B
uổi sáng hôm ông Paul chuyển nhà, tôi tỉnh giấc rồi vào phòng khách nghe ngóng tình hình. Tôi thấy mẹ núp sau rèm cửa nhòm ra ngoài.
Tôi quyết định phớt lờ mẹ và đi thẳng vào bếp.
Tôi chẳng thấy Dì Vi đâu và cũng không thấy Sophie trong bếp. Nhưng tôi biết mình có thể tìm con bé ở đâu nếu muốn. Tuy nhiên lúc đó tôi chẳng hề có ý định tìm Sophie hay Dì Vi. Tôi chỉ định tìm cái gì để ăn tạm cho bữa sáng thôi.
Nhưng chẳng thấy thứ gì trông giống đồ ăn trong bếp cả. Có vẻ tôi là người đầu tiên trong cái nhà này nghĩ đến chuyện ăn sáng thì phải.
Tôi lấy chút ngũ cốc khô, sau đó lại lục tung tủ lạnh kiếm sữa, nhưng chẳng còn chút sữa nào.
Tôi thở dài. Tôi còn làm gì được đây?
Tôi nhìn mẹ. Mẹ tôi vẫn tiếp tục nhòm qua mấy tấm rèm cửa. Tôi muốn nói với mẹ, rằng hành động của mẹ khiến tôi bồn chồn quá. Nhưng tôi chẳng nói vậy, vì nói ra cũng có ích gì đâu?
Tới lúc không thể chịu đựng nổi nữa, tôi đành bê bát ngũ cốc của mình tới bên cửa sổ và giật mạnh tấm rèm cửa.
Hành động của tôi khiến mẹ giật mình thon thót. Tôi định bảo, mẹ vừa mất cơ hội làm thám tử tư rồi đấy, nhưng sau đó tôi nghĩ, nói thế với mẹ thì xấu tính quá.
Trên lối vào ga-ra nhà ông Paul là một chiếc xe tải chuyển nhà cỡ lớn. Một bên hông xe có đề tên công ty, và trên đó cũng in hình một ngọn núi nữa. Như thể họ biết rõ ông Paul định tới đâu từ trước khi ông thuê chiếc xe này. Phía đuôi xe còn có một chiếc móc kéo nữa.
“Ông ấy chẳng chần chừ tẹo nào nhỉ,” mẹ nói.
“Con chưa bao giờ nghĩ ông ấy sẽ chần chừ. Vì ông ấy lúc nào cũng chỉ mong sớm thoát khỏi nơi này thôi mà.”
Tôi liếc xuống bát ngũ cốc trên tay mình. Bụng tôi đang réo lên òng ọc, nên tôi đành xúc một thìa đầy ngũ cốc khô vào miệng.
“Ôi Chúa ơi,” mẹ thì thào. “Ông ấy đang đi về phía chúng ta đấy!”
Tôi ngước lên thì thấy ông Paul đang sải bước trên bãi cỏ.
“Thế thì sao ạ?”
“Ông ấy sắp đến chỗ cửa trước kia kìa. Chúng ta nên làm gì bây giờ?”
“Ưm… ra đó mở cửa như bình thường thôi ạ?”
“Mẹ không muốn gặp ông ấy. Mẹ chẳng muốn nói chuyện với ông ấy đâu.”
“Được thôi. Con ra mở cửa vậy.”
Tôi đi ra cửa, còn mẹ thì tranh thủ trốn đi. Tôi tự hỏi mẹ sợ hãi cái gì cơ chứ? Nhưng tôi chẳng bận tâm về chuyện đó lâu. Chẳng ích gì khi dành thời gian suy nghĩ về nỗi sợ của người khác. Ai chẳng có nỗi sợ của mình, nên sợ hãi là chuyện quá bình thường rồi. Thắc mắc về nó chỉ tổ tốn thời gian của bạn mà thôi.
Tôi mở cửa khi ông Paul vẫn đang bước nốt mấy bậc lên hiên nhà.
“Chào buổi sáng,” ông nói. Giọng ông nghe có vẻ phấn khích lạ thường.
À, hôm nay ông lại bận đồ đẹp. Trên người ông là một chiếc sơ mi da trời sáng nhạt, phối cùng quần tây xanh dương xếp li thẳng thớm. Khi ông lại gần, tôi lại ngửi thấy một mùi hương dễ chịu. Hệt như lần trước, khi tôi bắt gặp ông ăn vận bộ đồ đẹp ấy. Bình thường ông không dùng nước hoa bao giờ, cho dù đó là ngày nghỉ hay đi làm. Tôi chỉ mới thấy ông dùng nước hoa đúng một lần khi đến chơi nhà anh trai hôm thứ Bảy đó thôi.
Tôi nói, “cháu cứ nghĩ ông phải xuất phát từ lúc rạng sáng chứ”.
“Thì ta cũng nghĩ vậy mà,” ông đáp. “Nhưng ta bị trễ những bốn giờ so với dự định rồi.”
“Ông có cần cháu giúp đóng gói đồ đạc hay làm việc gì giúp ông không ạ?”
Vừa hay, lúc đó ông cũng đặt chân lên bậc cửa nhà tôi. Nhưng khi nghe thấy tôi hỏi vậy, ông liền lùi lại một bước. Như thể ông ngạc nhiên lắm.
“Chà, cháu thật tốt khi đề nghị giúp đỡ ta như vậy. Nhưng không cần đâu, chúng ta tự lo liệu vụ đóng gói đồ đạc được mà.”
Tôi khá tò mò, không biết “chúng ta” mà ông vừa nhắc đến bao gồm những ai. Nhưng tôi không dám hỏi, mà chỉ đứng đợi ông nói tiếp.
“Không biết cháu có thể dắt Rigby đi dạo giúp ta một lần cuối này được không. Ta cứ nghĩ mình đủ thời gian để tự đưa nó đi, nhưng tình hình hiện tại có vẻ không ổn lắm. Ta không muốn Rigby lỡ mất chuyến đi dạo hôm nay, bởi quãng đường từ đây tới nhà mới của ta dài lắm. Rigby sẽ phải ngồi trong cabin xe tải tận sáu, bảy tiếng đồng hồ liền đấy.”
“Được ạ. Không vấn đề gì đâu ạ.” Ông nhìn xuống bát ngũ cốc của tôi. “Cháu cứ ăn xong bữa sáng đi đã.”
“Dạ không, cháu có thể đi luôn bây giờ ạ.” “Thế thì ngũ cốc của cháu trương lên hết mất.” Tôi giơ bát ngũ cốc của mình ra trước mặt ông.
“Nó không trương đâu ạ, vì cháu có đổ sữa vào đâu. Hết sữa cũng có cái hay của nó mà ông.”
Ông khẽ bật cười.
“Vậy cháu đem bát sang nhà ta đi. Nhà ta còn sữa đấy.” Tôi nhún vai, rồi bước ra phía ngoài hiên và đóng cửa nhà. Trước khi đi, tôi lại liếc vào trong nhà một lần nữa. Mẹ vẫn đang lén theo dõi chúng tôi từ trong hành lang. Lúc nãy mẹ đã tìm được chỗ núp chỉ mình tôi thấy, còn ông Paul thì chẳng thể nào phát hiện ra mẹ được.
Tôi hơi cau mày nhìn mẹ, trước khi đóng hẳn cửa vào.
Khi chúng tôi băng qua thảm cỏ, tôi tự hỏi liệu mẹ có thấy chuyện tôi và ông Paul nói chuyện bằng vai phải lứa như thế là kì lạ không. Chúng tôi nói chuyện với nhau hệt như hai người lớn bình thường vậy. Khi ấy tôi chợt nhận ra mối quan hệ của ông Paul và tôi thật kì quặc. Và trước đó tôi chưa từng để ý tới điều này, hoặc chí ít ngừng lại suy ngẫm về điều đó.
“Ta trả cháu mười đô cuối cùng cho công việc dắt chó nhé,” ông nói. Giọng nói của ông khiến tôi sực tỉnh.
“Không, không sao đâu ạ. Lần này cháu giúp ông miễn phí ạ.”
“Cháu không cần phải thế đâu.”
“Không sao mà ông. Cháu không cần tiền đâu ạ. Khi hai người chuyển nhà, cháu sẽ nhớ cô chó già to lớn này nhiều lắm.”
“Ta cá là em gái cháu còn nhớ Rigby hơn nhiều ấy chứ.” Dù không cố ý, nhưng tôi hơi cau mày lại. “Chúng ta đừng nói chuyện đó ở đây ạ.”
“Ồ. Ta xin lỗi.”
“Ông không cần phải xin lỗi đâu ạ. Ở nhà cháu có nhiều chuyện cần xin lỗi lắm, nhưng ông thì chẳng có tội tình gì liên quan đến những chuyện đó cả.”
Ông khẽ cười khi mở cửa cho tôi. Nhưng đó là một nụ cười buồn. Tôi tự hỏi liệu ông đã hiểu tôi đủ nhiều để thấy buồn cho tôi chưa, hay có khi ông thấy buồn vì tôi vô tình nhắc tới chuyện không nên nói. Đối với hầu hết mọi người, thì bản thân mình luôn quan trọng hơn người khác.
Nhưng nếu ông thực sự thấy buồn vì tôi, thì tôi sẽ thấy khó chịu.
Rigby mừng rỡ, rối rít hôn tôi. Đúng là “yêu chó, chó liếm mặt thật”. Trước đây nó chưa từng làm vậy với tôi. Tôi tự hỏi, phải chăng nó có đủ thông minh để nhận ra rằng ông chủ sắp đưa nó đi khỏi nơi này.
Tôi ngẩng đầu thì thấy một người phụ nữ đứng trước mặt mình. Một người phụ nữ. Trong nhà của ông Paul. Là phụ nữ đấy.
“Ồ,” tôi nói. Dở hơi thật, nhưng do khi đó tôi bị giật mình. Tôi từng thoáng thấy người phụ nữ này đâu đó rồi, dù chẳng nhớ được chính xác mình đã thấy bà ở đâu.
“Xin chào,” bà mở lời.
Chỉ vậy thôi. Vỏn vẹn mỗi hai tiếng xin chào.
Tôi nghĩ bà không phải người gốc Mỹ, nhưng chắc tôi cần nghe thêm vài câu nữa thì mới đoán được.
“Bà ấy tên là Rachel,” ông Paul nói. “Là chị dâu của ta. Chị Rachel, đây là Angie, cô bé hàng xóm. Cô bé sẽ dắt Rigby đi dạo trong lúc chúng ta đóng gói đồ đạc.”
“Ta rất vui khi được gặp cháu,” bà Rachel nói.
Bà trạc tuổi ông Paul, nhưng trông bà vẫn rất đẹp. Thân người bà mảnh dẻ, đôi mắt và mái tóc màu đen. Bà còn có sống mũi cao và thẳng nữa. Hình như trước đây tôi từng thấy bà đâu đó rồi.
“Trông bà quen quá,” tôi nói. “Trước đây chúng ta từng gặp nhau, phải không ạ?”
Khi đó tôi chợt nhận ra. Tôi quay sang nhìn chiếc giá sách. Nhưng tấm ảnh chẳng còn đó nữa. Nhưng bà Rachel chính là người phụ nữ đó. Người phụ nữ trong tấm ảnh trên giá sách nhà ông Paul. Người mà tôi đoán là đã qua đời. Nhưng tôi hẳn đã lầm, vì rõ ràng con người bằng xương bằng thịt đang đứng ngay trước mắt tôi đấy thôi.
Thật kì lạ vì những đồ đạc khác vẫn đang yên vị trên giá sách. Chỉ riêng tấm ảnh đó, tấm ảnh duy nhất có mặt người đó đã được ông cất đi.
Ông Paul đến đứng trước mặt tôi. Trông ông có vẻ khá căng thẳng. Tôi nghĩ ông đang cố giao tiếp với mình bằng ánh mắt. Tuy chẳng hiểu gì sất, nhưng tôi thấy mình nên ngậm mồm lại ngay.
“Cháu nghĩ cháu nhận lầm người ạ,” tôi nói. “Cháu nghĩ là bà trông giống một người cháu quen.”
Tôi liếc nhìn ông Paul. Trông ông có vẻ đã nhẹ nhõm hơn đôi chút.
Tôi chẳng biết phải xử trí mấy chuyện này ra sao. Chúng khiến tôi thấy tò mò. Nhưng chúng cũng giống như cuộn dây rối, nên tôi chẳng thể bắt tay vào gỡ mớ bòng bong nếu như chưa tìm được đầu dây. Nên tôi đành bỏ cuộc và tạm thời cất mớ bòng bong đó đi.
“Dan đâu rồi?” Ông Paul hỏi bà Rachel.
“Ở chỗ tủ quần áo trong phòng ngủ ấy. Anh ấy đang gấp mấy bộ vest giúp chú mà.”
“Anh ấy lại lãng phí thời gian rồi. Đằng nào tôi cũng đốt hết mấy bộ đồ đó mà.”
“Đừng, chú giữ lại đi” bà đáp. “Để còn mặc đi dự đám tang người ta chứ.”
Ông Paul mỉm cười, như thể trong câu nói đó có gì buồn cười ấy. Nhưng hình như ông hơi hào phóng nụ cười của mình cho một câu nói chẳng buồn cười đến thế. Và, giờ tôi khá chắc chắn là bà Rachel có âm sắc kiểu châu Âu. Có lẽ bà đến từ Đức, hoặc mấy quốc gia lân cận, nhưng khác biệt đó không còn rõ rệt nữa. Chỉ còn lại một chút âm sắc nhàn nhạt thôi.
Tôi định nắm lấy dây xích của Rigby thì ông Paul nói, “Sữa”.
“À. Vâng. Sữa.”
Ông bắt tôi ngồi bên bàn bếp, rồi đặt trước mặt tôi một hộp sữa. Sau đó ông còn đưa tôi một chiếc thìa trong ngăn kéo tủ bếp.
Và tôi nghĩ, Trời ạ, nếu thìa dĩa của ông ấy vẫn còn để trong tủ bếp thì quả thật ông quá trễ so với tiến độ rồi.
Rồi tôi ngồi đó ăn nốt bát ngũ cốc, còn Rigby thì gác đầu lên đầu gối của tôi. Nó phải ráng cúi người mới gác được đầu lên chân tôi như thế. Trông nó hệt như một chú chim kền kền vậy.
Tôi ngó ra ngoài phòng khách. Ông Paul và bà Rachel đang đi tới đi lui trước cửa nhà. Tôi biết chắc hai ông bà đang trao đổi chuyện gì quan trọng lắm, nhưng hai người họ không muốn tôi nghe thấy. Tôi có chút lo lắng, nhưng cũng như mọi lần, tôi chẳng có cách nào để giải quyết vấn đề đó cả.
Tôi không cho Sophie đi cùng. Tôi đã định đưa con bé đi theo, nhưng sau đó tôi quyết định ngược lại. Tôi không biết giải thích ra sao, nhưng tâm trí tôi lúc đó giống như có tảng đá to đang đè nặng, và ngăn tôi đưa con bé đi cùng. Cuối cùng tôi quyết định: tốt nhất tôi không nên để Sophie lại gần nhà ông Paul. Như vậy thì con bé sẽ không biết ông đang đóng gói đồ đạc và chuẩn bị chuyển nhà.
Nhưng như tôi đã nói từ trước, tôi cũng không rõ Sophie thực sự hiểu hay không hiểu chuyện gì. Nhưng chuyện đóng gói đồ đạc và chuyển nhà chắc thì chắn con bé từng thấy nhiều lắm rồi.
Dù sao thì tôi vẫn nghĩ lí do đó thật nhảm nhí. Tôi nghĩ là do mình ích kỷ thì đúng hơn. Tôi sẽ nhớ nàng chó hiền lành này vô cùng, cực kì nhiều. Vậy nên lần này tôi chỉ muốn đi một mình cùng nó thôi.
Do đó, lần này chúng tôi không sang đường để không bị Sophie phát hiện.
Tôi đi bộ cùng Rigby, một bàn tay tôi đặt trên vai nó. Vai nó chuyển động nhịp nhàng theo từng bước chậm rãi dưới bàn tay tôi. Tự nhiên tôi thấy buồn vô cớ.
“Ước gì em không phải đi,” tôi nói với Rigby.
Rigby nhìn vào mắt tôi như muốn trả lời. Nghe có vẻ buồn cười, nhưng trong khoảnh khắc đó, tôi lại nghĩ nó sẽ cất tiếng nói cơ đấy.
Rồi nó lại quay ra nhìn đường.
“Và không phải chỉ vì Sophie đâu,” tôi nói tiếp.
Thật tuyệt khi bạn thích một ai đó hơn những gì họ có thể làm cho ta. Tôi nghĩ kể từ lúc đó tôi đã chính thức coi Rigby như một con người rồi.
Và tôi chắc chắn, rằng bất kỳ ai quen cô chó này cũng sẽ suy nghĩ giống như tôi thôi.
Khi tôi đưa Rigby về, ông Paul bước ra ngoài hiên để đỡ lấy dây dắt chó từ tay tôi. Ông có vẻ khá ái ngại và buồn bã khi nói lời chia tay, dù tôi biết rõ trong lòng ông thực sự rất vui khi được chính thức rời khỏi thành phố và nghỉ việc vĩnh viễn.
“Ông giúp cháu một việc được không?” Tôi hỏi. “Khi ông lùi xe tải chuyển đồ ra khỏi ga-ra, ông có thể đi về hướng kia không ạ?” Tôi chỉ ngược hướng nhà Dì Vi. “Cháu không biết Sophie sẽ phản ứng ra sao khi con bé thấy ông và Rigby chạy xe qua đó. Cháu biết sớm muộn gì thì con bé cũng sẽ lại rền rĩ như trước thôi. Chỉ là…”
Nhưng tôi không biết phải nói tiếp thế nào.
“Được chứ,” ông đáp. “Không vấn đề gì mà. Cháu có chắc là không muốn nhận nốt mười đô dắt chó cuối cùng không?”
“Vâng, cháu chắc chắn ạ. Chuyến đi dạo hôm nay là quà chia tay của cháu đấy. Ông hãy sống thật hạnh phúc ở nhà mới nhé ạ? Cháu thấy rất ghen tị với ông đấy. Ông được chuyển lên vùng núi. Cháu thích chỗ đó lắm. Nhưng có lẽ ông chẳng quan tâm tới điều đó đâu. Nên ông hãy sống thật hạnh phúc ở đó, ông nhé?”
Tôi nói những lời đó từ tận đáy tim mình, và tôi nghĩ ông cũng hiểu điều đó. Khi ấy tôi chưa biết nhiều điều về ông Paul cho lắm, nhưng tôi biết cuộc sống của ông không hề hạnh phúc. Có lẽ người ta cũng không cần phải biết nhiều thông tin về ông Paul để kết luận được như thế. Này nhé, giờ ông đã sáu lăm tuổi và nghỉ hưu rồi, và nếu bây giờ ông không thấy hạnh phúc, thì khi nào ông mới hạnh phúc chứ?
Nếu cuộc đời là phim truyền hình dài tập, thì đây chính là mùa phim cuối đối với ông Paul.
Ông đặt tay lên đỉnh đầu tôi, giữ nguyên như vậy một lúc. Hành động của ông khiến tôi khá bất ngờ. Cảm giác trìu mến, hệt như khi ba hay mẹ xoa đầu bạn vậy.
“Cháu là đứa trẻ tốt bụng,” ông nói. “Đừng để người khác nói điều ngược lại về cháu nhé.” Sau đó ông mới để ý tay mình đang ở đâu. Ông liền rụt tay lại. “Chà, ta nghĩ nói thế không đúng lắm. Có lẽ chẳng ai nói vậy với cháu đâu. Ta nghĩ mình đang định nói là, cháu hãy cẩn thận, đừng nói với bản thân điều ngược lại nhé.”
Tôi hiểu ý ông, và tôi biết điều đó phức tạp ra sao. Nhưng tôi không biết phải làm thế nào để diễn đạt thành lời, nên cứ đứng ngây người, lặng im như phỗng.
Rigby vẫn ngồi sát gót trái của tôi. Dù ông Paul đã nắm lấy đầu dây, nó vẫn chưa chịu bước về phía ông. Tôi nghĩ nó biết chúng tôi sắp phải chia tay. Tôi biết, điều đó nghe có vẻ vô lý đối với loài chó, nhưng hình như nó biết đấy.
Sau khi im lặng hồi lâu, ông Paul nói, “Cháu có thể gặp lại chúng ta mà. Nếu ta và Rigby quay lại nơi này để thăm nhà anh trai ta”. Nói đoạn, ông Paul chỉ tay về ngôi nhà cũ của mình. Giờ đây nó đã thuộc về anh trai ông, và người phụ nữ trong tấm ảnh.
“Nhưng ông không ưa anh trai mình cơ mà,” tôi nói. Tôi cố gắng thì thào thật khẽ để những người trong nhà không nghe thấy. Có lẽ anh trai ông không biết điều đó. Ông Paul chính là kiểu người sẽ giữ bí mật những chuyện như thế.
Ông khẽ mỉm cười. “Cháu nói đúng,” ông đáp.
“Nhưng…”
Giọng ông nhỏ dần.
Tôi rất muốn giúp ông hoàn thành câu nói bỏ lửng ấy. Tôi định nói, “Nhưng ông rất thích bà Rachel”. May mà tôi kịp ngậm miệng. Tôi có quyền gì mà đi nói điều đó với một người xa lạ chứ?
Nhưng rồi tôi nghĩ, nếu tôi và ông Paul là những người xa lạ, thì tại sao chúng tôi lại đứng tạm biệt nhau như những người bạn thế này nhỉ?
Tôi bước xuống mấy bậc thang. Đến bậc cuối, tôi nói, “Ông lái xe cẩn thận nhé”.
Khi qua bãi cỏ, tôi ngoái lại nhìn ông. Ông vẫn nán lại trên hiên nhà.
Ông giơ tay chào tôi, nhưng tay ông không hề chuyển động.
Nên tôi vẫy tay đáp lại ông.
“Con đừng đi,” mẹ tôi nói. “Sao con có thể bỏ đi như thế hả?”
Đó là buổi sáng ngày hôm sau. Khi ấy tôi đang đi nửa đường ra đến cửa, chuẩn bị tới tiệm sách giúp Nellie kiểm kê nốt. Đúng ra hôm đó là ngày kiểm kê cuối cùng của chúng tôi. Nhưng đối với Nellie, thì tôi không chắc liệu chúng tôi có làm xong được không nữa.
Khi ấy tôi đã đi nửa đường rồi. Tiệm sách đó là nơi duy nhất tôi muốn đến trong cuộc đời khốn khổ cùng cực này.
Nhưng tất nhiên, tôi không nói vậy với mẹ.
Tôi chỉ bảo, “Con đi đây”.
“Có thể hôm nay em con suy sụp thì sao?”
“Vâng. Có lẽ vậy ạ. Nhưng cũng có thể là thứ Ba tuần sau mà.”
“Có thể mẹ sẽ cần con giúp đỡ.”
“Giúp như thế nào ạ? Và giúp làm gì cơ ạ? Nếu con bé la hét thì dù có hai hay một người cũng thế thôi. Mẹ chỉ muốn con ở lại để cùng lo lắng với mẹ thôi. Mẹ đừng bận tâm lo lắng quá nhiều về con bé nữa. Như vậy chỉ khiến mẹ thêm căng thẳng, và tình hình càng thêm tồi tệ hơn thôi.”
“Thấy chưa? Đó chính là lí do mẹ cần con ở nhà đấy.” “Ôi Chúa ơi!” Tôi lên giọng. “Mẹ là mẹ của con, chứ không phải ngược lại đâu nhé!”
Câu nói đó khá nặng nề. Nên một lúc lâu sau, cả hai chúng tôi chẳng nói với nhau lời nào. À, phải nói là chỉ mình mẹ tôi im lặng mới đúng.
“Mẹ nghe này, con thích tiệm sách đó, nên con sẽ đi. Chúc mẹ may mắn khi ở nhà cùng con bé. Khi nào về, con sẽ giúp mẹ. Nếu mẹ cần con giúp.”
Tôi cố không nhìn mẹ trên đường ra cửa, vì trông mẹ trề môi khó chịu chết đi được. Thậm chí tôi còn chẳng bao giờ bĩu môi như thế, kể cả hồi tôi sáu tuổi.
Nói chung hành động đó của mẹ càng chứng minh điều tôi vừa nói là đúng.
Tôi và chị Nellie đứng ở hai phía kệ sách, và tôi thấy đứng như vậy thoải mái hơn. Tôi rất thích nói chuyện với chị ấy, nhưng nói chuyện trực diện thì có vẻ hơi… căng thẳng quá. Đại loại thế. Nên nói qua kệ sách thế này thoải mái hơn nhiều.
“Chị nghĩ sao về một người đàn ông chỉ treo độc một bức ảnh phụ nữ trong nhà, và đó lại là ảnh chụp chị dâu ông ấy?”
Tôi đang cầm một cuốn tiểu thuyết bìa cứng, nhưng chưa đọc tên sách cho chị Nellie. Và chị cũng chẳng quan tâm. Chúng tôi càng kiểm kê ít sách bao nhiêu thì Nellie càng thấy sung sướng hơn bấy nhiêu.
“Chị nghĩ sao về chuyện đó á?” “Vâng. Chị nghĩ sao về chuyện đó ạ?” “Chị nghĩ chuyện đó hơi kì.”
“Nhưng chị nghĩ điều đó nghĩa là gì ạ?”
“Trong tấm ảnh đó có một nhóm người cùng nhau làm chuyện gì thú vị à?”
“Không ạ. Chỉ là ảnh chân dung người phụ nữ ấy thôi.” “Thế thì vợ hoặc bạn gái ông ấy sẽ giận lắm đây.”
“Ông ấy không có vợ ạ. Ông ấy sống đơn thân cùng một con chó.”
“Vậy thì chị nghĩ chắc ông ấy đang ngoại tình với chị dâu mình rồi.”
“Em thì không nghĩ vậy đâu. Vì khi bà ấy đến chơi, ông ấy cất tấm ảnh đó đi. Nên nếu họ thực sự đang ngoại tình, thì bà ấy phải biết rõ tình cảm của ông ấy chứ. Nếu họ ngoại tình thật, thì ông ấy phải giấu bức ảnh làm gì.”
“Việc bà ấy đến một mình càng chứng tỏ giả thuyết của chị là đúng.”
“Ồ, không ạ. Chồng của bà ấy - tức là anh trai của người em đang nói đến ấy - ông ấy cũng đến đó mà.”
“Vậy có lẽ đó là người ổng cần giấu bức ảnh đấy.” “Có thể lắm,” tôi đáp.
Nhưng tôi không tin lời chị Nellie. Tôi không nghĩ hai người họ là loại quan hệ đó. Đối với một mối tình vụng trộm, thì cuộc đời của ông Paul có vẻ trống rỗng và buồn bã quá. Ông có vẻ là kiểu người chỉ ngồi một chỗ tự giày vò bản thân, chứ không phải kiểu ưa hành động. Thế nhưng, tôi thì biết gì cơ chứ? Tôi còn ti tỉ điều chưa biết về hai người bọn họ cơ mà. Nên những điều tôi vừa nói chỉ là cảm nhận cá nhân thôi.
Tôi đọc tên sách, sau đó Nellie nhắc lại. Đó chính là cách chị nói “đã xong”.
“Em chỉ thấy lạ thôi. Những người sống một mình thường tỏ ra như thể chính họ là người chủ động chọn lựa cách sống đó. Như thể tất cả những điều họ muốn trong cuộc đời này chỉ là được ở một mình. Và em tin họ, vì em thấy họ đáng tin mà? Nhưng sau đó em mới biết, hóa ra họ không muốn cô độc như lời họ nói. Hóa ra chẳng ai nói thật cả. Chị có thấy vậy không?”
“Ừ… có lẽ chị cũng từng gặp ai đó như vậy,” Nellie đáp. Sau đó chị chẳng nói thêm gì cả, hình như chị đợi tôi đọc lên một tiêu đề sách khác. Nhưng vì tôi không đọc, nên chị nói tiếp, “Đó là người thật đúng không? Hay em tự nói mình đấy?”. “Dạ không, đó là người thật mà. Người đó không là bạn em, nhưng em nghĩ cũng gần như vậy. Chị có thấy em kì quặc không, khi em chỉ có mỗi hai người gần như là bạn. Em chỉ nói chuyện được với mỗi hai người đó, mà họ thậm chí còn chẳng phải là trẻ con nữa ấy? Một người đã sáu lăm rồi, còn một người tầm tuổi chị đấy.”
“Em còn chẳng biết chị bao nhiêu tuổi mà, sao em lại nói thế?”
“Thì người đó là chị mà. Em nói đúng rồi còn gì.”
“Chị chả bao giờ nói chuyện tuổi tác, nên chị không trả lời em đâu.”
Chúng tôi lại im lặng một lúc, nên tôi ló đầu ra ngoài. Tôi phát hiện Nellie nhìn mình, nên lại rụt đầu ra sau giá sách. Khi kiểm kê sách cùng chị, tôi luôn thấy mình giống hệt một chú rùa nhút nhát.
“Chị đừng nói đùa để đánh trống lảng nhé. Chị có thấy em kì quặc không?”
Tôi nghe tiếng chị thở dài. “Em phải biết là em trưởng thành hơn các bạn đồng trang lứa nhiều lắm. Em chẳng giống một đứa mười bốn tuổi chút nào đâu. Em biết điều đó, phải không?”
Tôi bước ra từ phía sau mấy kệ sách, ngồi lên ghế nhồi, rồi vân vê chiếc gấu quần bò đã sờn.
“Em nghĩ là do thi thoảng mẹ em còn cư xử trẻ con hơn em. Nhưng em không chắc điều chị vừa nói có đúng không nữa. Em thì vẫn nghĩ mình giống một đứa mười bốn tuổi đấy chứ. Nhưng đúng là em chẳng hề có điểm gì giống mấy đứa bằng tuổi, và hình như ai gặp em cũng đều nhận xét như chị, nên em nghĩ là chị nói đúng.”
Tôi cứ ngồi vân vê gấu quần thêm một, hay hai phút nữa. Sau đó tôi ngước lên, và tự hỏi, không biết mình đang làm cái quái gì vậy nhỉ.
“Khỉ thật! Em còn chẳng định ngồi xuống ấy. Mình còn phải kiểm kê nốt cơ mà.”
Tôi lại hớt hơ hớt hải.
Chị Nellie nói, “Việc đó có thể đợi mà. Nếu em muốn nói chuyện, thì em cứ nói đi”.
“Không. Em không muốn nói chuyện. Em ghét nói chuyện lắm. Em chỉ mong giúp chị kiểm kê nốt cho xong thôi.”
Tôi lại quay về chỗ đang làm dở. Tôi luôn để cuốn sách mình vừa đọc tên chìa ra một chút, để không quên vị trí của mình. Tôi lôi cuốn tiếp theo ra.
Đó là cuốn Cổ thư Tây Tạng về những Người Quá cố24.
24 Nguyên văn: The Tibetan Book of the Dead.
Tim tôi như ngừng đập.
“Ôi, trời,” có lẽ tôi đã lỡ thốt ra điều đó. Hoặc không. “Sao thế?”
“Ôi, không có gì đâu ạ.” Tôi nói để tự trấn an bản thân. “Không có gì đâu ạ. Cuốn Cổ thư Tây Tạng về những Người Quá cố. Cuốn này không đề tên tác giả, mà chỉ có dịch giả thôi ạ. Có thể điền tên dịch giả thay cho tác giả không ạ?”
Chị không trả lời câu tôi vừa hỏi. Thay vào đó, chị hỏi lại tôi. “Em đã đọc cuốn đó chưa?”
Tôi hơi bật cười, nghe giống như một tiếng thở dài khe khẽ. “Chưa ạ. Em vẫn chưa đọc cuốn này. Em biết nội dung của nó, nhưng đến giờ vẫn chưa đọc.”
“Thế nội dung cuốn đó có giống tên sách không?” “Cũng tương đối ạ. Trong đó đề cập tới những hiểu biết về sự sống sau cái chết.”
“Đây cũng là một cuốn về văn hóa Tây Tạng mà nhỉ. Chị thấy rất ngạc nhiên khi em chưa cày nát cuốn đó tới bảy lần ở thư viện như mấy cuốn kia đấy.”
“Em không nghĩ em muốn đọc cuốn này.”
“Vậy em có muốn đem nó về rồi quyết định sau không? Chị còn nợ em rất nhiều sách và tiền công vì công việc kiểm kê mà. Nếu em muốn, thì chị cho em luôn cũng được.”
Tôi không thể trả lời câu hỏi của Nellie. Tôi thực sự không thể. Tôi chỉ đứng đó với cuốn sách trên tay mình, và không thốt lên nổi tiếng nào.
Cuối cùng, tôi bước ra khỏi mấy chiếc kệ sách, trên tay vẫn ôm cuốn Cổ thư. Tôi bước tới chỗ quầy tính tiền của chị, mặt cúi gằm. Tôi vẫn đang mải nhìn chăm chăm vào bìa cuốn sách đó.
“Em từng mất người thân à?” Nellie hỏi tôi.
Tôi còn đang suy nghĩ liệu mình có nên trả lời câu hỏi của chị không, thì đột nhiên chị ngẩng đầu lên, rồi mỉm cười.
“Ồ, nhìn kìa,” chị nói. “Cathy đến rồi này.”
Tôi cũng ngước lên nhìn.
Có lần chị ấy đã nhắc đến một người tên Cathy. Có lẽ tôi cũng lưu cái tên đó vào bộ nhớ của mình rồi, chỉ có điều tôi chẳng hề băn khoăn hay nghĩ ngợi gì về người ấy. Thực sự tôi chỉ nghĩ đó là một nhân viên khác của Tiệm sách Nellie mà tôi chưa có dịp gặp gỡ thôi.
Cathy bước vào tiệm, chị cười ngoác đến tận mang tai. Tôi nghĩ chắc chị ấy không phải nhân viên tiệm sách rồi. Bởi hôm đó là Chủ nhật. Mà tôi cá là chẳng ai cười rạng rỡ như vậy khi đến chỗ làm đâu.
Cathy trông giống người châu Á, hoặc lai châu Á, và cũng để tóc ngắn giống tôi. Chị ấy lớn tuổi hơn Nellie một chút, vì tôi thấy ở khóe mắt và khóe miệng chị đã có vài nếp nhăn.
Chị Nellie giới thiệu chúng tôi với nhau, nhưng tôi chỉ đứng nhìn chị Cathy chằm chằm.
Chị Cathy đi vòng ra phía sau quầy tính tiền như thể chị ấy là chủ tiệm sách giống Nellie vậy. Sau đó thì chị khẽ lách cánh tay choàng qua eo Nellie, rồi hôn chụt lên má Nellie một cái.
Tôi lùi lại một bước dài.
Hai người họ quay sang nhìn tôi. Tôi nghĩ hai chị giật mình vì tôi vừa lùi lại, rồi vô tình làm rơi cuốn Cổ thư Tây Tạng. Tôi vội cúi xuống nhặt sách, nên đầu tôi va cực mạnh vào quầy thu ngân. Một cú đập đau điếng đến mức nổ đom đóm mắt. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi hiểu được cảm giác nổ đom đóm mắt là thế nào.
Tôi nghe tiếng Nellie nói, “Ối. Em ổn chứ, nhóc?”.
Nhưng tôi có cảm giác giọng chị giống như vọng lại từ nơi nào đó xa xôi lắm.
Tôi với lấy cuốn sách, rồi đặt nó lên quầy. Nhưng đáng lẽ tôi không nên đứng bật dậy ngay lập tức như thế, bởi đứng dậy đột ngột khiến tôi thấy choáng váng.
“Ái chà, em không sao chứ nhóc?” Chị Cathy hỏi. Khuôn mặt chị ấy lộ rõ vẻ…bối rối.
“Em phải vào nhà vệ sinh đây,” tôi nói.
Sau đó tôi cố rảo bước thật nhanh về phía nhà vệ sinh. Tôi vừa mới mở cửa phòng hậu thì nghe thấy tiếng Cathy vọng tới, “Kì ghê ta. Chuyện đó là sao?”.
Tôi không nghe thấy câu trả lời của Nellie. Chị ấy nói bé quá.
“Đứa nhóc có dấu hiệu kì thị đồng tính à?” Cathy hỏi. Chị nói khá to, nên tiếng chị vọng tới chỗ tôi.
Nhưng sau đó Nellie cũng lên giọng, “Đó có lẽ là điều dở hơi nhất bồ từng nói với tui đấy. Máy dò đồng tính của bồ bị chập mạch rồi à? Cô bé chỉ hơi cảm nắng tui, vậy thôi. Bồ động não chút xem nào”.
Lúc đó tôi đang tựa cả người vào mấy chiếc kệ sách. Tôi cứ nghĩ mình sẽ ngã quỵ nếu không có chỗ nào bám víu. Có thể lắm chứ. Tôi nghe rõ tiếng tim mình đập thình thịch. Tôi ghét nó. Tôi đã quá mệt mỏi vì nó rồi. Tôi ước mình chết ngay giữa những nhịp đập cuồng loạn ấy, vì tôi quá mệt mỏi với những cảm xúc này rồi.
Chị Cathy đáp, “Nếu sớm biết vậy, thì tui sẽ không để hai người ở chung với nhau nhiều đến thế đâu”.
Giọng Nellie có vẻ bực bội. Chị nói, “Này, bồ đừng có giỡn về chuyện đó nhé, Cathy. Chẳng buồn cười chút nào đâu. Cô bé mới mười bốn tuổi thôi mà”.
“Ồ, tui xin lỗi,” Cathy đáp. “Tui không nghĩ cô bé nhỏ tuổi vậy. Trông cô bé già dặn hơn thế mà.”
“Ừa, tụi tui cũng vừa nói về chuyện đó xong. Bồ biết đấy, chúng ta không nên… Để tui đi kiểm tra xem sao đã. Mình không nên nói chuyện sau lưng cô bé thế này. Tui phải bảo đảm cô bé không nghe thấy tụi mình.”
Chị càng nói, tôi càng nghe thấy tiếng bước chân chị tiến tới gần mình hơn. Nhưng tôi không tài nào nhúc nhích được. Cả người tôi đông cứng lại. Tôi không có thời gian để chạy vào trong phòng hậu, và dù sao thì tôi cũng chẳng nhấc nổi chân lên mà chạy được. Thậm chí tôi còn chẳng có thời gian để ước mặt đất nứt ra cho mình chui xuống. Nếu có thời gian, chắc chắn tôi sẽ ước vậy. Nếu khi đó chị không đột ngột xuất hiện...
Tôi ngước mắt lên nhìn, và Nellie đang đứng ngay cuối dãy kệ sách. Ánh mắt chị nhìn thẳng vào tôi.
“Angie à,” chị nói.
Tôi rời khỏi kệ sách rồi tự đứng bằng hai chân mình. Tôi không dám nhìn chị, nên đành nhìn xuống mấy họa tiết trên tấm thảm.
Chị không hề di chuyển, và tôi cũng vậy.
Đột nhiên, tôi thấy mình lại cử động được. Tôi đi thẳng đến chỗ Nellie. Như thể tôi sắp xô ngã chị vậy. Tôi thậm chí còn chẳng mở nổi miệng ra nói câu “Xin lỗi” hay “Chị biến đi”. Nhưng có vẻ chị cũng tự hiểu mình nên tránh đường.
Tôi cảm thấy vai mình va mạnh vào người chị, khi tôi di chuyển trong lối đi chật hẹp đó. Tôi cũng biết cú đó khiến chị chao đảo. Nhưng tôi cứ tiếp tục đi thẳng. Và không hề quay lại nhìn. Thậm chí tôi còn chẳng nhìn Cathy khi tôi đi qua chỗ chị ấy. Tôi thà gieo mình vào hố bọ cạp còn hơn. Tôi cúi gằm mặt xuống đất, cho đến khi thoát khỏi chỗ đó.
Khi tôi ra ngoài vỉa hè, ánh sáng bên ngoài làm tôi lóa mắt. Ánh sáng xuyên rất ngọt qua mắt và não tôi, giống như một con dao sắc nhọn vậy.
Tôi lại nghe tiếng Nellie gọi mình. “Angie!”
Tôi bắt đầu chạy thục mạng. “Angie, đợi đã!”
Nhưng tôi chẳng dừng lại. Tôi chạy một mạch về nhà.
Tôi nhìn thấy nhà Dì Vi ở cuối đường, và khi ấy tôi vẫn đang chạy. Lồng ngực tôi đau nhói, còn hai cánh phổi cũng đang nhức nhối. Thực ra tôi đâu cần chạy nữa. Tôi chẳng còn lí do gì mà phải chạy tiếp. Tôi tự nhủ với bản thân điều ấy. Nhưng tôi không dừng lại.
Có lẽ vì tôi muốn mình đau đớn.
Khi đó tôi nghe thấy tiếng Sophie. Tiếng còi báo động rền rĩ của con bé. Và trong một tích tắc, tôi đã nghĩ, chết tiệt, nếu tôi nghe thấy tiếng con bé từ đầu đường, thì tình hình đã quá tồi tệ. Thậm chí còn khủng khiếp hơn nữa. Có thể coi là thảm họa luôn ấy chứ.
Sau đó tôi chợt nhận ra tiếng con bé vọng tới từ phía sau lưng mình.
Tôi ngừng chạy, rồi quay người. Tôi hơi khom người một chút, hai tay tì lên hai đầu gối để không ngã bổ chửng về phía trước. Rồi cố gắng lấy lại nhịp thở. Tôi ráng sức ngóc đầu lên.
Mẹ tôi đang ngồi trong chiếc xe chở hàng cũ, còn Sophie thì ra sức rền rĩ ở băng ghế sau. Và… bạn thử tưởng tượng đi này… đằng sau xe còn có thêm một chiếc thùng moóc. Không phải loại thùng moóc không mui như mọi người thường dùng khi chuyển nhà đâu. Thứ đằng sau xe mẹ tôi nhìn giống một toa chở ngựa bé xíu. Có lẽ chỉ đủ chỗ cho một chú ngựa con, và trên đó cũng chẳng có chút khe hở nào để chú ngựa nhìn ra ngoài đường. Nghĩa là chúng tôi lại phải chuyển nhà rồi. Ổn thôi. Chuyện cũng chẳng thể nào khác đi được.
Tôi nhắm chặt mắt.
Đầu tiên, tôi cố trốn tránh điều đó. Tôi đã nghĩ, KHÔNG, chuyện này không thể xảy ra được. Mọi thứ không thể ập lên đầu tôi cùng một lúc thế này được. Rồi tôi đạt đến cảnh giới buông bỏ, khi nhận ra mọi thứ đã quá tồi tệ đến mức tôi chẳng còn gì để tranh đấu nữa. Đến mức tôi chẳng muốn cứu lấy thân mình nữa. Đến mức tôi chỉ muốn nhắm mắt buông xuôi theo dòng đời mà thôi.
Tôi thực sự suy sụp.
“Lên xe đi con,” mẹ tôi nói.
Mẹ nhoài người sang để kéo cửa sổ bên ghế hành khách xuống. Chiếc xe của mẹ tôi cổ đến mức không có cả cửa sổ tự động. Tiếng hét của Sophie vọng ra còn to hơn lúc nãy.
Tôi không nhúc nhích. Thực ra là không thể nhúc nhích.
Nhưng sau đó một người hàng xóm lạ mặt đã phải bước ra ngoài hiên để xem tiếng ồn khủng khiếp này phát ra từ đâu.
“Nhanh lên con,” mẹ nói.
Tôi đành miễn cưỡng chuyển động.
Tôi ngã phịch xuống ghế và cố gắng hít thở. Sau đó tôi kéo cửa sổ lên trong khi mẹ khởi động xe.
Tôi nghĩ mẹ con tôi sẽ quay trở về nhà Dì Vi, bởi nhà Dì khá gần chỗ mẹ vừa đón tôi. Nhưng mẹ không dừng lại, mà lái xe qua nhà Dì luôn.
“Mình đang đi đâu thế ạ?” Tôi hỏi.
“Đầu con làm sao thế?” Mẹ tôi cũng hỏi. Câu hỏi của mẹ gần như bật ra cùng lúc với câu hỏi của tôi.
Cả hai chúng tôi đều phải hét toáng lên để người kia nghe thấy, trong khi Sophie thì ra sức rền rĩ.
Sau đó cả hai mẹ con đều ngừng lại và chờ đợi. Chúng tôi đợi người còn lại trả lời câu hỏi của mình.
“Mình đi đâu thế mẹ?” Tôi hỏi lại. “Con trả lời trước đi.”
Tôi không chắc tại sao khi đó tôi lại nhường mẹ phần thắng nữa. Dù sao thì tôi cũng chẳng còn sức mà cãi nhau với mẹ nữa.
“Nhìn thảm lắm ạ? Chắc nó không đến nỗi tệ như bề ngoài đâu mẹ nhỉ. Đầu con va vào bàn khi con cúi xuống nhặt sách.”
“Thế sao con phải chạy?”
“Tự nhiên con thích thì chạy thôi. Giờ đến lượt mẹ trả lời rồi nhé. Mình đang đi đâu thế ạ?”
“Chúng ta đang rời khỏi thị trấn này.”
“Con biết rồi. Nhưng sao mình không quay lại nhà Dì Vi lấy đồ ạ?
“Mẹ lấy hết đồ đi rồi.”
“Sao mà mẹ đóng gói hết đồ được? Con mới đi có…” “Hai tiếng rưỡi.”
“Làm sao mẹ kiếm được thùng moóc và đóng gói đồ đạc nhanh thế được?”
Tôi bắt đầu thấy cổ họng đau rát khi phải cố hét to nãy giờ.
“Bởi, nếu con chưa kịp nhận ra, thì đồ đạc của mấy mẹ con mình cũng đâu có nhiều nhặn gì đâu.”
“Con không thể chịu đựng được nữa. Con cần mấy cái nút tai.”
“Mẹ rất tiếc. Mẹ gói hết chúng vào rồi.” “Con cần tìm chúng.”
“Này, nhóc. Mẹ đóng gói hết rồi. Mẹ vứt bừa mọi thứ vào mấy cái hộp và chất lên thùng xe rồi đó. Con định tìm mấy cái nút bịt tai bé xíu kiểu gì đây?”
Có gì đó trong tôi vỡ vụn. Ngay từ đầu thứ đó đã căng hơn cả dây đàn rồi. Tôi lấy hai tay bịt tai mình lại, rồi vùi đầu vào giữa hai đầu gối, sau đó lấy đùi kẹp thật chặt hai bên tai hết mức có thể.
Tiếng hét của con bé vẫn to kinh khủng.
Tôi cảm thấy xe mẹ quẹo phải liên tục. Hết lần này đến lần khác. Phải đến năm hay mười phút sau đó, tôi mới nhận ra mẹ đang lái xe đi lòng vòng quanh khu phố.
Khoảng mười lăm hay hai mươi phút sau thì tôi hoàn toàn kiệt sức và tuyệt vọng.
Tôi ngẩng đầu.
“Nếu mẹ định tiếp tục lái xe lòng vòng thế này, thì mẹ cho con ghé nhà Dì Vi một lúc được không? Hôm trước con đã đưa cho Dì một cặp nút tai. Có khi Dì vẫn còn giữ chúng.”
“Mẹ không nghĩ Dì sẽ cho chúng ta vào nhà đâu, nhóc ạ.”
“Chỉ mình con vào đó thôi. Không phải cả ba người chúng ta. Với cả con muốn kiểm tra lại lần cuối xem mẹ có bỏ quên đồ gì không.”
“Chẳng còn gì trong căn phòng đó đâu con ạ.”
“Thế mẹ đã lấy cái áo khoác con thích trong tủ chưa?” “Ờm…”
“Tuyệt. Tuyệt thật, mẹ ạ.”
“Thôi được rồi. Được rồi. Mẹ sẽ chở con đến nhà Dì Vi.”
Vài phút sau, mẹ dừng xe trước nhà Dì Vi. Sau khi tôi bước ra ngoài, thì mẹ liền lái xe đi tiếp. Thậm chí tôi còn chưa kịp đóng cửa xe lại nữa.
Tôi đứng trên lề đường nhìn mẹ lái xe đi, rồi chợt nhớ ra tôi quên chưa hỏi khi nào mẹ sẽ quay lại đón mình. Nhưng điều đó chẳng đáng sợ. Điều đáng sợ là tôi chẳng hề quan tâm mẹ có đến đón mình hay không. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong tâm trí tôi, rằng cuộc sống của tôi sẽ đổi thay nếu tôi không còn ràng buộc với một trong hai người đó. Nghe thật tệ, nhưng tôi thực sự đã nghĩ thế. Ừ thì tôi mới mười bốn tuổi. Sống tự lập đối với tôi sẽ rất khó khăn. Nhưng… liệu điều đó có khó khăn hơn tình hình hiện tại không? Làm gì có cái gì khó khăn hơn tình hình của tôi bây giờ chứ? Tôi nghĩ tâm trí mình đã cố tình khiến tôi nghĩ tới điều đó. Nhưng tôi nhanh chóng gạt suy nghĩ ấy qua một bên.
Dù thích hay không, thì hai người bọn họ là gia đình của tôi.
Tôi gõ cửa nhà Dì Vi. Đề phòng trường hợp Dì không cho tôi vào nhà thật. Vì không ai trả lời, nên tôi tự lấy chìa khóa của mình mở cửa.
Tôi thấy Dì Vi trong phòng ngủ. Dì bận áo choàng ngủ và nằm bệt trên giường. Tuy Dì trùm chăn, nhưng vẫn chưa ngủ. Dì ngước mắt nhìn tôi, như thể tôi chính là thủ phạm khiến Dì phải đau lòng đến vậy.
“Cháu thực sự rất xin lỗi Dì vì tất cả mọi chuyện” tôi nói.
Dì lại nở nụ cười buồn. “Ta thấy thương cháu hơn ấy. Cháu không thể chạy trốn như ta được. Cháu không thể nói với mẹ rằng, ‘Con không thể chịu đựng được nữa’ như ta được.”
Tôi hoàn toàn hiểu những lời Dì vừa nói. Vì tôi cũng đang ở vị trí ấy. Thực sự tôi cũng giống Dì, tôi không thể chịu đựng nổi nữa. Nhưng Dì nói đúng. Tôi không thể nói thế với mẹ được. Dì có thể vạch rõ giới hạn, còn tôi thì không.
“Có chuyện gì vậy ạ? Làm sao con bé biết được cô chó nhà bên đã chuyển đi ạ?”
“Họ mở cửa, sau đó con bé nhìn thấy một người hoàn toàn xa lạ bước ra từ trong nhà. Một người phụ nữ. Và chẳng có con chó nào cả. Chuyện đó xảy ra ngay sau khi cháu ra khỏi nhà. Con bé đã thật sự suy sụp đấy. Ta chưa từng thấy con bé như vậy. Vậy mà ta cứ nghĩ mình đã thấy điều tồi tệ nhất rồi chứ.”
“Cháu cũng không chắc ai trong chúng ta từng chứng kiến tình trạng tồi tệ nhất của con bé,” tôi đáp.
Rồi tôi nhận ra mình đã lỡ lời. Đáng lẽ tôi phải tránh nói ra điều đó. Nhưng ngày hôm nay của tôi thực sự quá tệ rồi, đến mức tôi quên khuấy mất mình nên tránh nói điều gì.
“Bạn cháu vừa đến, rồi lại đi mất rồi.” “Bạn nào ạ?”
“Quý cô đáng mến ở tiệm sách ấy. Cô ấy có gửi cho cháu một gói hàng nhỏ.”
Tôi cảm giác như có người vừa ném thẳng một quả bóng chày băng vào chính giữa mặt mình. Đúng là trò đùa, khi vừa nãy tôi còn nghĩ mình đang chìm xuống đáy và thậm chí tôi còn chẳng thèm bỏ ra chút cố gắng nào để cứu lấy bản thân.
“Làm sao chị ấy biết cháu sống ở đâu nhỉ?”
“Cô ấy gọi tới, và ta đã nói địa chỉ nhà mình cho cô ấy. Chúng ta nghĩ cháu sẽ về tới nhà khi cô ấy đến đây, nhưng cháu về muộn quá. Ta để gói hàng của cháu ở bên cửa ấy. Nhưng mấy mẹ con định đi đâu thế?”
Tôi thở gắt. Trong hoàn cảnh này, thì đó đúng là một câu hỏi thiếu tế nhị. Sao mọi người cứ hỏi tôi như thể tôi là người lớn vậy? Sao mọi người không thể nhìn nhận tôi theo đúng số tuổi nhỉ?
“Cháu… biết thế quái nào được.” Tôi suýt nữa còn nói bậy hơn nữa ấy. Không phải vì tôi bực tức với Dì đâu. Mà vì tôi muốn chửi cái tình huống quái quỷ này ấy. Nhưng tôi kịp kiềm chế bản thân. “Phải rồi. Dì nghe này, cháu xin lỗi Dì vì tất cả mọi chuyện. Cháu chỉ định quay lại xem mẹ cháu đã lấy hết đồ của cháu đi chưa thôi. À… Dì còn nhớ mấy chiếc nút tai cháu đưa Dì hôm trước không ạ? Dì còn giữ chúng không ạ?”
Dì Vi hơi nhỏm người dậy. Như thể Dì phải xốc lại cơ thể thì não mới hoạt động được ấy. “Ta nghĩ ta để chúng trong tủ thuốc ở phòng vệ sinh ấy. Nhưng chắc cháu không muốn dùng lại đồ ta đã nhét vào tai đâu, phải không?”
“Cháu đang tuyệt vọng lắm rồi ạ.” “Ừm… thế thì cháu vào tìm đi.”
Tôi bước vào nhà tắm. Tôi thấy bối rối khi nhìn mình trong gương. Tôi có một vết bầm to tổ chảng trên trán, còn hai mắt trông giống như vừa đi đánh trận về. Tôi mở tủ thuốc phòng tắm và tìm được đôi nút tai ngay tắp lự. Tôi có thể nhận ra màu xanh dương của chúng ở mọi nơi.
“Cháu cảm ơn Dì,” tôi nói trên đường đi qua phòng ngủ của Dì Vi. Tôi đặt chìa khóa nhà trên mặt bàn cạnh giường Dì. “Vì tất cả mọi thứ.”
Rồi tôi chạy tới phòng ngủ cũ của ba mẹ con tôi.
Tôi quờ tay phía dưới gầm giường. Tôi biết chắc chiếc rương nhỏ có khóa của mình vẫn nằm dưới đó. Trong đó chỉ có… những thứ quan trọng nhất tôi từng có trên đời thôi. Một con búp bê và hai cuốn sách ba tặng tôi hồi nhỏ. Chiếc áo sơ mi cũ của ba. Cuốn sách ảnh về Himalaya của tôi. Và chiếc nhẫn cũ của Bà tôi.
Tôi lại quờ tay xuống dưới tấm nệm, mò mẫm tìm chìa khóa. Tôi nhét chìa khóa vào sâu trong túi quần.
“Mẹ đóng gói đồ của con kĩ thật đấy!” Tôi cố tình nói to, dù chẳng ai nghe cả.
Tôi khiêng chiếc rương ra cửa trước, rồi túm chiếc áo khoác đẹp nhất của mình trong tủ.
Chiếc túi của chị Nellie nằm trên bàn gỗ nhỏ cạnh cửa chính. Chỉ là một chiếc túi giấy đơn giản có dán logo và địa chỉ Tiệm sách của Nellie. Tôi vắt áo khoác lên vai, sau đó ôm tất cả đồ đạc ra ngoài.
Vẫn chưa thấy mẹ đâu cả.
Tôi ngồi trên hiên, cảm giác mình vừa bị vạch trần. Có vẻ chị Nellie tới đây vì muốn làm hòa và nói chuyện với tôi. Nhưng tôi ghét nói chuyện. Ghét lắm lắm luôn ấy. Sao lúc nào mọi người cũng muốn khơi ra những chuyện không nên nói thế nhỉ?
Tôi mở chiếc rương, định cứ thế ném chiếc túi của Nellie vào trong rồi khóa chặt lại. Nhưng vì tôi không cầm lòng được, nên đã mở chiếc túi ra xem.
Trong đó là cuốn Cổ thư Tây Tạng về những Người Quá cố. Tôi càng thấy lo lắng hơn, cuốn sách đã thuộc về tôi rồi cơ đấy. Và bên trong còn một chiếc phong bì dán kín nữa.
Đột nhiên tôi có cảm giác choáng váng khó tả, như thể tôi vừa lọt vào giữa vùng thời gian bị bóp méo vậy. Sao người ta có thể hoàn thành nhiều việc trong khoảng thời gian ngắn đến vậy nhỉ? Làm sao chúng tôi từ những người có nhà lại thành bơ vơ vất vưởng, chỉ trong thời gian tôi đến tiệm Nellie vậy? Sao Nellie kịp sửa soạn mấy thứ này, rồi kịp xin địa chỉ nhà tôi và mang chúng tới đây, trong khi tôi vẫn đang chạy về nhà? À phải… tôi quên chưa tính đến khoảng thời gian mấy mẹ con lái xe lòng vòng ngoài kia.
Như thể tôi không sống cùng một tốc độ với mọi người vậy.
Tôi chẳng thể quyết định xem có nên mở phong bì đó ra không. Tôi cứ phân vân mãi, nửa muốn, nửa lại không muốn. Rồi tôi thấy rằng nên mở nó ngay, trước khi mẹ tôi xuất hiện. Nếu đợi đến lúc ấy mới thay đổi ý định thì muộn quá rồi. Dù tôi chẳng biết mình còn bao nhiêu thời gian trước khi mẹ chạy xe tới.
Tôi xé toạc phong bì. Trong đó có một tờ tiền một trăm đô-la được kẹp giữa một tờ biên lai ghi “Tiền công kiểm kê” và một lá thư tay rất dài. Sau khi thấy những thứ bên trong, thì tôi biết chắc rằng mình không hề muốn đọc lá thư đó.
Tôi chỉ đọc dòng đầu thôi. Thực ra tôi chỉ liếc nhìn nó một cái. Tôi thề, tôi không hề bịa đâu nhé - tôi đã đọc lá thư đó với đôi mắt nhắm hờ. Cảm tưởng khi tôi làm thế thì giống như tôi vừa đọc, vừa không đọc. Tôi chỉ đọc được câu: “Angie. Chị rất xin lỗi. Chị không bao giờ cố ý làm em thấy xẩu hổ...”
Tôi nhét vội lá thư vào phong bì. Trước khi tôi xấu hổ đến chết. So với những chuyện bẽ bàng tôi từng trải qua, thì việc bị ai đó chỉ ra nỗi xấu hổ của mình còn kinh khủng hơn thế.
Trong giây lát, tôi đã tự hỏi, không biết có phải mọi người trên thế giới này đều có vấn đề không, hay chỉ mỗi mình tôi là như vậy.
Tôi thấy mẹ quành xe ở cuối khu nhà, nên nhét luôn tờ tiền vào tận đáy túi quần bò. Sau đó tôi ném cuốn sách và lá thư vào rương rồi khóa lại.
Khi mẹ dừng xe, tôi thấy tiếng Sophie bắt đầu trở nên khàn khàn và đứt quãng. Nhưng con bé vẫn gắng sức rền rĩ.
Tôi vừa kịp nhào đôi nút tai và nhét chúng vào lỗ tai mình.
Tôi đặt chiếc rương và áo khoác vào phía cuối thùng moóc, rồi lên ghế trên ngồi cạnh mẹ.
Mẹ nói gì đó, nhưng tôi không luận ra nổi. “Gì cơ ạ? Con đang đeo nút tai mà.”
“Mẹ nói, ‘À, cái rương’,” Lần này mẹ nói to hơn nhiều. “Vâng. À, cái rương. Trong đó chỉ có mấy thứ quan trọng nhất của con thôi mà.”
“Mẹ xin lỗi.”
“Đáng lẽ mẹ không nên xếp đồ cho con. Đáng lẽ con nên được tự xếp đồ của mình.”
“Mẹ đã bảo con đừng đi mà.”
Khi đó tôi chợt hiểu rằng mẹ đã đúng. Đáng lẽ tôi không nên đi. Ngay từ đầu tôi đã biết vậy rồi. Nhưng lòng tôi cứ thấy chộn rộn vì một thứ tôi chẳng nỡ lòng từ bỏ.
“Mẹ nói đúng. Con xin lỗi.”
Chúng tôi tiếp tục lái xe tiếp một lúc nữa, nhưng không ai hé răng nói lời nào. Tiếng hét của Sophie bắt đầu giảm dần. Người ta chỉ đủ sức la hét ngần ấy thời gian thôi. Kể cả em gái tôi.
Mẹ vẫn lái xe lòng vòng. Tôi thấy chuyện này thật điên rồ đến mức tôi chẳng thể nói gì nữa.
Đến khi không thể chịu đựng được nữa, tôi đành hỏi, “Mình đi đâu thế mẹ?”.
“Mẹ chịu.”
“Chúng ta không thể đậu xe đâu đó quanh đây sao?” “Mẹ chẳng nghĩ ra chỗ nào đủ xa khu dân cư để không bị người ta gọi báo cảnh sát. Mẹ sẽ tiếp tục lái xe lòng vòng thế này cho tới khi con bé ngừng la hét.” “Rồi sao nữa ạ?”
“Con hỏi nhiều quá. Mẹ cần thời gian suy nghĩ.” “Con xin lỗi.”
Lúc đó là khoảng ba, hoặc bốn giờ chiều. Đột nhiên tôi choàng tỉnh, dù tôi cũng không nhớ mình đã thiếp đi từ lúc nào. Chiếc xe của chúng tôi đang đậu ngay trước cổng nhà Dì Vi. Sophie thì đang ngủ say sưa ở ghế sau. Nhưng tôi chẳng thấy mẹ đâu cả.
Tôi lại nhắm mắt.
Tôi cảm thấy dễ chịu hơn một chút, vì nghĩ mẹ đã vào trong nhà nói chuyện với Dì Vi. Có thể bây giờ hai người đã sắp xếp được ổn thỏa mọi chuyện. Có khi mẹ con tôi sẽ được ở lại nhà Dì, ít nhất thêm một đêm nữa.
Tôi chẳng biết mình đã chợp mắt thêm bao lâu, nhưng khi mở mắt, thì tôi thấy mẹ qua gương chiếu hậu. Mẹ đang đứng trên hiên nhà cũ của ông Paul Inverness.
Và mẹ đang nói chuyện với bà Rachel.
“Cái quái gì vậy?” Tôi nói. Nhưng tôi chỉ dám thì thào vì sợ sẽ đánh thức Sophie. Điều đó gần như là không thể khi con bé đã la hét tới kiệt sức. Dù sao tôi nghĩ mình vẫn không nên mạo hiểm.
Tôi giật nảy mình khi nghe tiếng cửa ô tô sập mạnh. Tôi quay sang nhìn mẹ.
“Mẹ vừa làm gì thế?”
Mẹ không trả lời. Mẹ chỉ lẳng lặng khởi động xe và lái đi luôn. Tôi tự hỏi liệu mình có thực sự muốn hối thúc mẹ để nghe câu trả lời không. Vào một ngày tồi tệ thế này, liệu mình có thực sự muốn nghe tin xấu ngay không?
Lần này chúng tôi không lái xe lòng vòng quanh khu phố nữa. Xe chúng tôi ra tới đường cao tốc.
“Vậy…” tôi nói, muốn thử xem mẹ phản ứng ra sao. “Giờ con có thể hỏi mình đi đâu được chưa ạ?”
“Được rồi,“ mẹ đáp. “Giờ con có thể hỏi. Chúng ta chuẩn bị tới một thị trấn nhỏ dễ thương ở trên núi. Và mẹ con mình sẽ bắt đầu cuộc sống mới ở đó. Nếu thị trấn đó thật sự nhỏ như mẹ nghĩ, thì có khi chúng ta còn thuê được một nơi tách biệt hẳn khỏi khu dân cư ấy chứ.”
“Trên núi sao?” Tôi đáp. Tôi không dám tin vào điều mẹ nói.
“Ở đó rất tuyệt. Rồi con sẽ thấy.”
Khi ấy tôi chợt nhận ra, rằng mẹ tôi chẳng hề hay biết tôi thích vùng núi đến mức nào. Có lẽ cả đời này tôi chỉ giấu được mỗi bí mật đó cho riêng mình thôi.
“Dãy núi nào cơ ạ? Ở đâu vậy ạ?”
“Dãy Sierra Nevada ấy. Ở ngay gần hồ Kehoe.”
Phải mất một lúc tôi mới định hình được. Những điều mẹ nói rơi vào tâm trí tôi hệt như những mảnh ghép của bộ xếp hình. Tôi phải mất chút thời gian để chắp ghép những manh mối đó.
Khi tôi hiểu ra, tôi đã hét lên rất to. Quả là thần diệu khi Sophie không tỉnh dậy. “Ôi Chúa ơi!”
“Nói nhỏ thôi con!”
“Mẹ không được! Không thể! Mẹ không nghiêm túc đúng không! Ông ấy đã phải chịu đựng và cố gắng làm việc chăm chỉ cả đời để được tới đó an dưỡng tuổi già trong yên bình đấy!”
“Nhưng ông già đó đâu có sở hữu cả thị trấn đâu.”
“Sao mẹ lại nghĩ điều này sẽ thành công chứ? Mẹ nghĩ là mẹ sẽ may mắn tìm được một chỗ thuê trọ ở ngay sát hàng rào nhà ông ấy à? Chuyện này đúng là điên thật!”
“Ít ra chúng ta có thể thử mà.”
“Con không thể tin nổi mẹ lại làm chuyện này. Khi thấy chúng ta, ông ấy sẽ sốc chết mất.”
“Thế con có ý tưởng nào hay hơn à?”
Những cuộc tranh luận của chúng tôi luôn dừng lại ở đó. Hoặc tôi đồng ý với mấy ý tưởng siêu tồi tệ của mẹ, hoặc tôi phải tự nghĩ ra ý tưởng hay hơn. Tôi lúc nào cũng chỉ có từng ấy lựa chọn thôi.
Chẳng có sự lựa chọn nào giúp tôi trưởng thành cả. Chí ít theo ý kiến của tôi là như vậy.
Tôi nhắm mắt suốt cả quãng đường rời khỏi thành phố. Tôi thề là suốt quãng đường tôi không ngủ được chút nào, nhưng đột nhiên tôi choàng tỉnh, và thấy xe đang ở giữa đồng không mông quạnh. Trời tối thui, lại còn mưa tầm tã nữa, và ô tô của chúng tôi chẳng hề nhúc nhích.
Mẹ tôi vẫn đặt hai cánh tay trên vô lăng, còn đầu mẹ thì gục xuống.
Tôi nhìn mẹ một lát, rồi cố gắng tỉnh táo trở lại. Tôi ngắm làn mưa rơi lộp độp trên cửa kính chắn gió, từng giọt mưa to khi rơi lên mặt kính lại chia thành nhiều giọt nhỏ li ti khác. Bầu trời lóe sáng, và tôi thấy rõ từng nhánh chớp nhỏ xuất hiện ở phía chân trời khi chúng truyền xuống đất.
Tôi quay lại nhìn Sophie, nhưng con bé vẫn đang ngủ mê mệt.
Mẹ giật nảy mình khi tiếng sấm vang lên. “Ồ, con tỉnh rồi à,” mẹ nói.
“Vâng. Thế chúng ta đang làm gì đây ạ?” “Chẳng gì cả.”
“Mẹ không nhìn đường được ạ?”
“Mẹ nhìn được. Không phải vì lí do đó đâu.”
Lúc đó tôi có thể hỏi, “Nếu vậy thì là gì ạ?”. Nhưng câu đó hiển nhiên quá. Khi bạn nói với người khác là “không phải vì lí do đó đâu” thì bạn phải chuẩn bị nói nốt điều mình định nói, chứ không phải đợi người khác hỏi thêm.
Một lát sau, mẹ nói, “Có thể chuyện này điên rồ thật”.
“Vâng, đúng là điên rồ thật mà.”
Một lúc lâu sau, mẹ chẳng nói gì nữa, và tôi cũng vậy. Cuối cùng thì tôi thấy chán vì phải chờ đợi, nên đã hỏi, “Thế chúng ta còn cách nào nữa ạ? Nếu chúng ta không thử cách này?”.
Mẹ cười phá lên, nhưng không phải kiểu cười vui vẻ. “Ừa, giờ con hiểu ra vấn đề rồi đó. Đấy là lí do mẹ luôn đưa ra mấy quyết định điên rồ và hành xử theo cảm tính. Và mẹ chẳng có kế hoạch dự phòng nào cả.” “Thế mình đi được bao xa rồi ạ?”
“Hơn nửa đường rồi.”
Những tia chớp tiếp tục sáng lóe trên bầu trời, nên mẹ co rúm người chờ đợi tiếng sấm. Nhưng tiếng sấm lần này nhỏ hơn lần trước nhiều.
“Có thể…” mẹ tiếp tục.
Và tôi biết ngay mẹ sắp nói ra điều gì đó tồi tệ. Tôi cũng lờ mờ đoán được đó là gì.
Tôi cảm giác Trái Đất đúng là phẳng thật, và tôi đã chèo thuyền đến tận rìa của nó rồi, dù chẳng hề để ý tới điều đó. Tôi cảm giác như mình như đang ngã xuống vực, và ở đó chẳng có gì ngăn tôi lại. Từ lúc ở hiệu sách tôi đã có cảm giác như vậy. Tôi thấy mình cứ rơi, mà mãi mà chưa chạm đáy.
“Có thể gì ạ?”
“Có thể mẹ con mình phải nghĩ lại về điều chúng ta từng gạt đi trước đây. Và… con biết đấy. Có lẽ… ta nên suy nghĩ nghiêm túc hơn về chuyện đó.”
Tôi hầu như chẳng còn cảm xúc gì, vì thực sự não tôi chẳng còn đủ chỗ để nạp thêm những điều tồi tệ hơn nữa.
“Con không thể tin là mẹ định làm thế đấy. Con không thể tin là mẹ dám nói ra chuyện đó nữa. Mẹ đã hứa rồi mà. Cả hai chúng ta đã hứa rồi mà.”
“Này nhóc, chúng ta bị dồn đến đường cùng rồi. Con không nhận ra sao?”
“Điều đó không quan trọng. Đó là lời hứa cơ mà. Và mẹ hứa rồi thì phải giữ lời, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa. Mẹ định chạy trốn khi tình hình trở nên khó khăn à. Vậy còn con thì sao? Nếu con là gánh nặng của mẹ thì sao? Liệu mẹ có đuổi con đi không?”
“Nói thế thật không công bằng chút nào,” mẹ đáp, giọng mẹ rít lên đầy giận dữ và đau đớn. “Hai chuyện đó không giống nhau, con cũng biết thế mà.”
“Sao lại không chứ? Cả hai đứa tụi con đều là con gái mẹ. Tụi con sẽ mãi mãi là con gái mẹ, hoặc không. Dù bất cứ chuyện gì xảy ra thì tụi con vẫn là con của mẹ cơ mà.”
Một tia chớp nữa lại lóe sáng.
Mẹ chẳng đáp. Thi thoảng khi mẹ thực sự buồn, thì bà sẽ chẳng nói câu nào. Tôi không biết liệu đó là vì mẹ không nghĩ ra điều gì để nói, hay vì mẹ không thích những điều mình đang nghĩ.
“Được rồi,” tôi nói. “Đúng là hai chuyện đó không giống nhau. Con xin lỗi. Nhưng chúng ta đã hứa rồi.”
“Thế kế hoạch của con là gì?”
Tôi ghét phải nghĩ thế này, nhưng tôi chợt nghĩ, có khi mẹ cố tình nhắc đến lời hứa đó. Có khi chuyện bỏ Sophie ở trung tâm chăm sóc đặc biệt thực ra là một chiêu của mẹ để đùn đẩy trách nhiệm cho tôi quyết định ấy. Nhưng tôi lại gạt suy nghĩ đó đi. Có thể điều tôi vừa nghĩ là đúng. Nhưng điều đó chẳng quan trọng.
Nên tôi nói, “Mẹ con mình có thể đến thị trấn nhỏ ông Paul đang sống. Nhưng chúng ta sẽ phải thống nhất với nhau vài điều. Con không muốn mẹ hoặc Sophie đến gần ông ấy, vì con nghĩ ông sẽ không muốn thế đâu. Nhưng con và ông ấy nói chuyện khá hợp nhau. Nên con có thể tới trình bày hoàn cảnh hiện giờ của chúng ta cho ông ấy, có thể con sẽ đề nghị dắt chó miễn phí cho ông ấy. Và khi đó Sophie có thể đi cùng con, vì ông ấy không bao giờ đi cùng tụi con. Có lẽ con bé sẽ bình tĩnh lại, một khi nó biết sẽ được gặp cô chó của mình vào ngày hôm sau. Mẹ biết đấy, con bé cũng hành xử như vậy khi ở nhà Dì Vi mà. Nhưng chúng ta có đủ tiền thuê trọ không ạ?”
“Có và không.” “Nghĩa là sao ạ?”
“Chúng ta có thể thuê một chỗ để ở tạm một thời gian. Hoặc dùng số tiền đó mua đồ ăn. Nhưng chúng ta không đủ tiền để vừa ăn vừa ở đâu.”
Tay tôi chạm vào mấy nếp gấp trên tờ một trăm đô của chị Nellie. Nó vẫn đang yên vị trong túi quần tôi. Nhưng tôi không nói với mẹ về khoản tiền đó. Không phải tôi định từ chối mẹ đâu. Tất nhiên chúng tôi vẫn phải ăn chứ. Nhưng tôi muốn giữ khoản tiền đó cho riêng mình thêm một thời gian nữa, trước khi đóng góp cho gia đình như tôi vẫn luôn làm.