốn lấy giấy và bút thôi. Não tôi lộn tùng phèo và cuối cùng thì tôi chẳng suy nghĩ được gì cho trọn vẹn.

”Bánh xốp? Mẹ có bánh xốp á? Con đang đói muốn chết đây. Không có bánh cho con à?”

Mẹ vớ lấy chiếc túi giấy màu trắng trên sàn xe, gần phía chân tôi, rồi ném lên đùi tôi. “Mẹ để phần con một cái đấy.”

“Ồ. Tuyệt. Con cảm ơn. Thế chúng ta có giấy bút không mẹ?”

“Con không hào hứng lắm khi nghe thấy mẹ xin được việc nhỉ.”

“Không, chuyện đó tốt mà. Thật đấy. Ngày mai ạ? Mấy giờ ạ? Ca nào ạ?”

Nụ cười vẫn còn đọng lại trên môi mẹ, nhưng đã tắt dần trên mắt và những nơi khác trên khuôn mặt mẹ. “Mẹ làm ca sáng. Tới hết giờ cao điểm buổi trưa luôn.”

Im lặng. Trong giây lát, tôi thậm chí quên luôn cả chuyện bút giấy. Tới tận khi mẹ nói, “Chắc trong ngăn đựng găng tay có bút chì đấy”.

Tôi mở ngăn đựng găng tay ra và tìm thấy một chiếc bút chì trong mớ hỗn độn đó. Tôi xé một mẩu giấy trắng từ chiếc túi đựng bánh, nhưng quyết định sẽ không viết gì cho đến khi quay lại cửa nhà ông Paul. Chắc chắn mẹ sẽ phát hoảng nếu thấy tôi viết gì đó về ba.

Tôi nhìn thẳng vào mắt mẹ. Mẹ nhanh chóng nhìn sang hướng khác.

“Vậy” tôi nói. “Giờ con sẽ phải trông trẻ buổi sáng à. Mẹ đã nghĩ đến việc cho con đi học thế nào chưa?”

“Tất nhiên là mẹ nghĩ đến rồi. Mẹ chỉ nghĩ là… còn mấy tuần nữa là hết năm học rồi. Giờ mà cho con đi học ở trường mới thì cũng chẳng bõ tiền. Con nên bắt đầu đi học lại vào mùa thu thì tốt hơn. Tới lúc đó mẹ sẽ cố tìm một công việc khá khẩm hơn.”

“Thế thì con phải học đuổi các bạn nhiều lắm.” “Dù sao thì con cũng rất thông minh mà.”

Tôi quay lại nhìn phía sau xe. Rigby đang liếm mí mắt của Sophie - và tiếp tục liếm cả những phần còn lại trên mặt con bé - còn Sophie thì rên gừ gừ ra chiều thích thú lắm. Hôm đó ai cũng vui vẻ. Trừ tôi.

“Nếu ngày mai mẹ có nhiều tiền boa, có thể chúng ta sẽ thuê được một phòng trọ giá rẻ để ngủ qua đêm. Có thể hôm nay sẽ là ngày cuối cùng chúng ta phải ở ngoài trời đấy.”

“Chà” tôi đáp. “Nếu được như vậy thì thật tốt ạ.”

Tranh cãi về chuyện đi học cũng chẳng ích gì. Tôi làm gì có quyền lựa chọn. Và cuộc bầu cử của chúng tôi cũng kết thúc từ lâu lắm rồi.

Điều khiến tôi bực mình là tôi phải tỏ ra vui vẻ với mẹ, trong khi đang cố không nói chuyện với mẹ. Mẹ đã làm thế nhiều lần rồi. Lúc nào mẹ cũng tìm được cách xen vào thời gian bình ổn cảm xúc của tôi. Tôi không nghĩ lần này mẹ cố tình làm vậy. Nhưng dù cố tình hay vô ý, thì mẹ vẫn luôn tìm được cách.

“Con không tưởng tượng được” tôi nói. “Mẹ làm thế nào để vào đó mua bánh, rồi còn phỏng vấn nữa? Mẹ đi cùng Sophie mà. Mẹ đem con bé vào cùng à?”

Tôi biết ngay câu trả lời khi thấy mẹ lảng mắt sang hướng khác. Mẹ càng không nói, tôi càng chắc chắn về suy nghĩ của mình.

“Mẹ để em ngồi trong xe à?” “Chỉ vài phút thôi mà.” “Thật không thể tin nổi.”

“Mẹ khóa xe mà. Các cửa sổ cũng nứt cả rồi. Với cả, mẹ cũng đậu xe ở nơi mẹ có thể quan sát được em mà. Nghe này, nhóc. Con định tạt nước lạnh vào mẹ vì chuyện đó, dù mọi chuyện vẫn ổn à? Hay con muốn tỏ ra vui vẻ hưởng ứng một chút vì mẹ đã có việc, và chúng ta lại được sống cùng nhau dưới một mái nhà?”

Tôi thở dài thật to. “Con chỉ muốn đưa Rigby về với ông Paul, sau đó về…” Tôi chẳng biết nên nói hết câu đó thế nào. Tôi làm gì có “nhà”.

Tôi trèo ra ngoài và gọi Rigby ra từ ghế sau. Nó khiến tôi nhớ đến các chú hề to lớn bước ra từ mấy chiếc xe nhỏ xíu ở rạp xiếc. À, trước đây ba từng đưa tôi đến rạp xiếc một lần.

“Ngày mai em sẽ được gặp lại Rigby mà, Sophie, chị hứa đấy.”

Nhưng thực ra tôi chẳng cần bận tâm đến chuyện đó. Chỉ cần nhìn là biết. Con bé thậm chí còn chẳng tỏ ra buồn bã chút nào.

Chúng tôi chạy thật nhanh lên cầu thang, cho tới khi tôi hụt hơi.

Cửa vẫn để mở, nên tôi chỉ gõ mấy tiếng vào khung cửa rồi bước vào trong. Ông Paul đang xếp mấy cuốn sách lên các ô trống ở hai bên tấm ảnh của bà Rachel.

“Cháu sẽ viết lại mấy thông tin về ba cháu” tôi nói.

Tôi ngồi xuống và bắt đầu viết tên của ba, và khu Los Feliz của thành phố Los Angeles. Tôi không nhớ chính xác ngày tháng, nhưng chuyện đó xảy ra vào mùa hè tám năm trước.

Khi tôi đưa mẩu giấy cho ông, ông nói, “Dan. Giống tên anh trai ta”.

“Người mà ông thậm chí còn không ưa.”

Cả hai chúng tôi đều bật cười một chút vì câu nói đó. Nhưng khi đó tôi đã hiểu ông rõ hơn một chút. Về lí do ông không thích anh trai mình. Và cả nguyên nhân tại sao ông đều có vẻ rất vui mỗi khi tới thăm nhà anh trai nữa. Thực sự thì tôi cũng không chắc lắm. Có thể ông ghét anh trai mình vì vô vàn điều khác nữa, nhưng chắc chỉ cần mỗi lí do đó thôi cũng đủ rồi.

Tôi lại nghĩ tới Cathy, rồi nhanh chóng kìm nén suy nghĩ của mình lại.

Đêm đó thời tiết ngoài trời rất lạnh. Tôi đã muốn nghĩ lạc quan rằng đây là đêm cuối chúng tôi phải ngủ ngoài trời. Nhưng cũng chẳng chắc chắn lắm. Vì mẹ chỉ nói “nếu” thôi. “Nếu” mẹ được kha khá tiền boa trong ngày đầu tiên đi làm. Mà từ “cuối cùng” cũng chỉ mang tính tương đối thôi. Đây là lần đầu tiên mẹ con tôi thành người vô gia cư và chẳng có gì đảm bảo rằng đó sẽ là lần cuối cùng.

Đêm đó tôi chẳng hề ngủ được trọn giấc.

“Được rồi, mẹ cứ đợi ở đây nhé” tôi nói với mẹ. “Con sẽ dẫn Rigby ra đây.” Tôi ngoái nhìn Sophie. “Chị sẽ đưa Chu tới, Sophie. Sau đó em có thể đi cùng bọn chị.”

Tôi chạy về phía nhà ông Paul, sau đó lại chạy lên ba nhịp cầu thang.

Rigby nghe thấy tiếng tôi và sủa lớn, nên ông Paul đã mở cửa chờ sẵn trước khi tôi lên tới nơi.

“Vậy ông đã tìm được gì rồi ạ?” Tôi hỏi ông, xíu nữa thì hụt hơi.

Lúc đó là gần bốn giờ chiều, và trong đầu tôi chỉ nghĩ được có thế. Cả ngày hôm nay tôi chỉ ngồi trông Sophie trong khu trại lúc mẹ đi làm. Và chờ đợi. Rồi lại thắc mắc.

Từ nét mặt của ông, tôi có thể đoán được rằng ông đã tìm thấy gì đó.

“Đó không phải một vụ cướp” ông nói.

“Cháu cũng nghĩ vậy.”

Tôi nghe thấy tiếng mình vọng ra, nhưng môi tôi lại tê cứng. Cảm tưởng như người vừa nói không phải tôi, mà là một ai khác, nói rằng “Cháu biết mọi chuyện sẽ như thế này mà”. Trong khi sự thật là tôi đã hy vọng ông không tìm thấy gì cả.

“Ta đã lưu lại vài bài báo. Cháu vào phòng làm việc cùng ta nào.”

Tôi đi theo ông qua hành lang, cảm thấy như thể mình sắp bị xử tử vậy. Rigby lúc lắc người khi đi bên tôi, nó quật chiếc đuôi chết người kia vào mông tôi. Tôi không kêu đau, vì đang quá bận suy nghĩ về nỗi đau trong lòng mình rồi.

Phòng làm việc của ông - cho tới giờ - chỉ có một chiếc bàn gỗ cao cùng một chiếc laptop để mở trên đó, và thùng hộp chất đống giữa phòng.

Chiếc máy tính khiến tôi lo lắng, và não tôi bắt đầu ngứa râm ran, cảm giác như bị tê bàn chân khi ngồi quá lâu ấy. Tôi bước tới bên cửa sổ ở cuối phòng và nhìn ra bên ngoài và thấy những dãy núi trải dài, trên đỉnh phủ tuyết trắng xóa.

“Khung cảnh đẹp quá ạ” tôi nói. “Cảm ơn cháu.”

Ông còn đang bận nhấn chuột, tôi đoán ông đang tìm lại những bài báo đã đọc trước đó.

“Việc tìm thông tin về ba cháu có khó không ạ?” “Không hề. Ta chỉ gõ tên của ba cháu vào thanh tìm kiếm, sau đó kết quả hiện ra ngay.”

“Ông có ga-ra ạ.”

Cuối cùng tôi cũng rời mắt khỏi mấy dãy núi và nhìn về phía sau nhà ông. Tôi biết đó là ga-ra nhà ông, bởi chỗ đó cũng được sơn màu xanh dương với những viền cửa trắng, hệt như ngôi nhà của ông. Nhưng chỗ đó có hai tầng, và mọi người có thể dùng tầng hai làm phòng ngủ hoặc phòng làm việc.

“Chuyện đó kì lạ à?”

“Vâng, hơi hơi ạ. Vì ông không có lối vào cho xe ô tô. Ý cháu là, cháu không nhìn thấy đường vào ga-ra. Làm thế nào ông đánh xe vào đó được ạ?”

“Nhà ta có đường vào ga-ra mà. Chỉ là nó nằm ở quá xa so với căn nhà này, nên có thể cháu nghĩ đó là đường vào ga- ra nhà khác thôi. Nơi này rộng lắm. Cháu chưa sẵn sàng nghe sự thật phải không?”

“Có lẽ vậy ạ. Có lẽ cháu cần thêm một phút nữa. Ông chờ cháu một phút được không ạ?”

“Tất nhiên rồi. Cháu muốn bao nhiêu thời gian cũng được.”

Ông tới đứng cạnh tôi và Rigby bên cửa sổ, sau đó cả ba chúng tôi cùng nhau nhìn ra phía ngoài.

“Thế ông định dùng căn phòng phía trên ga-ra để làm gì ạ?”

“Không” ông đáp.

“Không gì cơ ạ? Cháu có hỏi có hay không đâu.” “Ta nói không với điều cháu đang nghĩ.”

“Cháu nghĩ gì cơ ạ?”

“Xin lỗi cháu. Có lẽ ta lầm. Ta cứ nghĩ cháu định hỏi liệu ta có cho thuê phòng đó không. Nhưng ta chưa sẵn sàng đón nhận cả một gia đình tới đây, Angie ạ. Ta xin lỗi. Ta cần nhiều không gian hơn thế.”

“À. Vâng, cháu cũng không định hỏi vậy mà.” “Cháu không nghĩ vậy, phải không?”

“Vâng. Cháu không nghĩ đến chuyện đó.” “Xin lỗi cháu.”

Chúng tôi cứ đứng đó lặng im nhìn ra khung cảnh bên ngoài một lúc nữa. Có lẽ “một lúc” ấy là vài giây, hoặc vài phút. Tôi không chắc mình đủ tâm trạng để phân biệt điều đó.

“Cháu biết đấy” ông nói tiếp, “ta có thể bỏ đánh dấu mấy bài báo đó và giả vờ như mình chưa tìm được gì hết”.

Tôi thở vài lần, rồi tự hỏi tại sao lần này mình lại nghe thấy tiếng thở của bản thân mà lần trước thì không. Điều đó thì tôi chắc chắn.

“Cháu không nghĩ cháu có thể giả vờ rằng ông chưa hề tìm thấy bài báo nào cả.”

“Nếu những điều này có ích đối với cháu, thì thật ra mấy bài báo đó cũng chẳng nói lên nhiều chi tiết lắm. Họ không nói rõ tại sao ba cháu bị giết, vì cảnh sát cũng không điều tra được. Có thể là vậy, hoặc cảnh sát nghĩ rằng việc cung cấp quá nhiều thông tin sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình điều tra. Nhưng chẳng có món đồ nào bị mất cả. Và họ khá chắc chắn vụ việc này không phải ngẫu nhiên. Họ nghĩ ba cháu biết tên hung thủ, nhưng không nói lí do tại sao lại kết luận như thế.”

“Cháu cá là mẹ cháu sẽ biết nhiều hơn.”

“Có thể.”

“Nhưng cháu lại chẳng hỏi mẹ chuyện đó được.”

“Ta nghĩ sớm muộn gì thì cháu cũng sẽ hỏi mẹ thôi.” “Đó là tất cả những điều cháu cần biết ạ?”

Tôi không hề thích sự im lặng của ông.

“Còn chuyện không phải ba cháu bị bắn chết nữa.” “Mẹ cháu nói vậy.”

“Nhưng mẹ cháu cũng nói đó là một vụ cướp của giết người.”

Đột nhiên tôi không nuốt nổi. Kiểu như tôi tự nhiên quên luôn cách nuốt nước bọt ấy.

“Ba cháu bị người ta giết thế nào cơ ạ? Tệ lắm phải không ạ?” Trong đầu tôi lại vang lên câu nói của Dì Vi, “Ôi, và cách ba cháu ra đi thật tệ”. “Thôi, ông đừng bận tâm ạ. Cháu cũng không muốn nghe đoạn đó đâu. Ông đừng nói nhé.”

“Ừm. Ta không nói đâu. Ta sẽ không bao giờ nhắc lại chuyện này nữa.”

Chúng tôi chỉ đứng đó một lúc lâu nữa. Tôi cảm giác khi đó mình đã biến thành một bức tượng. Tôi vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng chẳng biết mình đang nhìn gì nữa.

Tôi lại nhìn chiếc ga-ra hai tầng sơn xanh trắng của ông. “Vậy ông định làm gì với căn phòng trống đó ạ?”

“Ta không chắc lắm. Ta có thể biến nó thành phòng làm việc. Nhưng ta đã có phòng ngủ trong căn nhà này rồi. Và ta cũng đã nghỉ hưu. Thế thì ta còn cần phòng làm việc làm gì nữa? Chắc là do thói quen thôi, ta nghĩ vậy. Ta có thể cho người khác thuê, nếu cần tiền. Nhưng ta không cần. Có lẽ bây giờ ta chưa cần tiền ngay đâu. Nhưng có lẽ chỗ đó làm phòng nghỉ cho khách cũng hợp lí đấy.”

“Có thể ông Dan và bà Rachel sẽ tới đây chơi.” “Ta không nghĩ vậy. Họ chán nơi này lắm rồi. À, Dan chán ngấy chỗ này rồi. Thế nên ta mới đổi được nhà cho ông ấy.”

“Vậy… nếu ông không phải làm việc thì ông định làm gì ạ? Ông định dành thời gian rảnh rỗi mỗi ngày để làm gì ạ?”

“Chà, để xem nào” ông đáp. “Đầu tiên Rigby và ta sẽ thức dậy, rồi đi bộ vào thị trấn và mua một tờ báo. Và một tách cà phê espresso nữa. Cùng với một chiếc bánh muffin, hay bánh mì kiểu Anh28, trừ khi ta tăng cân quá nhanh. Sau đó ta sẽ ngồi đọc báo nửa buổi sáng. Và thi thoảng ta có thể đi câu cá trên một dòng sông lạnh, hoặc ở một trong mấy cái hồ trên núi. Ta sẽ bắt cá hồi tươi cho bữa tối và đọc mấy cuốn sách còn lại ở nhà, mấy cuốn sách ta mua cách đây chừng hai mươi năm nhưng chưa từng ngó đến. Và có thể ta sẽ lại làm đồ mộc, ví dụ tủ sách hay bàn gỗ như ngày xưa. Còn nếu thấy chán thì Rig và ta có thể đi bộ theo một trong những con đường mòn trên núi. Trong vòng bán kính năm dặm quanh đây có cả tỉ con đường như thế ấy chứ.”

28 Nguyên văn: scone.

“Nghe cứ như cuộc sống trên mây vậy” tôi đáp.

“Đúng thật nhỉ? Và ta chỉ phải làm công việc mình ghét tròn bốn mươi lăm năm để có được cuộc sống mình mong muốn thôi.”

Tôi nghĩ đáng lẽ mình nên bật cười. Nhưng tôi lại chẳng thấy buồn cười cho lắm. Thay vào đó tôi lại thấy cuộc đời có gì đó sai sai.

Nên tôi chẳng nói gì cả. “Cháu ổn chứ?” Ông hỏi.

“Ưm. Vâng. Cháu nghĩ vậy ạ. Cháu thấy hơi buồn ngủ. Nhưng cháu ổn. Đại khái là thế ạ. Cháu nghĩ cháu cần ngồi nghỉ một chút trước khi đưa Rigby đi dạo. Chân cháu đang hơi run run một chút.” Đó là khi tôi nhận ra. “Ôi, khỉ thật. cháu không thể ngồi được. Mẹ cháu đang đợi trong xe cùng Sophie, em ấy sẽ đi dạo cùng Rigby và cháu. Cháu quên khuấy mất. Chắc mẹ cháu mất kiên nhẫn lắm rồi. Cháu nên đưa Rigby đi thôi.”

Câu chuyện đời tôi tóm tắt trong hai câu:

Tôi cần thời gian sắp xếp mọi chuyện.

Nhưng tôi làm gì có thời gian để sắp xếp cơ chứ.

Một trong hai con quái vật đó cứ bất thình lình xuất hiện. Và mỗi khi khuôn mặt xấu xí của nó hiện ra, thì tôi biết nó hoàn toàn áp đảo. Khi ấy, tôi không bao giờ thấy mình mạnh mẽ hơn nó.

Mẹ đưa Sophie vào nhà tắm công cộng của khu cắm trại khi chúng tôi quay lại đó lấy đồ.

Tôi vẫn chưa hiểu lắm. Đầu tiên tôi chỉ đứng đó, tựa người vào xe ô tô. Kiểu như tôi có thời gian rảnh, và chẳng biết làm gì cho hết thì giờ ấy.

Khi ấy tôi không nghĩ ngợi gì nhiều, nhưng tôi nhớ mình thấy vui khi có tiền thuê nhà nghỉ để trọ qua đêm. Trước đây tôi chưa từng thấy biết ơn những thứ giản đơn như giường ngủ hay mái nhà, nhưng tôi đã thề với bản thân rằng sau này mình sẽ luôn khắc ghi điều đó. Nhưng rồi tôi lại thắc mắc liệu mình có thực sự làm được không, hay lại quên bẵng đi luôn.

Tôi sực nhớ ra một chuyện và chạy vội vào chiếc lều chứa đồ. Tôi biết mình định tìm gì, nhưng tôi thề rằng mình không hề lên kế hoạch trước cho những chuyện này. Tự nhiên suy nghĩ cứ hiện lên trong đầu thôi.

Tôi lách người vào bên trong lều và tìm thấy chiếc hộp đựng ga trải giường.

Trống ngực đánh thình thịch khi tay tôi len lỏi dưới mấy lớp ga trải giường, rồi chạm tới hộp đựng trang sức của mẹ. Tôi nhắm mắt và hít một hơi. Tôi thấy lo vì không biết mẹ sẽ đi bao lâu, và liệu mẹ có quay lại tìm tôi, rồi bắt gặp tôi đang làm chuyện này hay không.

Tôi định mang cả chiếc hộp đi, nhưng sau đó lại không làm vậy nữa. Vì nếu tôi làm thế thì mẹ sẽ nghĩ mình làm thất lạc chiếc hộp trong lúc đóng gói đồ đạc. Mẹ sẽ đợi cho đến khi nó xuất hiện. Nhưng nếu mẹ tìm thấy chiếc hộp và thấy nó trống không…

Tôi thò tay vào trong chiếc hộp gỗ mà chẳng cần nhìn. Một tay tôi tóm gọn ví, đồng hồ và nhẫn cưới của ba, lấy chúng ra và nhét vào túi áo khoác của mình.

Tôi ngó ra cửa lều tìm mẹ và Sophie, nhưng hai người họ vẫn chưa quay lại.

Thế là tôi làm nốt việc mình định làm: giấu mấy món đồ của ba vào chiếc rương của mình.

Tôi nhìn thêm một lần nữa trước khi khóa rương lại. Đếm lại tất cả những thứ tôi chưa sẵn sàng đối mặt. Lá thư của Nellie. Cuốn Cổ thư Tây Tạng về những Người Quá cố. Sự thật về ba. Tôi rút tờ một trăm đô ra khỏi túi quần jeans. Mẹ có việc làm rồi, nên bà có thể chăm lo cho tụi tôi. Tôi có thể giữ khoản tiền tiết kiệm này cho riêng mình rồi.

Tôi ném tờ tiền vào trong rương, sập mạnh nắp rồi khóa lại.

Tôi không hề lấy trộm mấy món đồ của ba đâu nhé. Tôi phải nói vậy để các bạn hiểu. Trên lý thuyết thì mấy món đó thuộc về mẹ tôi, và chắc chắn tôi sẽ trả chúng cho mẹ, ngay khi mẹ nhận ra rằng chúng đã biến mất. Ngay khi mẹ nhìn thẳng vào mắt tôi và nói mẹ biết tôi là người lấy chúng, vì chẳng có ai khác muốn hay có thể làm được chuyện đó.

Sau đó mẹ có thể giải thích cho tôi vì sao chúng lại ở đó. Mẹ sẽ phải làm vậy. Tôi thậm chí còn không cần hỏi nữa. Việc tôi biết mẹ giữ mấy món đồ này, tự nó đã là câu hỏi rồi.

Phải, tôi biết cách này không thể nào hiệu quả so với tự mình nói ra. Nhưng tôi không thể. Tôi không đủ bình tĩnh để mở lời, nên phải nghĩ cách tạo ra một câu hỏi ngầm cho mẹ. Một cách thê thảm, và dài lâu. Nhưng đó là trò tôi vẫn chơi thường ngày.

Mấy tuần chúng tôi sống trong nhà trọ khá yên bình và mờ nhạt. Có lẽ vì những ngày đó đều giống như tất cả những ngày bình thường khác trong đời tôi. Chỉ có một lần đáng nhớ thôi. Và chuyện cũng chẳng to tát gì cho cam. Không phải tôi kể chuyện này vì nó quan trọng đâu. Chỉ vì đó là chuyện tôi còn nhớ thôi.

Ngày hôm ấy, khi tôi đến chơi nhà ông Paul, tôi thấy một bộ bài nằm trên bàn uống nước của ông. Thật khó để tưởng tượng ra lí do ông có nó, vì quanh đây chẳng có ai chơi bài cùng ông cả. Chắc ông Paul chơi trò Solitaire29 thôi.

29 Trò chơi với bài dành cho một người chơi.

Khi đó ông đang ở trong nhà bếp làm bánh kẹp cho chúng tôi.

Mặt trái của việc sống trong nhà nghỉ là tiền thuê phòng gần như ngốn hết từng xu lẻ mẹ kiếm được. Nên mẹ tôi thường mang đồ ăn từ nhà hàng về, chỗ thức ăn đó sẽ vừa đủ cho một bữa trong ngày. Và tôi thường ăn một bữa ở nhà ông Paul, sau đó để phần một chút cho Sophie. Thật may mắn là nhà nghỉ của chúng tôi chỉ cách nhà ông Paul chưa đầy một dặm. Nên tôi có thể đi bộ tới nhà ông lúc nào cũng được, miễn là khi đó có mẹ tôi ở lại trông Sophie. Tôi nhất quyết không để Sophie đợi trong xe một mình như mẹ đâu.

Tôi thường đi bộ sang nhà ông Paul. Căn phòng trọ của chúng tôi rất nhỏ. Một người ở trong đó còn thấy nhỏ, huống hồ là tận ba người. Đúng là tra tấn.

Đã lâu lắm rồi tôi mới nhìn thấy một bộ bài.

Cảm giác thật kì quặc và khó tả khi tôi nhìn thấy chúng. Giống như một người bạn cũ từng cãi nhau với bạn, hai đứa cạch mặt nhau, rồi đột nhiên nó lại xuất hiện, và bạn nghĩ “Nó làm gì ở đây thế?”. Cảm giác vừa giống giận dữ, lại có phần đau đớn nữa. Nhưng có lẽ tôi không muốn thừa nhận điều đó.

Tôi nhìn chúng thật lâu.

Rồi tôi lấy chúng ra khỏi vỏ và bắt đầu xếp nhà.

Đầu tiên tôi chỉ xếp một ngôi nhà đơn giản thôi, nhưng sau đó tôi quyết định xếp hẳn ba tầng.

Tôi sắp dùng hết thẻ bài, nhưng không hề muốn ngừng lại. Tôi thực sự không muốn ngừng lại. Như thể chân tay, và cả cơ thể tôi lại bị kích thích, và tôi cần thêm nhiều bài nữa. Cần ngay bây giờ.

Tôi quá mê mải với mấy bộ bài nên không nhận ra ông Paul đang đứng ngay sau lưng với hai chiếc bánh kẹp trên đĩa. Tôi ngửi thấy mùi gà tây hun khói, tôi cũng chưa có gì bỏ bụng cho bữa sáng. Nhưng hiện giờ tôi chỉ muốn mấy bộ bài và những lần xếp bài mạo hiểm nữa.

“Woa” ông thốt lên. “Cháu xếp bài giỏi đấy.” “Đã lâu lắm rồi cháu chẳng chơi trò này.” “Chắc là giống đạp xe thôi.”

“Cái này đã là gì đâu ạ. Hồi trước cháu còn xếp được cả nông trang có đủ chuồng trại, nhà kho và bãi quây gia súc…”

“Để làm gì thế?”

“Cháu nghĩ là để giết thời gian.” Tôi xếp lá bài cuối, và cả công trình vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng tôi chẳng còn lá bài nào để xếp lên đó nữa. “Khi đó ba cháu mới mất, và cháu nghĩ mình cần thứ gì đó để tự đánh lạc hướng.”

“Xin lỗi cháu. Ta nghĩ câu đó hơi bất lịch sự. Chỉ là ta luôn thắc mắc tại sao mọi người lại làm những việc này. Cháu biết đấy. Những việc…”

Rigby chạy vào phòng khách và vẫy đuôi. Cả tôi và ông Paul đều biết trước điều gì sẽ xảy ra. Nhưng hai tay ông đều đang bận cầm đĩa bánh, và tôi thì không dám với tay qua ngôi nhà thẻ bài của mình. Bây giờ chỉ một cử động đột ngột thôi cũng đủ khiến nó đổ sụp xuống.

“Đừng, Rigby!” Ông hét lớn.

Nó dừng lại ngay tắp lự, mũi chỉ cách công trình của tôi có gần hai foot. Nó ngước lên nhìn ông với ánh mắt tổn thương nhất tôi từng thấy. Tôi nghĩ Rigby không quen với việc bị người khác quát mắng vì nó chưa từng làm sai điều gì bao giờ.

“Ngoan lắm” ông Paul nói. “Ở yên đó nhé.” Nó làm theo thật.

Nhưng nó không ngồi xuống. Vì chẳng ai ra lệnh cho nó làm vậy. Nó chỉ đứng đó vẫy chiếc đuôi khổng lồ của mình, và chỉ đến lần quẫy đuôi thứ tư, nó đã tạo thành một luồng gió.

Tôi thấy một lá bài trên tầng hai bắt đầu rơi xuống, và khoảnh khắc đó lại ập đến. Giây phút mọi thứ đóng băng lại. Một khoảnh khắc rất ngắn ngủi, và bạn có thể tự thuyết phục rằng đó là do mình tưởng tượng ra. Nhưng đã từ lâu tôi quyết định sẽ nghĩ ngược lại, và thuyết phục bản thân rằng đây chính là sự thật.

Thẻ bài bay tứ tung, vài lá còn hạ cánh xuống nền gỗ cứng.

“Ta xin lỗi nhé” ông nói.

“Không sao đâu ạ. Có gì đâu ông. Ông đừng làm Rigby thấy tội lỗi. Sớm muộn gì thì chúng cũng sụp đổ thôi mà. Lúc nào cũng vậy ạ.”

Tôi dọn dẹp đống thẻ bài trên bàn, sau đó nhặt nốt những lá khác vừa hạ cánh đằng xa.

“Ta nghĩ lúc nãy ta cũng định nói như vậy” ông Paul đáp. “Nhưng ta không chắc lắm, vì khi đó ta chưa nghĩ được rõ ràng. Nhưng ta nghĩ mình luôn thắc mắc về những thứ như nhà thẻ bài, hay lâu đài cát. Hoặc mấy bức điêu khắc bằng nước đá. Mọi người dành quá nhiều thời gian cho những thứ đằng nào cũng tự sụp đổ.”

Tôi ngồi trên ghế và nhanh chóng đếm số thẻ bài vừa nhặt được. Năm mươi mốt lá.

Tôi bò toài xuống sàn nhà và tìm lá bài cuối cùng dưới gầm ghế tràng kỷ. Lá Q cơ. Tự nhiên tôi nghĩ điều này có ý nghĩa gì đó, nhưng có thể chỉ là ngớ ngẩn thôi.

“Dù sao thì đây chỉ là suy nghĩ của cháu về mấy thứ này thôi” tôi đáp, tay đút bộ bài vào hộp. “Cháu nghĩ điều đó áp dụng với tất cả mọi thứ trên đời. Chúng ta sinh ra, rồi mua những đồ vật này. Nhà cửa, xe hơi, và tiết kiệm tiền bạc. Rồi ta chết đi, thì những thứ đó cũng chẳng còn nữa.”

“Không hẳn. Nếu cháu xây một cây cầu thì sao? Nó sẽ trường tồn đấy chứ.”

“Có lẽ nó sẽ tồn tại thêm một thời gian sau khi ta chết. Nhưng không phải mãi mãi. Sớm muộn gì thì người ta cũng nghĩ rằng cây cầu đó không còn đủ an toàn nữa, và họ sẽ đánh sập nó để xây một cây cầu mới. Ta xây một ngôi nhà thật, thì cuối cùng nó cũng bị phá đi. Mấy ngôi nhà bằng thẻ bài chỉ sụp đổ nhanh hơn thôi ạ.”

Ông ngồi xuống ghế tràng kỷ và đặt hai đĩa bánh kẹp lên bàn uống nước. Tôi cắn một miếng bánh thật to. Trong bụng chẳng có gì, nên tôi trở thành một đứa trẻ phàm ăn ngay khi thấy chiếc bánh. Nhưng bánh kẹp ông làm rất ngon. Lúc nào tôi cũng cảm thấy thật khó khăn khi phải để dành một nửa cho Sophie, bởi tôi luôn thèm được ăn hết chỗ bánh đó và nhiều hơn thế nữa. Nhưng tôi luôn kiềm chế được bản thân.

“Giả thuyết của cháu buồn thật đấy” ông nói.

“Không hẳn vậy ạ. Ý cháu là, trong suy nghĩ của cháu thì nó không đến nỗi buồn lắm. Cháu đã nghĩ ngược lại. Vài người không bao giờ dám làm gì, bởi họ quá sợ sự sụp đổ hay thất bại. Họ nghĩ quá nhiều về chuyện không gì tồn tại mãi mãi. Và ngược lại, có những người dũng cảm làm tất cả mọi thứ, mặc dù chẳng có gì vĩnh cửu. Cháu muốn được là kiểu người như vậy. Thế nên cháu mới tập xếp nhà thẻ bài. Thực ra… cháu từng tập xếp thẻ bài. Trước khi mẹ cháu sinh Sophie. Một phần lí do có thể vì đây là điều cuối cùng ba dạy cháu, trước khi ông bị sát hại. Nhưng đó chỉ là một lí do nhỏ thôi. Lí do còn lại là điều cháu vừa nói trước đó ấy.”

Chúng tôi tiếp tục ăn bánh trong im lặng một lúc. Tôi chỉ cắn thêm ba miếng là hết nửa phần bánh của mình. Ngon tới tận miếng cuối cùng.

Và những thứ khác cũng vậy.

Rồi ông hỏi, “Cháu có chắc mình không phải một người bốn mươi tuổi tí hon không?”.

“Ông tin cháu đi. Có những điều về cháu vẫn giống đứa nhóc mười bốn tuổi đấy.”

“Nhưng ta không thấy những phần đó.”

“Vậy thì tốt”, tôi đáp. “Thế có nghĩa là chúng vẫn còn đó.”

Có lẽ suốt cả một năm trời, tôi còn nhìn thấy bộ bài đó trên bàn nước của ông thêm khoảng mười lần. Nhưng tôi không bao giờ mở hộp bài ra lần nữa.