• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mình về nhà thôi
  3. Trang 9

5Biến mất

T

ôi lại mơ về khoảnh khắc ở tiệm sách Xấu Hổ Kinh Hoàng. Khoảnh khắc ghê tởm đó cứ lặp đi lặp lại. Tôi đứng sau giá sách và biết Nellie đang tiến lại gần. Sau đó thì chị phát hiện tôi đang nghe lén. Nhưng trong mơ thì lối đi giữa mấy giá sách rộng cỡ sân cỏ đá bóng, và các lối rẽ dài bất tận. Khi tôi nhìn thấy chị ấy, tôi vẫn có cơ hội chạy trốn.

Ngoại trừ việc người tôi đông cứng lại. Tôi chẳng thể nào động đậy tay chân.

Và người đó xuất hiện phía cuối lối đi, nhưng đó không phải Nellie. Là Sophie thì đúng hơn, nhưng đó là Sophie khi đã lớn. Và con bé không còn tự kỉ nữa. Bạn đừng hỏi tại sao tôi biết đó là Sophie. Tôi chỉ nhận ra vậy thôi. Con bé nhìn thẳng vào mắt tôi, và con bé thấu hiểu tất cả mọi việc. Đôi mắt con bé trông rất tinh tường.

Một tiếng động khiến tôi choàng tỉnh. Tôi nhổm dậy thật nhanh.

Giờ là tin xấu đây. Thực ra trong xe chẳng có đủ chỗ cho tôi nhổm dậy. Hóa ra tôi đang ngủ ở ghế sau xe, mà tôi lại chẳng có tí kí ức nào về chuyện này. Tôi còn chẳng nhớ nổi mình trèo ra đây từ khi nào. Trán tôi đụng phải tấm bọc trần xe, mà nó thì cũ lắm rồi nên không còn bám chặt vào trần xe nữa. Có thể coi như tôi vừa như đụng đầu vào lớp vỏ kim loại trên trần xe vậy. Tôi đụng trúng cục bướu hôm trước vừa va phải quầy thu ngân của Nellie.

Tôi lại ngã phịch xuống ghế.

“Ối” tôi thầm ré lên. “Khỉ thật.” Tôi lại cố hạ giọng thấp hơn nữa.

Tiếng động ngoài cửa lại khiến tôi sực tỉnh. Đó là tiếng gõ cửa. Ai đó đang khẽ gõ vào cửa kính sau của chiếc ô tô.

Điều đầu tiên tôi nghĩ tới là: Toi rồi, là cảnh sát đấy. Lẽ ra chúng tôi không nên ngủ ở đây. Chúng tôi gặp rắc rối to rồi.

Đèn đường đã tắt, và tôi có thể nhìn thấy người đàn ông gõ cửa. Nhưng trời vẫn đang mưa tầm tã, ông mặc áo mưa và trùm mũ, và tôi chỉ nhìn được bấy nhiêu thôi. Tôi đoán ông ấy cũng luống tuổi rồi, có thể ông ấy tầm tuổi ông Paul, nhưng đôi mắt và khuôn mặt dịu dàng hơn một chút.

Tôi lại ngồi dậy, cẩn trọng hạ vai thấp xuống để không bị va đầu vào trần xe nữa. Tôi ngó lên đằng trước xe. Sophie vẫn đang ngủ miên man, và mẹ đã thắt dây an toàn cho em. Còn mẹ cũng đang ngủ mê mệt, trên chiếc ghế lái đã ngả gần hết mức về phía sau.

Tôi mở cửa kính hậu. Nó hất lên như dòng xe hơi hatchback25. Hừm, tôi nghĩ chiếc xe này cũng thuộc dòng hatchback. Tôi thì thấy khá dị khi phải ngồi lom khom thế này, nhưng tôi chẳng còn sự lựa chọn nào khác.

25 Dòng xe có hai khoang: khoang lái và khoang khách, và hàng ghế sau có thể gập lại để chứa đồ đạc. Loại xe này thường có từ 3 đến 5 cửa, trong đó cửa phía sau có thể mở hất lên.

“Chào cháu” ông nói.

“Mẹ con cháu làm gì sai sao ạ?”

“Không hề. Tại ta thấy mấy mẹ con cháu ngủ trong xe, nên ta thắc mắc không biết mọi người đã có lều chưa. Ta xin lỗi vì đã đánh thức cháu dậy.”

“Lều ạ?”

“Mấy mẹ con không mang lều à?”

Tôi nhìn ra phía ngoài. Thật khó mà rõ mọi thứ trong làn mưa tầm tã này, nhưng hình như chúng tôi đang đậu xe ở một khu cắm trại. Tôi thấy một vài chiếc lều, rất nhiều nhà di động và xe moóc xung quanh.

“Ưm… Dạ không. Chúng cháu không có lều ạ.”

“Ừ, ta cũng nghĩ vậy. Ở khu đồ thất lạc vẫn còn ba chiếc lều vô chủ. Ta chẳng thấy ai tới nhận chúng về cả. Chắc cháu sẽ ngạc nhiên khi ta nói điều này, nhưng rất nhiều người dỡ lều xuống, rồi cứ thế lái xe đi luôn mà chẳng nhớ mình bỏ quên lều. Cháu có thể mượn một cái nếu muốn.”

“Ồ. Cháu cảm ơn ạ. Thế thì tốt quá. Chỉ là… Cháu không biết mẹ con cháu sẽ nghỉ chân tại đây trong bao lâu nữa. Khi nào mẹ tỉnh dậy, cháu sẽ hỏi ngay. Cháu không biết liệu mẹ cháu muốn ở lại hay sẽ lái xe đi luôn.”

“Ừ, vậy thì cháu cứ tới tìm ta nhé. Cháu thấy cái xe moóc to đùng có hàng rào xung quanh ở kia chứ? Vợ chồng ta là chủ khu đất cắm trại này đấy. Nên nếu mấy mẹ con cháu cần gì thì cứ tới chỗ ta nhé.”

“Cháu cảm ơn ạ” tôi nói.

Có lẽ tôi nên nói thêm gì đó. Ông ấy cũng khá tốt bụng đấy chứ. Nhưng tôi vẫn đang lơ mơ buồn ngủ, và vẫn chưa tỉnh hẳn khỏi cơn mơ. Tôi thậm chí còn chẳng biết mình đang ở đâu nữa.

Ông chủ khu trại đi khuất vào làn mưa, hai tay ông giữ mũ trùm đầu để tránh nước mưa rơi vào mặt.

“Hai người vừa nói chuyện gì thế?” Mẹ tôi hỏi. “Mẹ tỉnh rồi à.”

“Ừ.”

“Nhưng mẹ vẫn để con nói chuyện với ông ấy?” “Thế ông ấy nói gì?”

“Ông ấy nói là có thể cho mẹ con mình mượn lều, nếu mình muốn.”

“Tốt. Con chạy theo ông ấy đi. Nói với ông ấy là chúng ta muốn mượn một cái.”

“Con chẳng cần chạy. Con biết ông ấy ở đâu mà. Chúng ta sẽ ở lại đây ạ? Sao chúng ta lại ở đây hả mẹ? Chúng ta đang ở đâu thế?”

“Chúng ta đang ở ngay rìa ngoài thị trấn nhỏ đó.” “Thế tại sao mình lại dừng chân ở đây ạ?”

“Thế theo con thì mình nên đi đâu?”

“Tới một… mẹ biết đấy… chỗ nào đó. Có mái nhà. Trời đang mưa như trút nước. Con nghĩ đây không phải tiết trời thích hợp để cắm trại đâu.”

Tôi nhoài người ra phía trước để xem Sophie có tỉnh giấc trong lúc mẹ và tôi cãi nhau không. Con bé vẫn đang say ngủ.

“Chỗ có mái nhà thì phải có tiền mới ở được. Thế con có tiền không?”

Tôi vẫn quyết định giữ bí mật về số tiền vừa nhận được. Nên tôi đã nói, “Mẹ nói là chúng ta có một ít tiền mà”.

“Mẹ nói là chúng ta chỉ có đủ tiền để ăn HOẶC thuê trọ vài ngày thôi, chứ đâu phải đủ tiền để vừa ăn vừa ở. Mẹ đang nghĩ chúng ta nên dành số tiền đó để mua đồ ăn. Và mẹ còn phải đem xe moóc đi trả nữa cơ. Mẹ sẽ phải lái xe về tận Fresno để trả xe đấy. Đó là thành phố gần nhất có dịch vụ cho thuê xe.”

“Mẹ không thể đem trả được. Đồ đạc của chúng ta vẫn còn ở trong đó mà.”

“Thì chúng ta lôi hết đồ ra thôi. Mẹ trả tiền thuê xe theo ngày đó, nhóc ạ.”

“Vậy mẹ muốn lôi hết đồ đạc ra giữa cơn mưa xối xả thế này, sau đó chúng ta cùng sống trong lều. Và khi chúng ta hết tiền… thì mẹ định làm gì tiếp đây?”

“Con biết đấy… mẹ có thể xin làm việc ở đâu cũng được, ca nào cũng được… chúng ta có thể sống ở bất cứ đâu… nếu không phải vì…”

“Mẹ thôi đi. Mẹ đừng lôi chuyện đó ra nữa.”

“Mẹ phải nói, nhóc ạ. Mẹ xin lỗi. Mẹ không chịu được nữa. Mẹ nghĩ là mẹ hết chịu nổi…”

Rồi mẹ bắt đầu khóc. Mẹ không khóc kiểu giọng run run rồi rơm rớm nước mắt đâu. Mẹ khóc òa lên. “Chúng ta thành người vô gia cư rồi. Con có hiểu không?”

Tôi chẳng nói được lời nào. Nhưng tôi hiểu chứ. Và tôi thấy mình chết lặng.

Tôi cũng hiểu, rằng nếu ai đó phải đứng ra giải quyết mọi việc, thì đó chắc hẳn là tôi.

Tôi trèo qua cửa hậu ra ngoài trời mưa. Rồi chạy tới chiếc xe moóc của ông bà chủ khu cắm trại. Trời mưa to đến mức tôi gần như chẳng nhìn thấy gì. Nhưng chắc chắn chúng tôi đang ở giữa một rừng thường xanh bạt ngàn. Tôi chỉ nhìn được có vậy thôi. Lúc tôi chạy tới chỗ tấm hiên bạt của ông, người tôi đã ướt như chuột lột. Và lạnh thấu xương luôn.

Cửa mở toang, nên tôi ló đầu vào trong và nói, “Xin chào?”.

“Ồ” ông ấy đáp. “Cũng không lâu lắm nhỉ.”

“Mẹ cháu nói chúng cháu sẽ ở lại đây. Nên cháu phải tới mượn lều. Nhưng cháu muốn xin thêm một ân huệ lớn nữa ạ. Cháu muốn xin mượn hai chiếc lều. Vì bây giờ chúng cháu phải dỡ đồ khỏi cái xe moóc kia, để mẹ cháu còn đem xe đi trả ạ.”

Ông gãi bên má lởm chởm những sợi râu xám ngắn ngủn. “Ta không thấy có vấn đề gì mà. Dù sao thì mấy chiếc lều đó cũng sẽ thành đồ bỏ đi nếu cứ nằm mãi ở Khu thất lạc.”

Ông lách người qua cửa, trên đường ông túm lấy chiếc áo đi mưa. Ông vừa chạy vừa khoác nó lên, rồi lại biến mất vào làn mưa. Khi trở lại, ông đem theo hai chiếc túi rút màu xanh lá khác nhau. Một cái dài khoảng hai foot26, cái còn lại có lẽ gần ba foot. Hai chiếc túi đó không dày lắm, nên tôi nghĩ mình có thể ôm được một chiếc mỗi bên.

26 1 foot = 30,5 centimet

“Cháu biết cách dựng lều chưa?” “Dạ chưa.”

“Chà, cái này thì có bản vẽ hướng dẫn đây này. Nhưng nói chung chúng đều giống nhau cả thôi. Đầu tiên cháu hãy ráp từng phần cọc lều trước. Chúng sẽ khớp với nhau. Sau đó cháu luồn chúng qua mấy cái vòng ngoài tấm trải lều. Rồi cháu dựng thẳng lên, sau đó lấy dây thừng cột chặt vào chân cọc. Khi đó chiếc lều sẽ dựng đứng lên như một chiếc mái vòm.”

Tôi nhìn trình tự trên bản vẽ hướng dẫn. Trông có vẻ khá dễ.

“Cháu cảm ơn ông. Cháu nghĩ mình sẽ xoay xở được ạ.” “Còn chiếc này có một tấm lót. Nó có một tấm vải mưa mà cháu có thể đặt xuống phía dưới để ngăn đáy lều thấm nước. Ta khuyên cháu nên ngủ trong chiếc lều này. Còn chiếc lều kia nên để chứa đồ đạc, nhưng cháu hãy đặt những thứ đồ không thấm nước xuống dưới nhé. Nếu cháu có nhiều thùng các-tông thì hãy chất chúng lên phía trên những thứ không thấm nước ấy.”

“Vâng ạ.”

Đáng lẽ một người ba hoặc mẹ phải làm chuyện này chứ. Tôi ước mình cũng có một người ba hay mẹ như thế.

“Nếu có vấn đề gì thì cháu cứ quay lại đây nhé.”

“Vâng.” Tôi quay người, chuẩn bị chạy vào màn mưa tầm tã ngoài kia. Nhưng tôi khựng lại. “Làm sao ông biết chúng cháu không có lều ạ?” Tôi hỏi ông chủ trại. Hai hàm răng tôi bắt đầu lập cập khi hỏi câu đó.

“Làm sao ta biết được. Nhưng mấy mẹ con cháu không phải gia đình đầu tiên mang đủ thứ đồ đạc tới khu cắm trại mà lại không có đồ cắm trại đâu.”

“Ồ. Cháu cứ nghĩ chỉ có mỗi nhà cháu thôi chứ. Cháu tưởng những người khác đều chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng trước khi đến đây.”

Ông cười khịt một tiếng. “Hiếm lắm.”

Tôi lại quay người định chạy về phía màn mưa, nhưng ông giữ tôi lại.

“Đợi đã.”

Tôi đứng lại.

“Ta phải hỏi cháu điều này đã. Ta xin lỗi, nhưng ta thực sự phải hỏi. Cháu có cảm thấy an toàn không? Cháu có bị ai đánh đập không?

Tôi thề, khi đó tôi chưa hiểu ông định hỏi điều gì. Chắc chắn là tôi không hề cảm thấy an toàn. Và tôi thấy đau mỗi lần quay người. Nhưng tôi không nghĩ ông định hỏi tôi về những chuyện đó.

“Cháu không hiểu câu hỏi của ông lắm.”

Ông chỉ ngón tay lên trán. Tôi cũng bất giác đưa tay lên sờ trán mình. Chỗ đó đau nhói.

“À. Cái đó.”

“Ừ, cái đó, và vết sẹo cũ trên môi cháu nữa.”

“Cháu an toàn mà. Không ai đánh đập cháu cả.”

“Ta cũng muốn tin cháu lắm.”

“Vết này” tôi nói, tay chỉ lên trán, “là cháu ngu ngốc nên bị thương thôi ạ. Khi đó cháu nhoài người xuống dưới nhặt đồ, nên bị va đầu vào quầy thu ngân. Còn vết thương trên môi là do em gái cháu. Nhưng con bé không cố tình làm vậy đâu ạ. Thi thoảng cháu cũng bị thương khi trông con bé. Nhưng con bé không tự chủ được. Nó bị rối loạn phổ tự kỉ. Đó là chứng....”

“Ta biết chính xác đó là gì” ông đáp. Tôi thấy ánh mắt ông thay đổi. Ánh mắt ấm áp, cởi mở trước đó hoàn toàn biến mất. Ánh mắt ông trở nên lạc lõng và buồn bã. “Vợ chồng ta cũng có một đứa con trai tự kỉ.”

“Chú ấy bao nhiêu tuổi ạ?” “Ba mươi sáu.”

“Chú ấy vẫn sống cùng ông bà trong đó ạ?” “Không.”

“Vậy thì ông và bà thật may mắn. Ông bà thật may mắn khi chú ấy có thể sống tự lập.”

Ánh mắt ông giờ đây chẳng còn chút ấm áp hay thân thiện nào nữa, thậm chí còn buồn bã và lạc lõng hơn trước. “Không phải thằng bé sống tự lập đâu. Nó bị tự kỉ nặng lắm. Nó đang sống trong một trung tâm chăm sóc đặc biệt dành riêng cho những người như nó.”

Ngay lúc đó, tôi chợt nhận ra một điều. Thực ra là hai. Rằng trong giây lát, tôi đã thấy cảm thông với ông ấy. Nhưng giờ tôi lại không thấy thế nữa.

“Mẹ và cháu không làm vậy đâu” tôi nói.

“Vậy thì chúc mấy mẹ con may mắn. Vợ ta vẫn còn một vết sẹo nhỏ màu trắng trên má. Gần ba chục năm sau mà vết sẹo vẫn còn nguyên.”

“Cháu phải đi đây” tôi đáp. “Cảm ơn ông về mấy chiếc lều ạ.”

Tôi lại đội mưa chạy suốt quãng đường về. Nhưng… về đâu nhỉ? Không thể coi khu đất cho thuê này là nơi để mấy mẹ con tôi nương tựa được. Nó chẳng là gì cả. Nhưng trong thời điểm đó, thì khu cắm trại này lại là tất cả những gì chúng tôi có. Tôi chẳng còn lựa chọn nào khác, ngoài việc coi nơi đây là nhà.

“Mẹ lùi xe lại gần chút nữa đi” tôi nói với mẹ.

Răng tôi va vào nhau lập cập. Tôi đã ướt sạch từ trong ra ngoài sau khi dựng xong hai chiếc lều dưới cơn mưa khủng khiếp này. Nhưng thực ra trước cả khi bắt đầu dựng lều thì tôi đã ướt như chuột lột rồi. Nên tôi cứ tự nhủ, rằng một khi đã bị ướt rồi thì sẽ chẳng thể nào ướt hơn được nữa. Nhưng ngoài trời bây giờ chắc chỉ khoảng bốn mươi độ27 thôi. Tức là có thể tôi sẽ được thấy trận tuyết đầu mùa khi đêm xuống. Sẽ rất tuyệt nếu được ngồi trong nhà ngắm tuyết qua cửa sổ. Hoặc ngắm tuyết trong một bộ quần áo khô. Nhưng giờ đây cả hai điều đó có vẻ đều là bất khả thi.

27 40 độ F bằng khoảng 4,4 độ C.

Tôi thắc mắc không biết chúng tôi có mấy chiếc chăn. Mẹ lại ngồi vào vô-lăng, cố gắng lùi chiếc thùng moóc sát vào cửa chiếc lều lớn. Chiếc lều không có bạt trải phía dưới để giữ cho đồ đạc khô ráo.

Tôi nghe tiếng mẹ chuyển số xe. Tôi cũng nghe thấy tiếng Sophie nữa. Giờ con bé đã tỉnh, nhưng vẫn bị kẹt đằng sau dây an toàn. Nhưng tôi nghĩ có lẽ trên đời này chỉ có mình tôi nhận ra tiếng động đó. Em đã hoàn toàn mất giọng. Nghe em kêu giống tiếng lá xào xạc. Gần giống như tiếng gió lùa mạnh qua đám cỏ khô, nhưng to hơn một chút.

Mẹ lùi xe moóc về phía tôi, nhưng mẹ không đi thẳng, nên ô tô của mẹ bị chệch hướng so với cửa lều.

“Mẹ dừng lại đi!” Tôi hét lớn. Mẹ dừng lại thật.

“Mẹ để xe ở đây là được rồi.”

Cuối cùng tôi quyết định tự mình kéo chiếc lều, bởi kéo lều ra đúng chỗ thùng moóc dễ hơn nhiều so với việc cố gắng bắt mẹ tôi lùi xe về đúng cửa lều.

Tôi kéo mấy chiếc cọc lều lên. Rồi tôi mở toang cửa xe moóc. Sau đó tôi kéo chiếc lều tới, sao cho cửa lều nằm ngay chỗ đuôi xe. Nhưng làm thế cũng chẳng ích gì, bởi giữa cửa lều và toa moóc vẫn là một dòng thác nước không ngớt tuôn rơi, và chúng tôi sẽ phải chuyển đồ qua dòng thác đó. Tôi không cố định lại lều nữa, vì tôi biết chúng tôi sẽ đem rất nhiều đồ nặng đặt vào trong đó.

Mẹ tôi trèo vào phía sau xe moóc và bắt đầu lôi ra một chiếc thùng các-tông.

“Không” tôi nói. “Thùng các-tông để sau cùng. Con nói rồi mà.”

“Ồ. Phải rồi.”

Mẹ đưa tôi chiếc rương kim loại. Hình như mẹ đã ném nó ra tít phía đuôi xe để tôi có thêm chỗ nằm ngủ. Tôi đặt nó sang một bên lều để nó không bị đồ đạc lấp mất.

“Người mẹ ướt sũng rồi này” mẹ nói.

“Con cũng vậy. Con hy vọng mình có nhiều chăn.”

“Có một vài cái. Mẹ không chắc đối với con ‘nhiều’ là bao nhiêu.”

Mẹ đưa tôi một chiếc thùng nhựa đựng toàn khăn tắm. Tôi cũng đặt chúng qua một bên. Tôi chợt hiểu ra mình nên để mọi thứ ở nơi dễ lấy nhất có thể. Nhưng có lẽ điều đó là không thể.

“Mình sẽ cần rất nhiều chăn” tôi nói.

“Trước đây mình có bao giờ thiếu chăn đâu nhỉ.” “Đêm nay trời sẽ lạnh đấy ạ.”

“Nhưng giờ vẫn đang là mùa hè mà.”

“Nhưng mẹ con mình đang ở trên núi mà. Mẹ không biết là ở trên núi nhiệt độ thấp hơn ạ?”

“Ừ nhỉ.” Mẹ đưa tôi một chiếc thùng các-tông. “Mẹ xin lỗi. Mình có nhiều thùng các-tông lắm. Nên mẹ sẽ đưa con mấy chiếc đựng nồi niêu xoong chảo, bát đĩa và đồ linh tinh trước. Có lẽ vỏ hộp sẽ ướt hết, nhưng ít nhất đồ đạc trong đó sẽ không bị hỏng. Trong túi rác cũng đựng mấy thứ có thể để trên nền đất. Nhưng chúng ta không thể xếp chồng nhiều lên mấy cái túi được.”

Tôi đặt chiếc thùng ngay giữa lều, chỗ đó đã ướt sẵn rồi. Tôi không biết nước thấm ngược từ dưới nền, hay bị gió thổi từ ngoài vào qua cửa lều. Hoặc đó là nước từ người tôi chảy xuống. Tôi không thể tin mình sẽ phải sống khổ sở thế này một thời gian nữa.

“Mẹ đưa Sophie đi cùng khi quay lại đó trả xe nhé” tôi nói.

“Con không đi cùng à?” “Không ạ.”

“Sao con không đi?”

“Con cần thay quần áo và lau khô người.” “Mẹ và em sẽ chờ.”

“Con không muốn để lại đống đồ của chúng ta không người trông nom thế này. Nhỡ ai đó ăn trộm đồ của mình thì sao?”

“Có đồ gì đáng giá đâu.”

“Nhưng đây là tất cả đồ đạc của chúng ta.”

“Sớm hay muộn thì mình cũng phải bỏ chúng lại thôi.” “Con không đi đâu. Được không ạ? Con không muốn đi. Con thấy khó chịu, và con muốn được ở một mình. Con muốn một chút thời gian một mình. Bình thường con sẽ chạy ra ngoài nếu muốn được ở một mình, nhưng giờ chúng ta không sống trong khu dân cư như thế nữa, và ngoài trời lại còn vừa mưa vừa rét nữa chứ. Nên mẹ đem theo con bé đi trả xe đi, như vậy thì chí ít con cũng được ngủ lại trong lều một mình. Mẹ đã nghĩ về những khó khăn sắp tới chưa, nếu chúng ta cứ sống như thế này? Cả ba người chúng ta, trong một chiếc lều? Trong cơn mưa xối xả thế này?”

“Trời không thể mưa suốt được đâu.”

Mẹ đưa tôi một chiếc hộp khác. Chiếc hộp đó có vẻ nhẹ.

“Đã đến hộp quần áo rồi cơ ạ?”

“Mẹ không biết” mẹ đáp. “Mẹ chẳng nhớ mẹ để gì trong mấy chiếc thùng đó nữa. Mẹ chỉ nhét hết đồ lên trên đống đồ làm bếp. Mẹ chẳng biết mình cho gì vào trong nữa. Lúc đó mẹ vội quá mà.”

“Vậy khi trời tạnh mưa thì sao? Ở đây làm gì có hàng rào. Chúng ta cũng chẳng có sân. Làm thế nào chúng ta giữ chân được con bé đây, nếu chúng ta không có hàng rào?”

“Mấy lời phàn nàn của con chẳng giúp ích được gì cả, Angie ạ.”

“Vâng, con xin lỗi. Hiện giờ con chỉ có nhiêu đó thôi.” “Con vào trong lều bên cạnh tận hưởng thời gian một mình của con đi. Mẹ sẽ chuyển đồ nốt. Sau đó mẹ sẽ đưa Sophie đi cùng tới chỗ trả xe moóc.”

Tôi nhanh chóng lẻn vào màn mưa trước khi mẹ thay đổi ý định.

“Mẹ thả con bé ra trước đi đã” tôi nói. Mặc dù tôi phải đứng trong mưa để nói điều này.

“Tại sao? Con vừa nói là không có hàng rào mà.”

“Mẹ không thể nhốt con bé bằng dây an toàn cả ngày như thế được. Tới lúc mẹ quay lại đây là tròn một ngày rồi. Như thế là độc ác. Như thế là ngược đãi con bé đấy.”

Nước mưa chảy vào mắt và tai tôi.

Mẹ không trả lời. Nên tôi chui vào chốn nương thân của mình.

Nhưng chỗ đó cũng chẳng giống chốn nương thân cho lắm. Được cái là ở trong này không bị nước mưa xối vào, chỉ vậy thôi. Trong lều chẳng có gì ngoài tôi. Và tôi thì ướt như chuột lột từ trong ra ngoài rồi, nên tôi càng ngồi bó gối run rẩy lâu trong này, thì nước trên người tôi chảy xuống càng nhiều.

Nhưng ít ra tôi được ở một mình.

Khoảng một giờ sau tôi mới mở cửa lều và ló đầu ra ngoài. Gió tạt nước mưa vào lều, khiến cho chiếc hồ tôi vừa tạo nên ngày càng lớn.

Tôi bắt đầu thắc mắc tại sao mẹ đi lâu tới vậy.

Tôi rất muốn đi sang chỗ lều lớn để lấy khăn tắm và quần áo khô, và cả chăn nữa. Nhưng tôi cố đợi đến khi mẹ và Sophie đi hẳn. Khi ấy tôi nghĩ, chắc hẳn mẹ và Sophie đã đi rồi. Tôi thắc mắc không biết chuyện gì đang xảy ra ngoài đó. Tôi biết nếu mẹ đánh xe đi, thì tôi phải nghe thấy tiếng mẹ khởi động xe và tiếng xe chạy chứ.

Nhưng chiếc xe và thùng moóc vẫn ở ngay vị trí của nó. Và tôi chẳng thấy mẹ và Sophie đâu cả.

Tôi trèo ra ngoài màn mưa.

Tôi chạy sang lều chứa đồ để tìm họ.

Trong đó chẳng có ai cả. Chỉ có khoảng hai phần ba số đồ đạc của chúng tôi. Hình như mẹ còn chưa dỡ đồ xong nữa kìa.

Tôi nhìn vào trong xe moóc. Chẳng còn gì trong đó cả.

Đúng là mẹ không đùa khi nói chúng tôi không có nhiều đồ đạc.

Tôi nhìn lại đống thùng hộp chất trong lều, cố hiểu rằng đây là tất cả những gì chúng tôi có. Tôi thấy điều này không thể là thật được. Sao thảm quá vậy.

Tôi thở dài những mấy lần, rồi vớ lấy chiếc thùng nhựa đựng khăn tắm. Tôi thấy một chiếc túi rác to buộc chặt, trông có vẻ giống túi đựng chăn. Tôi vớ lấy luôn mà không thèm mở ra kiểm tra.

Tôi chạy về phía căn lều ngủ, nhưng quên mất chưa lấy quần áo khô. Khi tôi đã đóng cửa lều và nhớ ra điều đó, tôi nghĩ mình không thể cáng đáng nổi. Phiền hà quá.

Mọi thứ đều quá sức chịu đựng của tôi.

Tôi mở nắp thùng đựng khăn tắm và lấy chiếc cũ nhất ra. Tôi dùng nó để thấm mấy vũng nước trên sàn lều. Nhưng chiếc khăn sũng nước rất nhanh, còn sàn lều thì vẫn ướt nguyên. Tôi lại lôi ra một chiếc khăn nữa.

Tôi thấy hộp đồ trang sức của mẹ ở phía dưới. Điều này kì lạ thật, vì mẹ đã bán hết đồ trang sức từ lâu lắm rồi - cũng chỉ có mấy món đồ ít ỏi của bà ngoại bán được giá thôi. Tôi thắc mắc sao mẹ vẫn còn giữ chiếc hộp này. Rồi tôi thắc mắc mẹ để đồ gì trong đó, nếu không phải là trang sức.

Tôi mở nắp hộp.

Trong đó có một chiếc ví, đồng hồ Timex, và nhẫn bạc trơn.

Tôi mở ví ra xem. Trên tấm bằng lái xe là khuôn mặt ba đang cười với tôi. Đó là một cú sốc mà tôi không tài nào diễn tả được. Tôi liền gập ngay chiếc ví lại, rồi ném vào chỗ cũ, sau đó đóng nắp hộp trang sức. Tôi cẩn thận đặt một chiếc khăn sạch lên trên rồi đậy nắp thùng lại.

Đầu tiên tôi nghĩ, à, mình hiểu rồi. Có lẽ các chú cảnh sát đã đem trả những vật đó cho mẹ.

Nhưng mẹ chưa bao giờ kể với tôi là các chú cảnh sát đã trả lại những vật dụng của ba. Tại sao mẹ không kể cho tôi chuyện đó? Vả lại, cảnh sát chỉ có thể trả lại đồ của nạn nhân khi họ bắt được tên tội phạm thôi. Nhưng họ đâu có bắt được ai đâu.

Sau đó tôi nghĩ, như vậy nghĩa là cảnh sát đã bắt được tên sát nhân. Dù tôi biết hay không biết điều đó.

Nhưng nếu thế thì phải có một phiên tòa xét xử chứ. Mà sao tôi lại chẳng biết gì nhỉ? Chắc chắn phiên tòa phải xuất hiện trên bản tin thời sự, hay trên các mặt báo. Những đứa khác trong trường, và những người hàng xóm chắc phải biết chứ.

Tôi xé toạc chiếc túi đựng chăn, dù tôi biết đáng lẽ mình phải mở túi cẩn thận hơn. Tôi lấy chăn trùm kín người và cứ ngồi đó thắc mắc về việc mẹ tôi và Sophie đã đi đâu dưới cơn mưa khủng khiếp này, mà chiếc xe thì vẫn còn đó.

Nhưng tôi không thể ngừng nghĩ đến chiếc đồng hồ, ví tiền và nhẫn cưới của ba.

Tôi đã nghĩ, mình không thể hiểu nổi điều đó.

Ngoại trừ việc… tôi biết điều đó có nghĩa là tất cả những điều tôi từng tin tưởng, có lẽ không hoàn toàn là sự thật.

Có lẽ phải một giờ sau tôi mới thấy mẹ ló đầu qua cửa lều. Nước mưa nhỏ giọt từ mái tóc dài của mẹ xuống sàn, đọng lại thành vũng trên nền lều mà tôi đã cố hết sức để lau khô.

“Chúng ta gặp rắc rối rồi” mẹ nói.

Trong đầu tôi nghĩ, Mẹ nói dối à? Có phải mẹ nói dối con không? Bởi đó mới là vấn đề đấy.

Nhưng tôi lại hỏi, “Sophie đâu ạ?”.

“Đó là vấn đề đấy. Mẹ chịu thôi. Mẹ thả con bé ra, và con bé bắt đầu chạy. Mẹ đã cố đuổi theo để bắt con bé lại, nhưng mẹ lại trượt chân vì vũng bùn. Khi mẹ đứng dậy được thì con bé đã biến mất. Mẹ tìm con bé hàng giờ rồi. Chắc nó đang trốn. Mẹ chẳng biết phải làm gì nữa.”

Đó là cách mẹ tôi muốn nói, “Giờ con hãy làm gì đó đi”. Khi mẹ nói rằng bà không biết phải làm gì nữa, nghĩa là tới lượt tôi phải ra tay.

Tôi ngồi im một lát. Tôi không chắc mình nên nói gì. Có vẻ sự im lặng của tôi khiến mẹ lo lắng.

“Con nghĩ mẹ có nên nhờ người chủ khu trại giúp đỡ chúng ta không?” Mẹ hỏi. “Ông ấy có vẻ tốt bụng.”

“Không ạ” tôi đáp. Tôi nghĩ ông ấy sẽ vin lấy cớ này để chứng minh mẹ và tôi không thể kiểm soát nổi con bé. Rằng vợ chồng ông đã đúng, còn mẹ con tôi thì sai. Nhưng tôi không nói ra điều đó. “Ông ấy sẽ làm được gì cơ chứ? Nếu mẹ không tìm thấy con bé thì làm sao ông ấy tìm được chứ?”

Mẹ lại im bặt. Tôi thấy toàn thân mình đông cứng hệt như trong giấc mơ lúc trước. Chẳng bộ phận nào trên người tôi chịu nhúc nhích cả. Tôi lại thấy mình không thể động đậy.

“Nhóc à” mẹ nói, “chúng ta phải làm gì đó thôi”.

Tôi nói, “Con không thể làm được điều này. Mẹ không thể cứ bắt con lo liệu mọi chuyện mãi thế được”. Tôi không chịu nổi nữa, cũng chẳng nghĩ ra được gì cả, và suýt nữa thì tôi phát khóc. Bây giờ tôi vừa lạnh, vừa ướt sũng, lại còn là đứa vô gia cư nữa. Nhưng tôi mới mười bốn tuổi. Tôi không phải mẹ ai cả. Tôi không để lạc Sophie. Nếu tôi phải đi tìm con bé thì thật không công bằng.

Nhưng tôi không nói ra những điều đó.

Khi tôi mở miệng nói tiếp, tôi thấy mình nói, “Mẹ có số điện thoại của ông Paul không?”.

“Không, nhưng mẹ có địa chỉ nhà ông ấy.”

“Con muốn gọi điện báo trước. Con nghĩ ông ấy sẽ phát hoảng nếu con xuất hiện bất thình lình như vậy.”

“Được rồi. Để mẹ ra bốt điện thoại xem có danh bạ không nhé.”

Tôi ngồi thêm một lúc nữa, tự hỏi sao mình không nghe thấy tiếng mẹ gọi Sophie. Tôi chỉ có thể đoán là mẹ không gọi con bé. Có lẽ mẹ mặc định là có gọi thì em cũng chẳng về.

Rồi tôi tiếp tục thắc mắc, không biết liệu có phải Sophie sợ mẹ hơn tôi nên mới cố tình lủi đi như vậy hay không.

Tôi thò đầu ra ngoài cửa lều và hét to tên con bé. Tôi không định hét to như thế, nhưng đúng là tôi đã hét thật. Tôi nghĩ có lẽ tiếng hét ấy của tôi chất chứa hết cả những sợ hãi, hỗn loạn… tất cả những điều bấy lâu nay tôi đã cố kìm nén trong lòng.

Cửa lều bên cạnh bật mở, và tôi thấy ai đó ngó ra ngoài. Trên một căn nhà di động, có người kéo chiếc rèm cửa sang bên. Sau đó chẳng có gì nhúc nhích nữa. Dù Sophie đang ở đâu, thì con bé cũng không thể nghe thấy tôi. Hoặc là vậy, hoặc con bé có thể nghe rõ ràng nhưng quyết định tiếp tục im lặng.

Tôi ngước lên thì thấy mẹ ở cửa lều. “Chẳng có danh bạ đâu” mẹ nói.

“Thôi được rồi. Mẹ đưa con đến đó đi.” “Đưa con đến đó á?”

“Mẹ không nghe thấy con nói gì thật à?”

“Nhỡ con bé quay lại khi chúng ta tới đó thì sao?”

“Con không biết. Con chỉ biết ta cần thử cách này thôi. Chúng ta phải làm gì đó thực sự hiệu quả. Con bé chắc đang ướt sũng hết từ trong ra ngoài rồi. Nếu tối nay nhiệt độ xuống âm… thì có thể… con bé sẽ chết cóng. Con bé chẳng thể nào sống sót qua đêm nay đâu.”

Mẹ tôi lại im lặng. Mẹ vẫn đứng dưới trời mưa tầm tã, mà chẳng hề có ý định vào lều hay lau khô người.

“Mẹ nghĩ chúng ta cần gọi cảnh sát” mẹ nói. “Để con thử cách này xem đã.”

“Chúng ta đang lãng phí thời gian đó con à.”

“Nhưng cách này có thể thành công mà. Nếu thế thật thì chúng ta sẽ chẳng phải báo cho ai hết. Ngộ nhỡ mấy chú cảnh sát tìm thấy con bé và giữ nó lại thì sao ạ?”

“Họ giữ con bé lại làm gì chứ?”

Tôi không đáp.

Một lát sau, tôi đoán là mẹ đã chán đứng dầm mưa, vì mẹ chui vào lều và ngồi sát bên tôi. Tôi cảm thấy nước mưa từ trên người mẹ lại bắt đầu tuôn xuống sàn, tạo thành một vũng nước mới tràn cả sang phía mông tôi.

“Họ giữ con bé lại làm gì chứ?”

“Con không biết. Vì chúng ta không quản được con bé chăng? Nếu ta không trông được nó, họ sẽ phải tới tìm giúp chúng ta bao nhiêu lần nữa?”

“Nghe này, nhóc. Họ có thể bắt mẹ con mình trả tiền cho lần giải cứu thứ hai hay thứ ba gì đó. Thậm chí họ có thể từ chối nhận cuộc gọi từ chúng ta. Nhưng họ không thể giữ con bé lại đâu.”

“Cảnh sát tước lũ trẻ từ tay phụ huynh nếu những người cha mẹ đó không thể bảo vệ được con cái mình.”

“Mẹ nghĩ trường hợp đó chỉ xảy ra nếu người làm cha mẹ không đủ tư cách nuôi con thôi.”

“Mẹ chắc chứ?”

Mẹ lại im lặng hồi lâu.

Rồi mẹ hỏi, “Thế ông Paul sẽ làm gì?”.

“Chẳng gì cả ạ. Con không định nhờ ông ấy làm gì hết. Nhưng con nghĩ cô chó của ông ấy sẽ giúp được chúng ta. Giả sử con hét thật to với Sophie rằng Rigby đang ở cạnh con? Chắc chắn con bé sẽ chạy ngay tới chỗ con khi con bé nghe thấy điều đó.”

Mẹ lại thở dài. “Nhưng nếu con bé không chạy tới thì sao?”

“Mẹ để con thử đi mà. Đây là cơ hội tốt nhất của chúng ta đó. Nếu mẹ nhờ cảnh sát đến tìm kiếm và giải cứu thì con bé cũng sẽ trốn lui lủi tiếp thôi. Con nghĩ đây là cách duy nhất có khả năng thành công.”

“Vậy mẹ sẽ đi nhờ người chủ trại để mắt tới con bé khi chúng ta rời khỏi đây.”

“Vâng. Sao cũng được ạ.”

Mẹ lại chui ra khỏi lều, khiến mưa ngoài trời đua nhau táp vào mặt tôi. Tôi kéo cửa lều lên.

Khi đó tôi tự hỏi, không biết bây giờ là mấy giờ rồi. Liệu lúc đó đã đến buổi chiều chưa. Rồi tôi lại thắc mắc không biết mẹ và tôi còn bao nhiêu thời gian. Liệu trời có ngừng mưa không. Liệu tuyết có rơi không. Liệu cả cánh rừng đẫm nước mưa kia có đóng thành băng không. Liệu mặt đất có trở nên trơn trượt, và những cành cây liệu có gãy rụng bởi sức nặng của những cột băng không.

Và tôi cũng tự hỏi liệu đó có phải lỗi của mình, vì tôi đã bảo mẹ phải thả Sophie ra không.

Tôi tự hỏi liệu mẹ và tôi có được gặp lại con bé nữa không.

Tôi mở thùng khăn tắm, rồi vớ lấy chiếc hộp nữ trang của mẹ và chạy sang lều chứa đồ bên cạnh. Tôi giấu nó vào giữa mớ ga giường trong một chiếc hộp các-tông. Mẹ chẳng nhớ được mình đã nhét chiếc hộp đó vào thùng nào đâu. Ít nhất đó là điều tôi hy vọng. Và tôi không muốn mẹ phát hiện chuyện tôi đã thấy nó.

“Mẹ dừng xe ở góc kia đi.” “Con chưa chán dầm mưa à?”

“Mặc kệ. Con không muốn ông Paul nhìn thấy mẹ. Nếu ông ấy thấy xe mẹ đậu ngoài cổng nhà… thế thì có khác gì chúng ta theo dõi ông ấy đâu? Ông ấy sẽ hoảng đấy. Nên con phải đi vào đó một mình.”

Tôi lại bước ra ngoài màn mưa, nhưng giờ mưa đã ngớt đi nhiều, chỉ còn lun phun tựa như một màn sương dày đặc thôi.

Tôi ngước mắt nhìn quanh. Thậm chí tôi còn chẳng nhìn rõ mấy ngôi nhà quanh đây. Tôi chỉ thấy mấy hòm thư thôi. Và mặt đường cũng không trải nhựa. Ý tôi là, trong thị trấn vẫn là đường nhựa như thường, nhưng đường xá khu dân cư ngoài này lại trải sỏi và bùn sình, còn xung quanh đặt rất nhiều hòm thư và cây cối rậm rì.

Tôi quẹo ở góc đường, lần mò trong màn mưa và tìm thấy đúng chiếc hòm thư có số địa chỉ mình cần. Trên hòm thư còn có những bông hoa tự vẽ. Trông không giống phong cách của ông Paul lắm. Tôi thắc mắc liệu có phải bà Rachel đã vẽ mấy bông hoa, và có phải Paul cố tình giữ chúng lại, vì bà ấy đã tự tay vẽ chúng hay không.

Tôi vẫn không nhìn thấy nhà ông Paul, mà chỉ thấy ba nhịp cầu thang rất dài chạy thẳng bên sườn đồi, xung quanh phủ kín bởi các loài cây đương độ đơm bông. Chúng bao bọc lối cầu thang như một căn hầm bí mật vậy. Tôi thấy những nhánh cây gần cửa trước đã được tỉa gọn để không chắn mất lối vào.

Tôi đi gần hết nửa nhịp thang thứ ba mới thấy ngôi nhà của ông. Đó là một ngôi nhà gỗ mái chữ A sơn xanh, với những chiếc cửa chớp có viền màu trắng. Trông hệt như một ngôi nhà trong truyện cổ tích vậy.

Tôi nhận ra nãy giờ mình vẫn đang nín thở.

Rồi tôi bắt đầu nghĩ ông Paul không sống ở đó. Có khi mẹ tôi đã nhầm to rồi. Tôi cảm thấy hết sức khó tin khi ông Paul sống trong căn nhà thần tiên kia.

Rigby chen ngang dòng suy nghĩ của tôi. Nó sủa những hai lần. Chắc nó nghe thấy tiếng bước chân của tôi, hoặc đánh hơi thấy tôi đi lên cầu thang.

Vậy ra đó không phải mơ, cũng chẳng phải nhầm lẫn gì sất.

Tôi thấy ông Paul nhòm ra ngoài từ sau ô cửa sổ. Trong giây lát, tôi đã định chạy trốn. Tôi thấy sợ điều ông đang nghĩ. Nhưng tôi cố trấn tĩnh lại. Tôi tự nhủ rằng suy nghĩ của ông không quan trọng. Nhưng thực ra là có đấy. Tôi không biết tại sao suy nghĩ của ông lại quan trọng với tôi nhiều đến vậy.

Cánh cửa trước bật mở. Ông đứng ngay đó, nhưng ông chẳng nói gì, chỉ nhìn tôi chằm chằm.

“Cháu biết” tôi mở lời. “Chuyện này thật kì lạ. Cháu biết ạ.”

Rigby nhoài người về phía tôi và lúc lắc toàn thân. Nhưng nó không dám bước ra khỏi cửa, trừ khi ông chủ của nó ra ngoài trước.

“Sao cháu tìm được địa chỉ của ta vậy?” “Chị dâu của ông đã nói cho chúng cháu.”

“Thế tại sao cháu lại tới đây tìm ta?”

“Câu hỏi này thì hơi khó giải thích hơn một chút ạ.” “Trông cháu buồn quá. Mọi chuyện ổn chứ?”

“Không ạ. Chẳng có chuyện gì ổn cả. Cháu có thể vào nhà không ạ?”

Ông im lặng một hồi lâu. Chắc hẳn ông đang suy ngẫm về câu hỏi của tôi. Chắc ông muốn nói ‘không’ lắm. Đúng là kì quặc, khi chưa đầy hai ngày sau, chúng tôi đã theo đuôi tới tận căn nhà mới của ông. Đúng là hết sức kì quặc. Và rõ ràng giờ đây cuộc sống của tôi còn phức tạp hơn trước, nhưng tôi lại xin phép mang mớ lộn xộn đó vào phòng khách nhà ông. Trong một thoáng, tôi đã nghĩ, nếu ông có sập cửa trước mặt tôi ngay bây giờ, thì tôi cũng sẽ không hé nửa lời trách móc ông đâu.

“Được chứ” ông đáp, và ông lùi lại khỏi lối cửa ra vào. Tôi bước vào bên trong.

Căn nhà tuy nhỏ nhưng đẹp tuyệt. Sàn nhà được làm bằng gỗ cứng. Mọi thứ đều được đóng bằng gỗ. Mấy ô cửa sổ còn có cửa chớp phía trong nữa. Ông chưa dỡ bất kì thùng đồ nào. Tất đồ đạc của ông vẫn yên vị trong những chiếc hộp được xếp ngay ngắn thành chồng trong phòng khách mới.

Rigby mừng rỡ đến mức nhảy cẫng lên vì phấn khích. Và tôi thấy nó kì lạ ghê, vì khi nhảy thì đầu nó sẽ cao quá đầu tôi, và như thế thì nó không thể liếm mặt tôi được.

“Nằm xuống, Rig” ông ra lệnh. Nó nằm xuống thật.

Ông Paul nhấc vài thùng các-tông ra khỏi chiếc trường kỷ bằng da và ra dấu cho tôi ngồi xuống. Tôi ngồi lên đó, dù biết quần áo tôi đều đã ướt hết cả. Tôi đã tự hỏi liệu nước mưa trên người mình có làm hỏng chiếc ghế da đẹp đẽ của ông không.

Rồi tôi tự hỏi, liệu giữa chúng tôi thực sự có tình bạn không. Cho dù tình bạn giữa chúng tôi có hơi khác thường đôi chút.

Tôi nghĩ mình sắp biết được điều đó.

“Thế cháu gặp phải chuyện gì vậy?” Ông hỏi từ đầu bên kia của chiếc trường kỷ.

Rigby mừng rỡ vẫy đuôi và tiến lại gần chỗ tôi, rồi liếm lên cổ tôi. Tôi choàng tay ôm chiếc đầu to lớn của nó. Tôi thấy thật mừng khi được gặp lại nó, mừng phát khóc. Suýt nữa tôi khóc thật.

“Cháu chẳng biết mình nên bắt đầu kể từ đâu. Mấy mẹ con cháu bị Dì Vi đuổi khỏi nhà ngay sau khi ông rời đi. Bây giờ chúng cháu thành người vô gia cư cả rồi. Nên mẹ cháu đã nghĩ ra ý tưởng điên rồ là đưa chúng cháu đến đây. Đầu tiên cháu nói với mẹ rằng như thế thật điên rồ. Đúng là điên rồ. Rằng ông sẽ phát hoảng, và ông sẽ ghét chúng cháu mãi mãi. Nhưng sau đó cháu nghĩ, Nếu hai người họ không đến gần ông thì sao? Nếu ông không bao giờ phải gặp một trong hai người bọn họ thì sao? Ông chỉ phải gặp cháu thôi. Giả sử cháu chỉ tới đây một lần mỗi ngày để đưa Rigby đi dạo miễn phí cho ông, thì ông sẽ không bao giờ phải gặp Sophie. Hoặc nghe thấy tiếng con bé. Và ông cũng sẽ không bao giờ phải nói chuyện với mẹ cháu. Sophie sẽ chỉ gặp Rigby khi chúng cháu đi dạo thôi. Và có thể tinh thần con bé sẽ ổn định lại như đợt trước ở nhà Dì Vi, khi nó được chờ đợi Rigby mỗi ngày. Và như vậy thì mẹ con cháu sẽ bớt được một phần gánh nặng.”

“Làm sao mà mẹ con cháu nhẹ gánh được chứ? Kể cả như vậy thì mấy mẹ con vẫn không có nhà để ở mà.”

“Không đâu ạ. Chúng cháu có thể ở bất cứ đâu, miễn là Sophie ngoan ngoãn và im lặng như hồi con bé ở nhà Dì Vi.” Tôi chờ đợi. Tôi thấy những nếp nhăn hằn rõ trên trán khi ông cau mày.

“Mấy mẹ con cháu sẽ sống ở đây. Ở đây. Đúng là kì quặc thật. Ta sẽ không nói dối cháu đâu. Đúng là rất kì quặc khi ta đã cố tình chuyển đi thật xa, nhưng lại gặp cả mấy mẹ con tại đây lần nữa.”

“Cháu biết ạ. Cháu đồng ý với ông. Cháu xin lỗi ông ạ.”

Im lặng.

Tôi đã định đứng dậy và bước ra khỏi nhà ông trong nỗi thất bại ê chề.

“Giờ ta lại dắt Rigby đi dạo được rồi” ông tiếp tục. “Lưng ta đỡ hơn rồi.”

“Vậy nó không thích được đi dạo hai lần mỗi ngày hả ông? Như vậy không phải nó sẽ vui gấp đôi ạ?”

“Không cần đâu. Nó già rồi.”

“Nó già rồi sao ạ? Nó bao nhiêu tuổi rồi ạ?” “Sáu tuổi rưỡi.”

“Như vậy đâu phải là già.”

Nhưng lúc nào tôi cũng để ý tới chiếc mõm xám của nó.

“Đối với loài Great Dane là vậy đó. Chúng không sống thọ. Thông thường chúng chỉ sống được bảy, tám năm là cùng thôi.”

“Thế thì tệ thật.” “Vậy đó, cháu ạ.”

“Thế tại sao mọi người biết vậy mà vẫn nuôi chúng ạ?” “Vì chúng là loài chó tuyệt vời.”

“Nhưng thật tệ khi một chú chó tuyệt vời chết đi, khi nó mới chỉ sống được có bảy năm.”

“Hoặc tám. Hoặc chín, hay mười năm gì đó. Ai mà biết được chứ? Cháu nghe này, có thể mỗi ngày ta sẽ dắt nó đi dạo một dặm, và cháu phụ trách đưa nó đi thêm một dặm nữa. Vì nó bắt đầu già đi, ta nghĩ chia ra thành hai chuyến ngắn có thể sẽ tốt hơn cho nó, nếu so với một chuyến đi dài.”

Tôi định trả lời, nhưng tôi chẳng biết mình nên nói gì cho phải. Dù không biết chắc chắn, nhưng tôi cũng chưa từng kì vọng cách này sẽ thành công. Tôi đã nghĩ mình sẽ bị tống cổ ngay khỏi nhà ông, kèm thêm vài câu chẳng hay ho gì. Và có khi ông còn đá tôi bay tít xuống dưới chân cầu thang luôn ấy chứ. Bây giờ chỉ cần một chiếc lông chim là đủ đánh bay tôi rồi.

“Ông đồng ý ạ?”

“Không phải cháu muốn thế sao?”

“Vâng. Nhưng cháu không nghĩ ông sẽ đồng ý. Thực ra cháu khá chắc chắn là ông sẽ nói ‘không’ đấy.”

“Cháu định cứ nói mãi về quyết định khác thường của ta vậy à? Cháu muốn nói với ta khi nào cháu muốn bắt đầu không?”

“Hôm nay ạ. Cháu rất, rất muốn bắt đầu ngay hôm nay.

Ồ. Nhưng liệu đi ra ngoài trời mưa thế này có làm Rigby bị ốm không ạ? Hoặc khi trời lạnh? Ý cháu là… vì bây giờ nó bắt đầu già đi rồi?”

“Trời tạnh mưa rồi mà.” “Vậy ạ?”

Tôi theo chân ông tới bên cửa sổ. Rigby cũng đi cùng chúng tôi. Ngoài kia, những đám mây dần dần khuất dạng, để lại phía sau một bầu trời xanh vắt.

“Thế cháu định đưa Rigby đi đâu? Cháu có biết đường đi trong thị trấn không?”

Khi đó tôi vẫn đang thấy choáng khi nghĩ đến việc ông trời đã ngừng mưa thật đúng lúc để cứu mình. Tôi cứ nghĩ trời sẽ mưa mãi chứ. Hoặc ít nhất là mưa thêm một lúc lâu nữa.

Tôi đáp, “Ông còn nhớ lần trước ông đã thấy thích thú ra sao khi cháu nói với ông sự thật, cho dù cháu không cần kể với ông chuyện đó không ạ?”.

“Chuyện kẹo cam thảo ấy hả.”

“Vâng, đúng ạ. Cháu cần đưa Rigby về khu cắm trại mẹ con cháu đang ở tạm và đưa nó đi thám thính một vòng. Sophie chạy khỏi mẹ cháu, nhưng cháu nghĩ con bé sẽ không trốn nữa nếu cháu đưa Rigby tới.”

Ông nhìn tôi với nét mặt dò xét. Tôi cảm giác ông sẽ nói “không”.

“Cháu còn chưa đủ tuổi lái xe mà.”

“Không, không phải cháu lái đâu ạ. Là mẹ cháu đưa cháu đến mà.” Rồi tôi vội vã nói thêm, “Cháu bắt mẹ đứng đợi ở góc đường. Để mẹ không tới gần nhà ông”.

Nụ cười thoáng qua một bên khóe miệng ông, hệt như nụ cười tôi đã thấy lần trước đó. Ở chỗ nhà cũ. Tôi cảm tưởng chuyện đó đã qua lâu lắm rồi. Như thể tôi đã tái sinh sang một kiếp khác vậy.

Sau đó ông rời khỏi căn phòng.

Khi quay lại, ông cầm theo dây da của Rigby. Mọi căng thẳng và sợ hãi trong tôi dần tan biến.

“Với một điều kiện” ông nói. “Rằng cháu phải đặt ra giới hạn thời gian hợp lý. Có thể là hai giờ đồng hồ. Nếu sau hai giờ mà con bé vẫn chưa xuất hiện thì nghĩa là cách này không thành công. Khi đó ta muốn cháu đưa Rigby về nhà cho ta.”

Tôi chìa tay ra để bắt tay với ông, và ông Paul cũng đáp lại.

“Ông không tưởng tượng được cháu cảm kích đến mức nào đâu.”

“Cháu đi đi. Trên núi trời tối nhanh lắm. Và sắp có bão tuyết đấy.”

“Cháu biết ạ.”

“Chúc cháu may mắn nhé.” “Cháu cảm ơn ông.”

Tôi nghĩ tôi nên nói nhiều điều hơn nữa. Và thực sự thì tôi cũng muốn nói nhiều hơn. Nhưng đầu tôi vẫn chưa nghĩ thông suốt về những điều mình định nói. Nhưng ông đã đúng. Chúng tôi không còn nhiều thời gian.

“Sophie ơi? Sophie, đoán xem chị đưa ai đến này? Là Rigby. Rigby đang ở đây đấy. Là Chu này! Em đến đây xem đi. Thật đấy, chị không lừa em đâu. Là Chu đấy!”

Đại loại là tôi đã réo lên như vậy ít nhất ba mươi lần. Nhưng vẫn chẳng có động tĩnh gì cả. Có thể con bé đang trốn ngoài tầm nghe khoảng một dặm hoặc hơn. Hoặc có thể tôi đã đi lệch hướng hoàn toàn.

Tôi nhìn xuống Rigby.

“Này Rigby, mi có biết Sophie đang ở đâu không?”

Nó hếch mũi lên theo hướng gió. Tôi nghĩ nó chưa thể ngửi được mùi gì ngay. Nhưng tôi biết nó hiểu câu hỏi của tôi. Hoặc có thể tôi tự tưởng tượng thế do quá đỗi hy vọng.

Chúng tôi chạy lên đỉnh sườn dốc, và đó là lần đầu tiên tôi phóng tầm mắt nhìn ra xung quanh kể từ khi đặt chân tới thị trấn này. Tôi hoàn toàn choáng ngợp. Chúng tôi thực sự đang ở trên núi. Tôi chẳng hề để ý tới cảnh vật xung quanh cho tới tận lúc đó. Tôi nhìn qua một hẻm núi, và thấy dãy Sierra Nevada trải dài tới tận chân trời. Trên một vài ngọn núi thậm chí còn phủ tuyết trắng xóa. Tôi còn thấy một chiếc hồ nhỏ và những cành cây tỏa ra từ đá núi. Bầu trời trên cao xanh màu ánh thép, gần dãy núi là khoảng trời xanh đậm, còn phía trên là những sóng mây trắng muốt đang chầm chậm trôi.

Trong một thoáng, tôi lại có cảm giác hệt như khi tôi vừa đến trước cửa nhà ông Paul. Kiểu như những điều tôi thấy chỉ là tự tưởng tượng thôi, chứ thực ra chúng không hề tồn tại.

“Sophie ơi?” Tôi lại gọi tiếp. “Chị đưa Chu đến này!”

Tôi chẳng nghe thấy tiếng ai đáp lại cả. Nhưng đột nhiên, Rigby lôi tôi xềnh xệch xuống dưới sườn đồi, gót chân tôi lướt qua hàng đống bùn sình và đá mòn. Rigby chưa bao giờ kéo tôi đi như vậy, nên tôi biết chắc hẳn nó đã nghe thấy hoặc đánh hơi thấy mùi gì đó rồi. Tôi trượt chân mấy lần rồi mới đứng vững lại được, sau đó thì lại ngã oạch. Rồi tôi lại trượt chân, vồ ếch, nhưng Rigby đã kéo tôi dậy để chúng tôi tiếp tục đi.

Mặt đất dần bằng phẳng hơn, và Rigby kéo tôi tới một chỗ đầy đá tảng to đùng. Chắc mỗi tảng đá ở đó cũng phải to cỡ một chiếc xe con.

Giữa những tảng đá, tôi thấy Sophie nằm trong vũng bùn. Toàn thân con bé ướt nhẹp và run rẩy. Em mở mắt, ngước nhìn. Nhưng không nhìn tôi, mà nhìn Rigby. Tóc em bết đầy bùn.

“Chu” Sophie nói. Nhưng giọng con bé xem chừng yếu ớt lắm.

Rigby liếm khắp mặt và cổ em. Nhưng không giống như những nụ hôn chó bình thường, mà tựa như chó mẹ liếm sạch lông cho đàn con của nó ấy.

Sophie bật cười khanh khách.

Tôi quỳ xuống, luồn tay qua vai con bé. Lần này em không chống cự. Tôi thấy em run rẩy. Tôi nhận ra tình hình sẽ vô cùng tồi tệ, nếu như tôi không thể tìm thấy Sophie trước lúc hoàng hôn. Ai chẳng biết vậy, nhưng tôi đã cố ngăn bản thân nghĩ tới khả năng đó.

“Sao em lại chạy trốn mẹ và chị hả?” Tôi hỏi con bé. Dù tôi biết em sẽ không trả lời. Và tôi cũng không chắc liệu em có hiểu điều mình nói không.

Tôi vực Sophie dậy, và bế xốc lên vai. Đầu con bé ngoẹo vào phần xương bả vai tôi. Người em mềm oặt, hệt như một chiếc túi đựng quần áo ướt vậy.

Tôi nhìn quanh.

“Khỉ thật” tôi hét to.

Tôi chẳng biết giờ chúng tôi đang ở đâu nữa, chẳng biết phải đi theo hướng nào để về chỗ khu trại. Tôi nhìn khắp xung quanh. Chắc chắn một trong những con đường kia sẽ dẫn mình về khu trại.

“Rigby” tôi nói. “Chúng ta về nào.”

Rigby dẫn đường, còn tôi đi theo nó. Chúng tôi trèo lên đỉnh đồi, rồi trèo xuống chân đồi, sau đó băng qua một khe núi và lại trèo lên một ngọn đồi khác. Thật khó khi vừa phải leo trèo vừa bế Sophie như vậy, nhưng tôi đâu còn lựa chọn nào.

Nhưng, ngộ nhỡ chúng tôi đi sai đường, rồi cứ phải lòng vòng quanh khu này thêm hàng giờ đồng hồ nữa…

Tôi bắt đầu hụt hơi khi leo tới đỉnh đồi thứ hai. Cuối cùng tôi cũng thấy toàn bộ khu trại hiện ra trong tầm mắt.

Tôi thở phào nhẹ nhõm. “Giỏi lắm!” Tôi nói.

“Ưm… Cháu nghĩ cô chó của ông là một điều kì diệu đấy.”

Tôi đang đứng ngay sau cửa ra vào trong phòng khách của ông Paul. Tôi biết mẹ mình đang đợi ở góc đường, nhưng mẹ có thể chờ thêm một lúc mà.

“Nó là một cô chó tuyệt vời” ông đáp. “Không ai hâm mộ Rigby hơn ta đâu. Nhưng nó chẳng phải diệu kì gì đâu.

Chỉ là thính giác của nó tốt hơn con người mười lần, còn khứu giác thì tốt hơn chúng ta hàng chục lần. Nó chỉ làm những việc cháu không làm được thôi.”

“Nhưng khi cháu nói ‘chúng ta về thôi’…”

“Ta cũng nói thế với nó suốt. Khi bọn ta đi đủ quãng đường cần thiết, ta sẽ nói, ‘Về thôi nào’. Sau đó chúng ta quay lại đúng quãng đường vừa đi.”

“Ồ. Vâng, thôi được rồi. Nó không phải điều kì diệu gì cả. Nhưng nó là anh hùng đấy ạ. Chúng ta nên đưa nó lên bản tin hay gì đó.”

“Không!” Ông nói khá to, và tôi thì không chắc ông đang nói đùa hay hét vào mặt mình nữa. “Ta không muốn mấy tay phóng viên bu kín cửa nhà mình.”

“Ông chỉ muốn được ở một mình.” “Đúng vậy.”

Tôi dợm bước quay đi. “Thế ngày mai cháu có thể đến lúc mấy giờ ạ?” Tôi ngoái đầu hỏi.

“Lúc nào cũng được. Quan trọng gì đâu.” Rồi ông nói. “Có lẽ ta không hoàn toàn cô độc. Ở đây khác lắm. Ta không phải làm việc với người khác, dù muốn hay không. Ta còn chưa gặp mặt hàng xóm mới. Ta thích ý tưởng đó, đừng hiểu nhầm nhé, nhưng việc có một người tới nhà mỗi ngày cũng không tệ đâu. Nếu đó là người ta có thể nói chuyện được.”

Ông không nói tiếp là “Như cháu chẳng hạn”. Nhưng tôi hiểu ông muốn nói gì. “Nên có lẽ đó là lí do ta không cảm thấy bực bội khi gặp cháu.”

Tôi định nói, “Vậy thì chúng ta là bạn bè rồi”. Nhưng tôi chỉ thầm nghĩ vậy thôi.

Nhưng sau đó tôi quay sang nhìn chiếc giá sách mới của ông. Trên đó chưa có sách, hay bất kì đồ trang trí nào trừ tấm hình của bà Rachel. Chắc hẳn đó là thứ đầu tiên ông lấy ra từ mấy thùng đồ.

Ông thấy tôi để ý tới điều đó.

“Nhưng mà” ông nói tiếp, “khi ta cho ai đó vào nhà, thì họ bắt đầu biết nhiều thứ về ta hơn. Ta không thích điều đó cho lắm”.

“Cháu bảo này” tôi nói. “Lần sau cháu tới gặp ông, cháu cũng sẽ kể cho ông một điều về cháu. Một điều cháu giữ bí mật với tất cả những người khác. Khi ấy chúng ta coi như huề nhau nhé.”

Tôi chẳng biết mình định nói với ông bí mật gì. Nhưng tôi vẫn có thời gian suy nghĩ. Tôi biết dù tôi có kể chuyện gì, thì ông Paul sẽ chẳng tiết lộ điều đó với ai đâu. Vì dù sao ông ấy cũng chẳng nói chuyện với ai cả. Ngoại trừ Rigby.

Và giờ có thêm tôi nữa.

Tôi từ từ leo xuống ba nhịp cầu thang, trong lòng chợt thấy hân hoan lạ kì. Sophie đã trở lại. Và ít nhất tôi đã có một người giống-bạn-bè.

Có lẽ cuộc đời của bạn phải tụt xuống gần đáy, thì lúc ấy bạn mới cảm thấy hạnh phúc vì những điều nhỏ bé như thế được.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 21
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 21
  • Sau