H
ôm đó lại là thứ Bảy, đúng ba tuần sau lần nói chuyện cuối cùng giữa ông Paul và tôi. Trong ba tuần đó, tôi đã bắt đầu đi học ở trường mới, và phải học bù một đống bài cho kịp với bạn bè ở trường. Hôm đó, đột nhiên tôi nghe thấy tiếng gõ cửa.
Dì Vi đã về nhà từ rất lâu rồi, nhưng khi ấy Dì vẫn đang nằm bệt trên giường. Mẹ tôi thì đang ở ngoài sân sau để trông nom Sophie. Em đang nằm trên bãi cỏ gần hàng rào, kiên nhẫn chờ đợi Chu của con bé xuất hiện.
Tôi chạy ra mở cửa.
Người đứng trên hiên nhà là ông Paul Inverness.
Hôm đó ông bận quần bò và một chiếc áo len màu xám. Có lẽ hôm qua ông chưa cạo râu, nên tôi mới được thấy bộ râu ngày một bạc trắng của ông. Màu xám của chiếc áo len giống hệt màu đôi mắt ông.
“Cháu tưởng ông muốn ở một mình?” Tôi nói.
“Ta biết cháu sẽ nói vậy. Nhưng ta tới vì muốn hợp tác làm ăn với cháu.”
Tôi phụt cười. Nghe như tiếng khạc nước miếng vậy.
“Ông muốn hợp tác làm ăn với cháu á? Cháu mới mười bốn tuổi thôi mà.”
“Ta muốn đề nghị cháu làm giúp ta một việc vặt.” Tôi hơi chau mày. “Việc vặt gì vậy ạ?”
“Dắt chó đi dạo.”
“Ồ. Ông muốn cháu dắt Rigby đi dạo ạ?”
“Chỉ trong vài tuần thôi. Bệnh thần kinh tọa của ta lại tái phát rồi. Ta đã tới chỗ bác sĩ vật lý trị liệu, nhưng có lẽ phải một thời gian nữa ta mới đỡ đau. Đây là cơn đau tệ nhất từ trước đến nay. Ta bị đau tới tận gót chân luôn. Kể từ khi nuôi Rigby, ngày nào ta cũng dắt nó đi dạo ít nhất hai dặm19. Chúng ta chưa từng nghỉ ngày nào, kể cả ngày lễ. Kể cả khi ta bị ốm. Nhưng hiện giờ ta đã nghỉ những hai ngày rồi. Điều này bất công với nó quá.”
19 Hơn 3 kilomet.
Những lời ông nói nghe giống một bài diễn văn đã được diễn tập kĩ càng. Và nếu đúng thế thật, thì có vẻ ông Paul Inverness và tôi có nhiều điểm chung về tính cách hơn tôi tưởng đấy.
“Thế… cháu sẽ làm việc đó mỗi ngày ạ?” “Ừ. Chỉ trong vài tuần thôi.”
“Ông sẽ trả cháu bao nhiêu ạ?”
“Cháu nghĩ ta nên trả cháu bao nhiêu thì ổn?”
“Cháu chịu thôi. Cháu còn chẳng biết lương lậu của mấy người dắt chó là bao nhiêu. Ông cứ ra giá đi ạ.”
“Chà. Chắc cháu sẽ mất khoảng ba mươi phút mỗi ngày đấy. Mười đô-la20 được không?”
20 Khoảng 200.000 VNĐ.
Tôi kinh ngạc. Tôi thấy mắt mình biến thành hai chữ O to đùng. Tôi đã cố tỏ ra thờ ơ, nhưng tôi không nghĩ mình giấu nổi sự ngạc nhiên kia.
“Mười đô-la...” “Ừ...”
“Mỗi…”
“Ngày. Mỗi lần dắt chó..” Nghĩa là hai mươi đô mỗi giờ.
Tôi chìa tay mình ra thật nhanh để nhận lấy thỏa thuận đó. Trước khi ông kịp tỉnh ngộ, và nhận ra mình đã trả giá quá cao cho đứa nhóc này. Tôi thấy tay ông khá mềm, hệt như bề ngoài của nó vậy. Có lẽ ông chưa từng làm việc nặng. Nhưng đôi tay ấy cũng khá mạnh mẽ và hơi khô ráp nữa.
“Ta không chọn bừa người giúp ta dắt chó đâu.” Ông nói, trước khi rời khỏi hiên nhà tôi. “Có lẽ trước đây ta còn nghĩ mình sẽ không bao giờ tin tưởng giao Rigby cho bất kì ai. Nhưng ta thích thái độ của cháu dành cho nó...”
Tôi chẳng biết phải đáp lời ông thế nào. Nhưng chuyện đó cũng chẳng quan trọng lắm, bởi trước khi tôi kịp mở miệng nói thì ông đã đi nửa đường về nhà mất rồi. Có lẽ khoảng cách đó khá xa, chắc ông không nghe thấy tiếng tôi đâu.
Tôi chạy tới chỗ mẹ đang ngồi ngoài sân sau, và báo ngay cho mẹ về công việc mới của mình.
“Ôi, con yêu.” Mẹ nói. “Ôi, Chúa ơi. Thật tuyệt vời. Chúng ta thực sự rất cần số tiền đó. Những bảy mươi đô một tuần! Đúng là một khoản lớn đấy...”
Sau đó chúng tôi im lặng nhìn nhau. Cả hai mẹ con tôi đều suy nghĩ về điều mẹ vừa nói. Tôi dần chấp nhận rằng mẹ nghĩ số tiền đó là dành cho cả nhà. Trong lúc đó, tôi cũng quan sát mẹ từ từ hiểu rằng tôi nghĩ số tiền đó sẽ thuộc về tôi.
“Ôi, con yêu, mẹ hiểu mà. Mẹ biết điều đó thật không công bằng với con, nhưng ba chúng ta rất cần khoản tiền đó. Sau này mẹ sẽ trả cho con. Mẹ thề đấy. Mẹ sẽ ghi lại từng đồng, từng cắc, để sau này trả lại cho con khi tình hình chúng ta khá khẩm hơn.”
Khi tình hình khá khẩm hơn. Trong nhà tôi, câu đó nghĩa là không-bao-giờ. Nhưng tôi không nói với mẹ như thế.
“Mẹ không phải trả cho con đâu. Con là một thành viên trong gia đình mình mà.”
Nhưng giọng tôi nghe có vẻ nặng nề và sầu thảm, như kiểu tôi vừa nhảy tõm từ trên mỏm đá cao chót vót xuống đáy đại dương buồn thảm ấy. Ừm… Sự thật đúng là như vậy mà.
“Ồ, con yêu, mẹ xin lỗi. Chỉ là...”
“Con không được giữ chút tiền nào sao? Chỉ một chút xíu cũng không được ạ?”
“Con nói đúng. Con nên giữ lại một chút.”
Rồi tôi chờ đợi, thậm chí còn chẳng dám thở mạnh. Mẹ thì suy nghĩ xem “một chút” của tôi nên là bao nhiêu.
“Con có thể giữ số tiền dắt chó của mỗi ngày đầu tuần. Như vậy được không?”
Woa. Tôi nghĩ. Đúng là một xíu, theo đúng nghĩa đen luôn. Thôi, thế cũng được.
“Vâng,” tôi đáp. Và quay người đi luôn. “Angie, đừng giận mẹ mà.”
Tôi ngừng bước và quay lại. “Con không giận mẹ.” “Trông con giống đang giận mà.”
“Con không giận. Giờ con phải đi dắt chó đây.”
“Cháu vào đi,” ông Paul mở cửa và bước lùi lại. “Cháu vào nhà đi.”
Tôi không hề mong ông sẽ mời tôi vào nhà. Tôi cứ nghĩ ông sẽ trao dây xích cho mình qua khe cửa để tôi không thể nhìn thấy các thứ trong nhà ông.
Tôi bước vào phòng khách của ông, đảo mắt quanh phòng, cố gắng không để lộ vẻ tò mò. Rigby ngồi phía bên trái tôi, nên tôi đưa tay vuốt ve từ đỉnh đầu xuống chỗ vòng cổ sau gáy nó.
Đúng là căn phòng của đàn ông. Trong đó chẳng có chút màu sắc nào cả. Một chiếc thảm màu xám, cộng thêm chiếc ti vi màn hình phẳng khổng lồ màu đen, rồi bộ ghế trong phòng khách cũng có màu đen nốt. Đúng là đơn giản như những gì ông nói. Chẳng có chi tiết thừa thãi nào trong căn phòng này. Chẳng có tạp chí. Cũng không có thư từ. Không có cốc, cũng chẳng có ly.
Ông có một chiếc giá sách to bằng cả bức tường, nhưng không phải ngăn nào cũng để sách. Ông đặt những lọ hoa, tượng và những khung tranh nghệ thuật trong những ô không có sách. Trên đó còn đặt bức ảnh của một người phụ nữ. Bà ấy rất xinh đẹp, với mái tóc đen cùng sống mũi dài và thẳng.
Tôi nghĩ ông từng lấy vợ, nhưng vợ ông đã qua đời. Hoặc bà ấy đã bỏ đi.
Không đúng, tôi chắc chắn bà ấy đã qua đời. Bởi khi ba của Sophie bỏ đi, mẹ tôi đã dỡ toàn bộ ảnh của ông ấy xuống. Nhưng khi ba tôi qua đời thì mẹ vẫn để lại mấy bức hình của ông trên tường.
Tôi chưa ở trong ngôi nhà nào gọn gàng thế này. Đối với tôi, điều đó thật sự quá kì diệu, kì diệu đến mức không tin nổi. Đầu tiên tôi thắc mắc, có khi nào ông vơ hết đống lộn xộn nhét vào hộp vì biết tôi sắp tới không. Nhưng sau đó tôi biết ông không làm thế. Phong cách sống của ông đúng là kiểu đơn giản, gọn gàng thế này thật. Căn nhà này giống hệt chủ nhân của nó. Trong căn nhà đó chỉ có những đồ dùng thiết yếu thôi.
“Cháu thật tốt bụng,” ông nói. “Đặc biệt là lần trước ta thậm chí còn cáu kỉnh với cháu nữa.”
“Ông chưa bao giờ dễ chịu với cháu mỗi lần chúng ta nói chuyện ạ.”
Ông Paul cười phá lên. Điều này khiến tôi khá ngạc nhiên, ngay cả khi tôi đã biết khá nhiều điều về ông. Tôi nghĩ là chưa đủ nhiều, nhưng ít ra vẫn còn hơn những người hàng xóm quanh đây.
“Vậy thì cháu còn tốt bụng hơn thế nữa.”
“Cháu chẳng tốt đẹp gì đâu. Chỉ vì nhà cháu cần tiền thôi.”
Ông im lặng, nhưng tôi không hiểu tại sao ông lại im lặng thế.
“Nhà cháu ư? Thế cháu không được giữ số tiền đó à?”
“Dạ, cháu cũng được giữ lại một chút” tôi nói. Nhưng tôi nói câu đó quá muộn. Trước đó, tôi đã ngoảnh mặt đi, nên ông thừa biết tôi đang xấu hổ. Đáng lẽ tôi nên giữ bí mật thì lại buột miệng nói ra. “Cháu được giữ một chút và phần còn lại cháu đưa cho mẹ.”
“Đối với một cô bé ở tuổi cháu thì như vậy là quá nhiều trách nhiệm đấy.”
“Lúc nào cũng thế mà ông,” tôi nói.
Cũng không hẳn vậy. Khi ba tôi còn sống thì tôi không phải gánh nhiều trách nhiệm thế này. Trước khi Sophie ra đời nữa. Nhưng tôi không định nói với ông về mấy điều đó. Vả lại, tôi cảm giác đời mình như đã qua mấy kiếp rồi vậy. Như thể tôi đã chết đi, rồi tái sinh vào đúng bể khổ này.
“Chỉ bốn tuần thôi mà, cháu biết đấy.”
Tôi phì cười. “Ông còn biết cả ngày mà cái… bộ-phận- đang-trục-trặc… của ông sẽ đỡ hơn sao?”
“Không. Sau bốn tuần nữa ta sẽ nghỉ hưu.”
“Thế thì sao ạ? Như vậy ông càng có thêm thời gian để đưa Rigby đi dạo chứ ạ.”
“Không, ta sẽ chuyển nhà,” ông ấy nói. Như thể đó là điều tôi phải đoán được vậy. Hình như ông ấy thấy hơi lạ khi tôi không nhận ra điều đó.
Thông tin này khiến tôi cảm thấy như có một con dao sắc lạnh găm vào mạn sườn vậy. Khi tôi cố gắng hít một hơi thật sâu, tôi có thể thấy mũi dao ở ngay vị trí ấy.
“Ông sẽ đi đâu ạ?” Tôi hỏi, cố gắng tỏ ra tự nhiên nhất có thể.
“Ta sẽ chuyển lên núi, ở một thị trấn nhỏ trên dãy Sierra Nevada. Chỗ đó khá gần hồ Kehoe. Anh trai ta có một căn nhà nghỉ dưỡng tại đó, nhưng ông ấy chán ngấy căn nhà đó rồi. Nên ta đã đổi căn nhà này để lấy căn nhà đó của ông ấy, còn anh ta thì sẽ bán căn nhà ở đầu kia thị trấn và chuyển tới đây.”
“Ồ,” tôi nói, trong lòng tôi vẫn chưa hết bàng hoàng. Thời gian qua, ba mẹ con tôi đã điềm nhiên sống trong cái bong bóng an yên này. Đối với chúng tôi, đó chính là hạnh phúc. Không phải tôi không nhận ra sự an yên đó. Điều đó quá rõ ràng. Nhưng tôi không nhận ra, rằng đó là một chiếc bong bóng. Giờ thì tôi biết rồi. Thậm chí tôi còn biết chính xác khi nào chiếc bong bóng đó sẽ vỡ òa. “Cháu thích vùng núi lắm. Thật tuyệt khi ông được chuyển tới đó sống.”
“Đây, để ta dạy cháu cách sử dụng những thứ này nhé.” Ông giơ chiếc vòng cổ chó da trơn và chiếc dây dắt chó da nâu. Rigby đứng dậy, cả người nó lúc lắc mừng rỡ, nên đuôi nó đập mạnh vào mông tôi. Đau như bị đánh bằng roi da ấy. À, cái đó là tôi tưởng tượng thôi. Vì thực ra tôi cũng chưa bị đánh bằng roi da bao giờ cả.
“Ui da!”
“Ồ, cẩn thận đuôi nó nhé.” “Cảm ơn ông đã nhắc cháu ạ.”
“Nó sẽ đi về phía tay trái của cháu. Nên cháu tròng vào người nó thế này nhé.” Ông làm mẫu cho tôi. Ông tròng chiếc vòng cổ nặng trịch, sau đó luồn dây dắt chó qua đó, rồi để dây xích chùng xuống.“Như vậy thì trọng lực sẽ giúp chiếc vòng được nới lỏng, miễn là Rigby không kéo căng dây dắt chó.”
“Rigby còn to hơn người cháu. Nhỡ nó lôi cháu đi thì sao ạ?”
“Nó sẽ không lôi cháu đi đâu.” “Ồ.”
Tôi nắm lấy dây dắt chó rồi thử đi vài bước, và ngay khi tôi rảo bước, Rigby liền đứng dậy và bắt nhịp cùng tôi ngay. Khi tôi dừng lại, thì nó lại ngồi xuống ngay phía bên tay trái tôi.
“Cháu thấy không? Nó biết mình cần làm gì mà. Cháu có biết cái công viên nhỏ có đài phun nước không?”
“Cháu biết ạ.”
Lần nào tới thư viện tôi cũng đi ngang qua đó.
“Từ đây tới đó là một dặm. Nên cháu chỉ cần đi vòng qua thác nước rồi quay lại thôi.”
“Vâng ạ.”
Rigby và tôi đi về phía cửa.
“Dạo này em cháu im lặng nhỉ” ông nói. Tôi dừng lại. Rigby lại ngồi xuống. “Vâng. Đúng vậy ạ.”
“Ta tưởng không ai hay vật gì có thể làm con bé im lặng?”
Tôi quay lại nhìn ông. “Đúng là chẳng có ai hay cái gì có thể khiến em cháu im lặng. Là do con bé tự im thôi ạ. Lúc đầu, con bé thường cảm thấy buồn rầu khi Rigby phải vào nhà, nhưng sau đó ngày nào nó cũng thấy Rigby ra ngoài. Nên có lẽ Sophie hiểu rằng Rigby sẽ luôn quay lại với nó. Vậy nên bây giờ con bé chỉ ngồi cả ngày bên hàng rào chờ Rigby, và không làm ầm nữa. Thường thì con bé sẽ ngủ gật luôn ngoài sân, sau đó cháu hoặc mẹ sẽ bế nó vào nhà.”
“Con bé không đến trường hay đi trị liệu tâm lý sao?” “Đó là một câu chuyện dài ạ.”
“Vậy thôi, cháu đừng bận tâm. Hãy quên chuyện ta vừa hỏi đi.”
“Con bé từng đi học ở khu nhà cũ của cháu rồi ạ. Khi nhà cháu còn ở trong thành phố. Ở đó có một trường mẫu giáo dành cho trẻ đặc biệt. Giờ nhà cháu phải quyết định thời điểm thích hợp để cho con bé vào học lớp một. Mẹ và cháu phải tìm một ngôi trường tốt cho Sophie, nên cháu nghĩ có thể mẹ cháu sẽ đợi thêm một năm nữa.”
“Ta hiểu rồi.”
“Con bé sẽ không vui khi ông chuyển đi đâu ạ.”
“Ừ,” ông nói. “Ta cũng không nghĩ là con bé sẽ vui đâu.” Dựa vào câu nói đó, tôi hiểu ông muốn nói rằng: đó không phải là vấn đề của ông. Và ông cũng biết rõ điều đó.
Nhưng chắc chắn đó là vấn đề của tôi.
Tôi đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vừa mới bước chưa đầy hai mươi bước khỏi cửa.
Tôi đã sang đường.
Đó chỉ là một việc hết sức bình thường. Nhưng sau đó tôi nghe tiếng Sophie hét toáng lên từ phía sân sau nhà chúng tôi.
“Chu!” Con bé hét lên. “Chu, chu, chu! Chuuuuuu!”
Tôi quay ngoắt người lại và nhìn thấy con bé qua hàng rào. Nhưng chỉ có tôi nhìn thì chẳng sao. Vấn đề là con bé nhìn thấy tôi, và cả Rigby nữa. Nên tôi đi tiếp. Thực ra tôi đã cố bước đi thật nhanh.
Thêm ba tiếng chu nữa, và con bé bắt đầu rền rĩ sau tiếng chu thứ ba.
Tôi quay lại chỗ hàng rào. Tôi làm gì còn lựa chọn nào khác chứ?
Giờ thì tôi mắc kẹt toàn tập rồi.
Khi tôi đến nơi thì thấy cả mẹ và Dì Vi đang lớn tiếng với nhau ngoài sân.
Tôi nghe tiếng Dì Vi nói, “Ta tưởng con bé ngừng hét rồi chứ. Cháu nói với ta là con bé ngừng hét rồi mà”.
Và mẹ nói, “Con bé ngừng hét rồi mà. Con bé ngừng la hét rồi. Dì làm ơn vào nhà đi, Dì Vi. Cháu sẽ lo liệu chuyện này”.
Tôi đứng đợi ngoài cổng, cho đến khi tôi nghe tiếng cửa bếp đóng sầm lại. Sau đó mẹ bước tới chỗ Sophie, Rigby và tôi đang đứng đối diện với nhau ở hai phía hàng rào.
Trông mẹ có vẻ hoảng sợ. Nếu cả mẹ bạn cũng thấy sợ hãi thì tình hình còn đáng sợ hơn nhiều.
“Con bé nhìn thấy con.” “Con nghĩ vậy.”
“Sao con bé không hét như vậy mỗi khi ông hàng xóm dắt chú chó đó đi dạo mỗi sáng nhỉ?”
“Cô chó. Con chịu thôi. Con đoán là vì họ không sang đường. Con nghĩ con bé chỉ nhìn thấy vì bọn con sang đường thôi.”
Tôi lại thấy vẻ hoảng sợ trên mặt mẹ một lần nữa. Điều đó khiến tôi rợn người.
“Chúng ta nên làm gì đây?” Mẹ hỏi.
“Con không biết, mẹ ạ. Con phải dắt chó đi dạo. Đó là nhiệm vụ của con.”
Mẹ thở dài. “Chắc mẹ lại phải tóm lấy con bé, rồi tống vào tủ quần áo. Và khi con quay lại, chắc Dì Vi đã tới nhà nghỉ rồi. Nhưng chúng ta chẳng còn lựa chọn nào khác. Ôi, Chúa ơi, đừng để Dì đuổi chúng ta khỏi nhà hôm nay chứ.”
“Không ạ. Mẹ mở cổng ra đi.”
Im lặng.
“Mở cổng á?”
“Vâng. Mẹ thử cách đó đi. Mẹ mở cổng ra đi.” “Rồi sao nữa?”
“Rồi con sẽ thử đi bộ xuống phố, và chúng ta sẽ xem con bé định làm gì.”
“Con bé sẽ đi theo con.”
“Con cũng nghĩ vậy. Phải đó.”
“Con có chắc mình trông được em khi mấy đứa đi trên đường không?”
“Không ạ. Thế mẹ có chắc mẹ trông được con bé ở đây không?”
Mẹ lại im lặng trong lo sợ.
“Nhỡ con bé chạy xuống lòng đường thì sao?”
“Con nghĩ là con bé sẽ đi sát Rigby, nhưng chúng ta phải thử mới biết được. Con sẽ đi thử trên lối vào ga-ra, hoặc ngay trước cổng nhà mình cũng được.”
Tôi thề, tôi có thể nghe rõ tiếng thở dài của mẹ. Mẹ ra mở cổng.
Sophie lon ton chạy về bên tay trái của tôi, kế bên là Rigby đang lịch sự ngồi ngay sát chân tôi. Em quỳ lên hai cẳng chân và chống hai tay đằng trước. Con bé bắt chước y hệt dáng ngồi hình tam giác của Rigby.
Tôi đi vài bước xuống lối vào ga-ra, và Rigby nối gót ngay theo. Sophie có vẻ bất ngờ, nên vài giây sau con bé mới hiểu ra. Em vội vàng bật dậy, và phải chạy theo chúng tôi cho kịp. Khi con bé đang chạy thì tôi dừng lại, và con bé lại bắt chước y hệt dáng ngồi tam giác ở phía bên trái Rigby.
Tôi ngoái đầu nhìn mẹ.
“Bọn con đi đây,” tôi nói. “Mẹ chúc con may mắn đi.” Mẹ chẳng nói lời nào. Nhìn mặt mẹ, tôi hiểu ngay, dù mẹ có cố gắng thì cũng chẳng nói ra lời nào được đâu.
“Mẹ. Mẹ làm gì đó đi. Mẹ vào nhà nói với Dì Vi rằng mọi chuyện sẽ ổn đi.”
Mẹ cứ đứng trân trân ở đó một lúc. Rồi mẹ giơ hai ngón tay ra dấu hy vọng về phía tôi, sau đó bước vội vào nhà. Có lẽ mẹ lo lắng đến mức không dám nhìn theo chúng tôi.
Sophie lật đật chạy theo để đuổi kịp chúng tôi, trông em thiếu nhịp nhàng đến lạ. Tôi nghĩ là do mình chưa quen nhìn con bé tự di chuyển trên một đường thẳng.
Tôi liếc nhìn em rất nhiều. Một mặt vì lo lắng cho con bé, còn mặt khác là do trông nó khá nhộn. Sophie bận một chiếc chân váy hồng và quần tất đen dày, cùng một chiếc áo hồng và đôi giày thể thao trắng tinh, nhưng trên mũi giầy có vết cỏ ố. Mẹ buộc tóc em thành hai bím xoăn dày. Hai cẳng chân con bé dài và khẳng khiu, trông rất đáng yêu.
Mỗi khi tôi đi ngang qua ai đó, hoặc là họ không nhìn tôi, hoặc sẽ gật đầu chào. Thi thoảng có người còn cười với tôi nữa. Sau đó họ sẽ nhìn xuống Rigby, và hầu hết mọi người đều hơi giật mình vì nó. Cứ như thể nó là gấu xám Bắc Mỹ không chừng. Thi thoảng họ cười với nó. Nhưng tất cả những người đi ngang qua chúng tôi đều mỉm cười khi nhìn thấy Sophie.
Tôi bắt đầu nghĩ, có lẽ mình nên đưa con bé đi cùng mỗi ngày.
Nhưng rồi tôi nhận ra quãng đường đi dạo dài gấp năm lần so với quãng đường hằng ngày con bé đi lại ở nhà, nên tôi khá lo lắng về đoạn đường sắp tới. Nhỡ em mệt và không thể tự đi bộ về nhà thì sao? Liệu tôi có bế được em đi xa đến thế không? Liệu con bé có để tôi bế về nhà không?
Nhưng, mặt khác, nếu Sophie có thể tự đi cả quãng đường… chà, thế thì con bé sẽ chẳng còn năng lượng mà la hét ở nhà nữa. Nếu việc này lặp lại hằng ngày thì tốt quá, nhỉ?
Đó là nếu như thôi. Còn nếu không phải vậy, thì tôi sẽ phải tự mình giải quyết hết.
Tôi cố gắng tập trung vào thực tại. Bởi quãng đường vừa rồi cũng khá ổn mà.
Tôi dừng lại ở mỗi góc phố để đợi đèn chuyển xanh, hoặc, nếu đó là ngã tư tổng dừng21 thì chúng tôi sẽ đợi mấy chiếc ô tô đi hết rồi mới băng qua đường. Rigby luôn ngồi đợi kiên nhẫn, và Sophie cũng vậy. Sau đó Rigby và tôi sẽ bước xuống đường, còn Sophie sẽ lật đật chạy theo sau. Con bé không bao giờ hiểu bắt nhịp di chuyển của chúng tôi, nên con bé luôn phải cố gắng đuổi kịp theo.
21 Nguyên văn: four-way stop: gặp biển này thì tất cả xe phải dừng lại hẳn rồi mới được đi tiếp, ai dừng trước đi trước.
Tất nhiên, tôi luôn ngoái lại phía sau để trông chừng em. Nhưng con bé vẫn bám sát chúng tôi. Và có một điều tôi chắc chắn về Sophie… đó là: một khi em đã thích làm gì, thì nó sẽ tiếp tục làm điều đó suốt thôi.
Sau khi đi dạo một lúc nữa, tâm trí tôi thậm chí còn lơ lửng đi đâu mất. Nhưng đột nhiên tôi nghĩ rằng có thể tai nạn gì đó sẽ xảy ra trong lúc tôi mơ màng, nên tôi lại trở về thực tại. Tôi phải quay lại nhìn Sophie ngay. Và tất nhiên, em vẫn ở ngay đó, lật đà lật đật bước đi cạnh chúng tôi. Tôi thấy vui lắm. Không phải vì mọi chuyện vẫn ổn, và tôi thấy nhẹ nhõm nên vui đâu. Tôi vui vì thấy… khi có Sophie đi cùng, quãng đường trở nên thú vị hơn nhiều.
Đột nhiên, tôi nhìn về phía trước và nhận ra chúng tôi sắp tới Tiệm sách của Nellie. Thật khó hiểu, nhưng tim tôi đã lạc nhịp khi nhìn thấy cửa hiệu của chị Nellie. Suốt mấy tuần qua, tôi chẳng hề quay lại đó để đọc nốt cuốn sách. Thậm chí tôi còn chẳng tới đưa số điện thoại nhà mình cho chị ấy như đã hẹn. Có lẽ bây giờ chị đã cất cuốn sách về vị trí cũ, hoặc thậm chí bán cho người khác luôn rồi ấy chứ. Nghĩ tới chuyện đó, bụng dạ tôi lại bắt đầu ậm ạch khó chịu. Nhưng có lẽ điều tôi nghĩ là thật. Có khi ai đó đã rước cuốn sách của tôi đi mất rồi.
Tôi phải lựa chọn xem mình có nên rảo bước thật nhanh qua tiệm, với hy vọng không bị Nellie để ý, hay thò đầu qua cửa và hỏi liệu chị còn giữ cuốn đó giúp tôi không. Tôi có thể đặt cọc mười đô cho cuốn sách khi được ông Paul trả tiền công dắt chó ngày hôm nay. Nếu chị ấy vẫn còn giữ cuốn sách cho tôi.
Khoản tiền cọc đã quyết định thay tôi.
Tôi ló đầu qua cửa tiệm. Tim tôi đập liên hồi như sắp xổ tung khỏi lồng ngực. Tôi thấy hơi choáng váng.
Một lát sau chị mới ngước lên. Trước đó chị đang cúi mặt - có lẽ đang đọc sách - và nhai một dây kẹo cam thảo đen nhánh. Tôi tranh thủ liếc nhìn nửa gương mặt nghiêng nghiêng của chị một lúc, rồi vội vã quay đi khi thấy chị nhìn mình.
“Em đây rồi,” chị ấy nói. “Vâng. Là em đây.”
“Chị tưởng em sẽ không bao giờ quay lại chứ.”
Tôi cũng tưởng vậy. Nhưng tôi không nói với chị điều đó.
“Vâng ạ. Chị biết đấy, dạo này em cũng khá bận mà. Em phải làm quen với việc học ở trường mới, còn phải cố gắng đuổi kịp các bạn nữa. Dù sao thì cuối ngày hôm nay em sẽ có mười đô, sau đó em sẽ quay lại đây để gửi chị tiền cọc cuốn sách. Nếu chị vẫn chưa bán cuốn sách đó. Chị còn giữ cuốn đó không ạ?”
Khuôn mặt chị thất vọng thấy rõ. Nên tôi thấy chán đời ghê gớm, vì có hai lí do: lí do thứ nhất là, có thể chị ấy đã bán cuốn sách rồi. Lí do thứ hai là vì, tôi thích thấy chị cười cơ. Chứ không phải… vẻ mặt kia.
“Em không muốn đến kiểm kê cửa tiệm cùng chị hở? Chị hiểu rồi.”
Tôi nhìn Sophie. Con bé vẫn ngồi ngay ngắn tại chỗ của mình.
“Ôi. Em không nghĩ chị thực sự muốn em đến kiểm kê tiệm sách.”
“Sao em lại nghĩ thế?” “Em không biết nữa. Em đã nghĩ chị nói vậy chỉ vì thương hại em thôi. Vì em không có đủ tiền mua cuốn sách ấy.”
“Thế sao em không vào hẳn đây mà chỉ ló mỗi cái đầu vào thôi vậy?”
“Vâng, thưa chị. À… Nellie. Em đang dẫn theo một cô chó rất to.”
“Thế em có thấy chị treo biển cấm chó ở đây không?” “Không, thưa chị. À quên, chị Nellie. Em có thể dắt chó vào không ạ?”
“Nếu nó ngoan thì được.”
“Nó là cô chó ngoan ngoãn nhất trần đời luôn.” “Thế thì em dắt nó vào đi.”
Tôi đi thêm độ mười bước, sau đó cả ba chúng tôi đều đứng trên chiếc thảm đằng trước quầy tính tiền của Nellie.
Mà nói vậy thì không đúng lắm. Chỉ có tôi đang đứng thôi.
Còn Sophie và Rigby thì ngồi.
Nellie đứng dậy và nhoài người qua quầy thu ngân. Tóc chị có mùi trái cây. Có lẽ là loại dầu gội hương dừa, hoặc xoài, hoặc là sự kết hợp của hai mùi hương ấy.
“Thế đây là ai?” “Là Sophie ạ.”
“Ồ, vậy đây chính là Sophie mà em đã nhắc đến à. Sophie là em gái em à?”
“Vâng, thưa chị. Ý em là, vâng, chị Nellie. Vâng… Sao em cứ nói nhầm suốt thế nhỉ.”
“Chị chịu thôi. Xin chào, Sophie.”
“Ưm… Chị đừng giận con bé nhé. Vì nó sẽ không trả lời chị đâu. Thậm chí con bé còn chẳng bao giờ chào em ấy chứ.”
“Thế con bé có biết nói từ nào không? Nó có bao giờ nói gì không?”
“Nó chỉ nói mỗi từ chú thôi ạ. Nhưng nó phát âm nghe giống chu. Đó là cái tên con bé đặt cho cô chó này. Con bé yêu nó lắm ạ.”
“Nghe có lí đấy.”
“Nhưng Rigby là chó cái.”
“Vậy đó là từ duy nhất con bé từng nói á?”
“Không ạ. Con bé cũng từng bập bẹ tập nói khi còn nhỏ. Nhưng so với những đứa trẻ khác thì con bé bắt đầu nói khá muộn. Lúc đó Sophie đã khoảng ba tuổi. Con bé cũng không nói gì nhiều, nó chỉ nói được một vài từ thôi ạ. Mẹ và em cũng cố gắng đợi con bé nói thêm, nhưng thay vào đó, con bé lại ít nói dần đi. Sau đó thì con bé chẳng nhìn mọi người nữa. Rồi nó không muốn bị ai chạm vào người…”
Giọng tôi xìu dần. Đột nhiên tôi tự hỏi, không biết mình đang làm cái quái gì nữa. Tôi luôn thấy vô cùng biết ơn khi chị Nellie không hỏi về Sophie. Nhưng giờ chị lại khiến tôi tự rút ruột khai ra hết sự thật, dù tôi thậm chí còn chẳng nhìn thẳng vào mắt chị. Hoặc có khi nào, tôi lại là kiểu người “chưa đánh đã khai” không?
Tôi nghĩ chị hiểu rằng tôi muốn đổi chủ đề. “Em ăn kẹo cam thảo không?” Chị hỏi.
Chị Nellie đưa tôi một chiếc chậu nhựa to đựng đầy kẹo cam thảo đen. Tôi rất mừng vì chị đã đánh lạc hướng giúp mình.
“Có ạ. Em cảm ơn.”
“Thế Sophie có thích cam thảo không?” “Con bé thích lắm ạ.”
Tôi bẻ một miếng cho Sophie. Con bé hớn hở xòe bàn tay chờ đợi đầy háo hức, nhưng không hề rời khỏi vị trí. Bởi Rigby vẫn đang ngồi yên vị ở đó.
Tôi đưa miếng cam thảo cho con bé, còn nó lại đưa ngay cho Rigby.
“Đừng! Đừng đưa kẹo cho...”
Tôi cố ngăn con bé lại, nhưng đã quá trễ. Thậm chí tôi còn banh miệng Rigby để tìm thanh kẹo trong đó. Nhưng nó đã nuốt mất tiêu rồi. Có lẽ vì thói quen nên nó đã nuốt chửng luôn cả miếng kẹo to đùng đó. Thế là tôi phải gí sát mặt vào miệng một con chó chẳng thân, cũng chẳng quen để tìm thanh kẹo. Hàm răng nó còn to khủng khiếp nữa. Tôi thấy mình giống hệt một người huấn luyện sư tử, nhưng tôi lại là tay huấn luyện thú chưa có chút kinh nghiệm nào. Thật may là con ”sư tử” này chẳng làm gì tôi cả, nó chỉ vẫy đuôi thôi.
“Chết tiệt, Sophie. Chị chẳng biết nó có được ăn kẹo không nữa.”
“Chị nghĩ nó sẽ ổn thôi,” chị Nellie nói.
Đúng là chẳng sao, nếu như Rigby là chó của tôi. Nhưng Rigby lại là chó của người khác, và tôi đang phải chịu trách nhiệm về nó. Nhưng giờ tôi chẳng thể làm gì nữa, trừ việc thú thật với ông Paul.
Tôi lại nhanh chóng đổi chủ đề.
“Thế chị thực sự cần người giúp kiểm kê sách ạ? Chị cần làm gì với đống sách này thế ạ?”
Chị Nellie gục mặt lên hai bàn tay, rồi thở dài.
“Nói ra thì xấu hổ lắm. Vì chị không muốn em biết chị ngu ngốc nhường nào. Chị muốn em nghĩ chị là một nhà kinh doanh giỏi cơ.”
Chị nói gì kì quặc ghê, nhưng tôi vẫn thấy chị quá ngầu. Hóa ra chị chỉ muốn tôi thấy mặt tốt của chị, chứ không phải mặt xấu. Nhưng tôi không nói với chị điều đó.
“Em biết đấy, tiệm sách của chị bán cả sách cũ và mới. Mỗi khi chị đặt sách từ chỗ nhà phát hành, thì đều phải ghi lại thông tin đó. Và khi chị gửi trả sách tồn kho cho họ, thì cũng phải lưu lại thông tin. Nhưng sau đó chị bắt đầu áp dụng chương trình giảm giá hai mươi phần trăm cho những khách hàng bán lại sách cũ cho mình. Nhưng chị đúng là đại ngốc mà. Chị chẳng hề ghi lại thông tin những cuốn giảm giá đó. Vậy nên bây giờ chị không kiểm tra được tình trạng mấy cuốn đó trong hệ thống dữ liệu của tiệm.”
“Nhưng chị phân loại sách theo tên tác giả từ A đến Z, phải không ạ?”
“Ừa. Chị cũng xếp sách như vậy, nhưng mỗi khi khách hàng tới đây tìm sách, họ thường xếp lại chẳng theo trật tự nào hết. Tính đến giờ, có lẽ chị đã mất gần một trăm giờ đồng hồ chỉ để xếp lại sách theo thứ tự và đỡ được mười giờ kiểm kê. Vấn đề là việc này sẽ cần tới hai người. Chị cần một người đọc tên sách, trong khi chị ngồi nhập dữ liệu trên máy tính. Cathy hứa sẽ tới giúp chị, nhưng thực ra chị ấy khá bận rộn. Giá như em có thể giúp chị một tay…”
“Nếu chị thực sự cần, thì em sẽ đến giúp chị. Em cứ nghĩ chị chỉ nói đùa thôi.”
“Chị cần thật mà. Em không tưởng tượng được đâu.” “Bắt đầu từ hôm nào ạ?”
“Ngày mai được không?”
“Chị không đóng cửa tiệm ngày Chủ nhật à?”
“Có chứ, nên chị mới muốn em tới. Chủ nhật thì không có khách hàng, cũng chẳng có chuông điện thoại. Em đến lúc mười một giờ được không? Mình kiểm kê từ mười một giờ đến ba giờ chiều nhé?”
“Được ạ.”
“Lạy Chúa,” chị thốt lên. “Con được cứu rồi.” Chị nhìn xuống Rigby. “Chị thích con chó của em. Nó dễ thương thật đấy.”
“Thực ra nó không phải chó của em đâu. Em chỉ dắt nó đi dạo giúp người hàng xóm thôi.”
“Ồ. Chị cứ tưởng là… Vì lúc nãy em bảo Sophie thích cô chó đó lắm mà…”
Chúng tôi cùng nhìn Sophie. Con bé vẫn ngồi ngay ngắn trên thảm, vô cùng im lặng và nhẫn nại chờ đợi chị nó.
“Vâng. Đúng là chuyện dị thường thật. Sophie nhà em lại đi yêu cô chó nhà hàng xóm.”
“Hừm,” chị trầm ngâm. “Sao chuyện đó lại xảy ra được nhỉ?”
Tôi lại nghĩ tới ông Paul Inverness và cái tin ông sắp chuyển nhà.
“Mẹ con em cũng tò mò lắm ấy,” tôi đáp.
Sophie tự mình đi hết quãng đường đến công viên, rồi quay về nhà. Tuy nhiên, khi chúng tôi về tới nhà, thì tôi cảm thấy khá khó xử khi nghĩ đến lát nữa phải dẫn Rigby về. Tôi không thể đưa Sophie vào trong sân nhà mình, rồi lại chạy ra ngoài cùng Rigby được. Con bé sẽ lại hét ầm lên cho coi. Có lẽ tôi phải đưa em đến cửa nhà ông Paul, cùng với Rigby. Dù tôi không chắc liệu con bé có hét lên khi ông Paul ra đón Rigby vào nhà không. Bây giờ Sophie không la hét mỗi khi Rigby vào nhà nữa, nhưng đó là khi em còn ở phía bên kia hàng rào. Giờ thì con bé đã quen với việc sát cánh cùng Rigby rồi.
Cuối cùng cũng đến lúc tôi kiểm chứng suy nghĩ của mình.
Cả ba chúng tôi bước lên thềm nhà ông Paul, sau đó tôi gõ cửa.
Cửa mở toang, và ông Paul cúi xuống nhìn cả ba chúng tôi. Rigby thấy chủ liền vẫy đuôi mừng rỡ, nên đuôi nó quật cả vào người Sophie, nhưng con bé không hề ca thán tẹo nào. Thậm chí em còn chẳng hề động đậy chân tay.
Chẳng nói chẳng rằng, ông Paul lấy ví ra từ túi quần sau và rút ra hai tờ năm đô.
“Cháu cần nói với ông một chuyện,” tôi nói. Ông lập tức ngẩng đầu nhìn tôi.
“Rigby đã nuốt một miếng kẹo cam thảo. Cháu thực sự mong là nó không bị dị ứng kẹo cam thảo. Chỉ là tình cờ thôi ạ. Cháu hứa lần sau cháu sẽ cẩn thận hơn. Nếu ông còn cho cháu dắt nó đi dạo lần nữa. Nhưng nếu ông không còn tin tưởng giao Rigby cho cháu nữa, thì cháu cũng đành chấp nhận thôi ạ.”
Tôi chờ đợi. Tôi cảm giác mình đã chờ cả thế kỉ luôn ấy. Tôi muốn nhìn vào mắt ông Paul, nhưng lại không dám.
“Thực ra… giờ ta còn tin tưởng cháu hơn trước.”
Tôi ngước mắt nhìn ông, rồi nhanh chóng hướng mắt sang chỗ khác.
“Sao lại thế ạ? Tại sao ạ?”
“Vì cháu đã kể chuyện đó với ta. Thực ra cháu đâu cần làm thế, nhưng giờ ta biết cháu sẽ luôn nói với ta sự thật, dù ta không hề yêu cầu cháu làm vậy. Kể cả khi ta không thể biết được điều đó.”
“Cháu hy vọng Rigby không dị ứng kẹo cam thảo. Liệu nó có sao không ạ?”
“Nó sẽ ổn thôi.”
Ông đưa tôi hai tờ tiền, rồi nắm lấy dây xích và dẫn Rigby vào nhà. Sau đó ông đóng cửa lại.
Tôi cau mày và chờ đợi. Chẳng có tiếng động nào cả.
Tôi nhìn Sophie. Con bé vẫn ngồi kiểu-Rigby ở nguyên một vị trí nãy giờ.
Con bé sẽ làm gì khi tôi đi về nhà nhỉ? Liệu con bé có ngoan cố ngồi lại hiên nhà ông Paul mãi mãi không? Liệu tôi và mẹ có cần cưỡng chế để lôi một cô bé Sophie la lối om sòm về nhà không nhỉ?
Tôi đi trước vài bước, rồi ngoảnh lại nhìn. Sophie thong thả đi theo tôi. Em không hấp tấp như lúc đi cùng Rigby, cũng không hề tỏ ra sốt sắng hay vội vã như lúc trước. Nhưng đúng là con bé đi theo tôi về thật.
Tôi mở cổng nhà Dì Vi, sau đó Sophie liền chạy qua cổng vào trong sân và lại nằm đợi Rigby cạnh hàng rào như thường lệ. Nó ngồi bệt xuống thảm cỏ, kiên nhẫn đợi tới lúc được gặp lại Chu.
Mẹ ở trong bếp, mặt mẹ đang ghé sát vào một tách trà nghi ngút khói. Hình như mẹ đang xông hơi mặt, chứ không phải uống trà. Mẹ ngẩng lên khi thấy tôi vào bếp.
“Ổn ạ.“ Tôi nói. “Mọi chuyện đều ổn ạ.”
“Sophie đâu?”
“Con bé đang nằm ngoài sân như thường lệ thôi ạ.”
Tôi thấy mọi căng thẳng của mẹ như được trút hết xuống. Cũng không hẳn vậy, mẹ chỉ tạm thời trút được mớ căng thẳng vừa nãy, khi tôi đưa Sophie ra đường thôi. Bây giờ mẹ lại trở về với những căng thẳng thường ngày, mà như vậy cũng đủ tệ rồi.
Thay vì cảm giác nhẹ nhõm, trông mẹ còn mệt mỏi hơn vừa nãy.
“Vậy… ngày mai…” mẹ bắt đầu. Mẹ còn chẳng dám nói hết câu.
“Ngày mai con bé có thể đi cùng con.” “Thật á?”
“Vâng. Ổn mà. Con bé khá ngoan ạ.” “Chúa ơi. Thế thì tuyệt quá.”
Mẹ uống ực một ngụm trà lớn, rồi lại miên man suy nghĩ. Như thể điều tuyệt vời tôi vừa nói đã đưa mẹ tới Miền đất Tuyệt vời ấy.
“Dì Vi đâu ạ?” “Dì đang ngủ.”
“Dì ngủ nhiều thế ạ.”
“Ừ thì…” mẹ nói. Mẹ hơi mỉm cười. “Từ khi Bác Charlie mất, Dì đã khác trước rồi.”
Tôi phụt cười. Mẹ nhanh chóng ra dấu cho tôi ngừng lại.
Tôi ngồi xuống bên mẹ, sau đó chúng tôi nhìn nhau. Rồi cả hai chúng tôi lại phá lên cười, nhưng chúng tôi phải cố hết sức để không phát ra tiếng động.
Tôi biết. Nghe xấu tính thật. Chuyện Bác Charlie qua đời chẳng hề buồn cười tẹo nào. Nhưng chúng tôi đâu cố ý cười cợt chuyện đó. Chỉ vì Dì Vi nhắc lại câu đó nhiều quá thôi. Nên khi nghe câu đó từ một người khác thì thật buồn cười. À, thực ra không phải vậy. Chuyện này chẳng có gì buồn cười cả. Tôi nghĩ đó chỉ là cách chúng tôi giải tỏa căng thẳng thôi.
Mẹ nhìn tôi. Lâu lắm rồi tôi mới được thấy ánh mắt đó của mẹ.
“Mẹ lại thấy có chút hy vọng rồi. Mẹ chẳng nhớ lần cuối mẹ được hy vọng là khi nào nữa.”
Tôi nghĩ, mình không thể nói với mẹ điều đó được. Tôi không thể. Tôi muốn để mẹ giữ hy vọng đó lâu hơn một chút.
Tôi đứng dậy, và đi về phòng mình. Mà thực ra, đó là phòng của tất-cả-mọi-người. Sau đó tôi ngồi trên giường. Và tôi bắt đầu nghĩ, Không được, mày làm vậy là sai. Cách đó không hề ổn tẹo nào. Mẹ sẽ mắc kẹt ở cái thiên đường giả dối đó mất. Đó chẳng phải hy vọng, phải nói là tuyệt vọng mới đúng.
Tôi quay lại nhà bếp với trái tim trĩu nặng. Tôi ngồi bên mẹ, và ngay lập tức mẹ nhận ra có chuyện không ổn.
“Sao vậy? Có chuyện gì thế con? Con cứ nói đi. Nhanh lên.”
“Ông ấy sắp chuyển nhà rồi.”
Tôi thấy mẹ hơi nghèn nghẹn.
“Chủ của con chó đó á?” “Vâng.”
“Ông ấy chuyển nhà á?” “Vâng.”
“Bao giờ?”
“Bốn tuần nữa ạ.”
Mẹ lặng im hồi lâu. Rất, rất, rất lâu. Và sự im lặng đó vô cùng đáng sợ. Nếu đặt cả cuộc đời mấy năm vừa qua của mẹ và tôi vào một chiếc túi lọc cà phê và lọc đi tất cả những điều chúng tôi không mong muốn, thì trong túi lọc chỉ còn lại sự im lặng đó. Nó thực sự nặng nề và đáng sợ đến vậy đó.
“Chúng ta phải làm gì đây?” Mẹ hỏi.
Tôi đáp, “Mẹ hỏi con câu đó nhiều nhỉ”.
Nhưng tôi không nói, “Con ước mẹ đừng hỏi con như vậy nữa”. Tôi cũng chẳng nói, “Con mới mười bốn, còn mẹ đã bốn mươi tuổi rồi. Nếu mẹ không biết phải làm gì, thì bắt con cáng đáng hết trách nhiệm như thế cũng chẳng hề công bằng với con chút nào”. Nhưng tôi nghĩ mẹ vẫn có thể hiểu một số điều tôi nghĩ qua câu nói vừa rồi.
“Chiếc chuông ác mộng22,” tôi đọc to. “Sylvia Plath.” “Chị có cuốn Chiếc chuông ác mộng á?”
22 Nguyên văn: The Bell Jar.
Giọng chị Nellie nghe thật dịu dàng và xa xăm. Có lẽ tôi phải liếc về phía cuối kệ sách đến lần thứ một trăm rồi. Chị ấy không cười, còn tôi vẫn đang cố tìm cách để chọc cho chị cười. Nhưng với mấy tựa sách này thì thật khó để pha trò cười.
“Chị có mà.”
“Em chắc không?”
“Em đang cầm cuốn đó đây.”
“Chị thực sự không biết tiệm sách của chị có cuốn đó đấy.”
“Em nghĩ đó chính là lí do khiến chúng ta phải kiểm kê toàn bộ cửa tiệm đấy.”
Bingo. Chị ấy cười rồi. Khi chị ngước lên thì bắt gặp ngay ánh nhìn của tôi. Thế nên tôi lại trốn ra phía sau kệ sách.
“Này, em biết gì không, chúng ta không thể kiểm kê những bốn tiếng liên tục được đâu,” chị ấy nói.
“Em làm được mà.”
“Nhưng chị thì không. Chắc chị sẽ chết vì buồn chán mất.”
“Chúng ta đã kiểm kê trong bao lâu rồi ạ?” “Một tiếng mười lăm phút.”
“Em không nghĩ như vậy là đủ lâu đâu.” “Chị sắp chết vì chán đây này.”
“Chà,” tôi nói. “Nhưng em không muốn chị chết.” “Chị sẽ đặt pizza.”
Tôi bước ra từ sau giá sách và nhìn chị. Chị đã nhấc điện thoại lên.
“Sau đó chúng ta sẽ làm cho xong chứ ạ?”
“Hay là Chủ nhật tuần sau em lại đến giúp chị kiểm kê thêm hai tiếng nữa nhé? Đợi chị chút.” Chị giơ ngón tay về phía tôi. “Xin chào. Tôi muốn đặt một chiếc cỡ to… Vâng, hãy giao đến… Tiệm sách của Nellie… Vâng. Tôi biết mình muốn ăn vị gì rồi, nhưng để tôi hỏi bạn tôi cái đã nhé… Vâng, tôi sẽ giữ máy. Angie. Em muốn ăn pizza nhân gì?”
“Ưm. Em không biết. Em ăn gì cũng được ạ.”
“Được rồi. Thế chị sẽ gọi bánh nhân cá cơm, dứa và ớt jalapeno23 nhé.”
23 Đây là các loại nhân thường bị ghét do khó ăn.
Sau đó chị nhìn tôi, rồi cười phá lên. Tôi tự hỏi không biết chị đã nhìn thấy gì trên mặt tôi nhỉ. Tôi chẳng tài nào đoán ra nổi ấy.
“Chị đùa mà. Chị ăn chay, nên chị sẽ gọi nhân nấm, ớt chuông xanh và ô-liu. Em muốn đặt nhân pepperoni cho nửa của mình không?”
“Không ạ, em ăn giống chị cũng được. Nhưng nếu Chủ nhật tuần sau mình làm tiếp, chẳng phải thứ tự mấy muốn sách sẽ lại bị xáo trộn sao ạ?”
“Dù sao thì mình cũng không làm xong được trong hôm nay đâu. Bốn giờ kiểm kê sao mà đủ với đống sách này được. Chị chỉ cần sắp xếp... Alô? Vâng. Nhân nấm, ớt chuông xanh, và ô-liu. Vâng, cỡ to. Và gấp đôi phô mai nữa nhé. Vâng, cảm ơn.” Chị gập điện thoại. “Hai mươi phút nữa pizza tới nhé.”
“Chúng ta có nên tiếp tục làm việc trong khi đợi bánh không ạ?”
“Không đời nào.”
“Chị sẽ chán chết mất.” “Chính xác.”
Tôi chợt hiểu ra lí do Nellie không hề kiểm kê sách trong suốt thời gian qua. Có lẽ tôi đã thật sự cứu chị ấy khi đồng ý tới giúp chị. Vì nếu chỉ có một mình, Nellie sẽ không bao giờ động đến công việc này, chứ đừng nói là hoàn thành. Chị sẽ chỉ tiếp tục tự nhủ rằng mình cần kiểm kê sách thôi. Nhưng chị chẳng hề muốn kiểm kê sách. Nellie chỉ muốn công việc đó được hoàn thành thôi. Mong muốn và thực hiện khác nhau nhiều lắm.
Tôi bắt đầu cảm thấy mình có trách nhiệm phải thúc giục chị làm cho xong công việc kiểm kê cửa tiệm. Và đột nhiên, tôi thấy công việc kiểm kê trở thành nhiệm vụ quan trọng, cần ưu tiên hoàn thành.
Chị Nellie nhoài người xuống dưới quầy tính tiền, rồi lôi ra cuốn sách về núi Himalaya. Chị lại hướng bìa trước của cuốn sách về phía tôi như lần đầu gặp nhau. Và, cũng như lần trước đó, tôi cảm thấy toàn thân tan chảy.
“Em ngồi xuống đi,” chị nói. “Đọc sách đi.”
Tôi đỡ lấy cuốn sách. Và tất nhiên lần này tay tôi cũng hơi run run. Nhưng không phải chỉ vì cuốn sách, hay hình ảnh trên bìa sách. Ừm, tôi cũng chẳng hiểu sao mình run rẩy đến thế. Ừm… tôi nghĩ còn rất nhiều lí do khác nữa.
Tôi lại tháo giày và ngồi khoanh chân trên ghế như lần trước. Nhưng lần này tôi không mở sách, mà chỉ ngắm mãi bìa sách thôi. Đột nhiên, tôi thấy mình ở Tây Tạng xa xôi cùng với một người khác. Nhìn kĩ hơn, thì người đó là chị Nellie đang quay bánh xe cầu nguyện. Bánh xe cầu nguyện ấy luôn xoay về bên trái. Còn tôi thì đi ngay sau lưng chị. Tôi cũng quay chiếc bánh xe tâm linh đó. Lần này tôi thấy Tây Tạng khác xa những lần khi tôi tới đó một mình. Lần này, khi tôi thấy đỉnh Annapurma dần hiện ra trong tầm mắt, và những bụi tuyết trắng xóa tung bay từ đỉnh núi, tôi đặt tay lên vai Nellie và chỉ về hướng đó. Tôi như muốn nói, “Chị phải thấy khung cảnh này nữa, Nellie ơi, chị phải tận mắt thấy thứ này”. Và sau đó chị nắm chặt bàn tay tôi… vẫn đặt trên bờ vai chị… vì Annapurma quá đẹp, quá ngoạn mục, đến mức chẳng lời nào đủ diễn tả hết được vẻ đẹp ấy.
“Chị hỏi em một câu hơi riêng tư được không?”
Câu hỏi của chị khiến tôi giật nảy mình, đến nỗi tôi suýt đánh rơi cuốn sách xuống sàn nhà. Tôi quên mất rằng chị vẫn đang ở đó. À, “ở đó” nghĩa là trong tiệm sách ấy. Khi đó tôi vẫn còn đang mải nghĩ về chị ở Tây Tạng cơ.
Trái tim tôi đập loạn lên như muốn xổ tung khỏi lồng ngực. Tôi định hỏi, “Riêng tư đến mức nào ạ?”.
“Ưm. Em không biết. Em nghĩ là được ạ.” “Em bị người thân bạo hành à?”
“Bạo hành? Ý chị là gì ạ? Bạo hành như thế nào ạ?” “Bị đánh đập ấy?”
“Không. Làm gì có ai đánh em. Sao chị lại hỏi thế ạ?” “Này nhé, khi em tới đây lần đầu, chị thấy môi em sưng tều. Chị chẳng cần có cặp mắt tinh như cú vọ để phát hiện ra điều đó đâu nhé. Mà hôm ấy em chỉ dán mỗi một chiếc băng cá nhân hình cánh bướm lên đó thôi. Trong khi vết thương ấy có khi phải cần đến vài mũi khâu ấy chứ.”
Tim tôi chùng xuống đôi chút.
“Môi em khỏi rồi mà,” tôi đáp. Tôi chạm tay lên vết sẹo. Nó vẫn chưa lành hẳn, chỉ mới lên vảy thôi. “Hôm đó răng em còn bị lung lay nữa cơ, nhưng giờ nó đang tự lành rồi ạ. Và không, chẳng ai đánh đập em ở nhà cả. Là do Sophie. Nhưng con bé không cố ý làm vậy đâu ạ.”
“Ồ. Sophie.”
“Vâng. Chuyện đó hoàn toàn khác, phải không ạ?” “Ừm… Đúng và không đúng. Nhưng dù sao thì em vẫn thiệt thòi quá ấy. Vì em vẫn phải chịu đau mà.”
Tôi cúi đầu, mở cuốn sách ra và lật tới những trang tôi chưa đọc.
“Chị không cố ý làm em thấy khó chịu đâu.” “Không sao ạ.”
Nhưng thực sự là có sao đấy. Tôi ghét những lúc như thế này. Nhưng, nếu bỏ qua tất cả những cảm xúc tiêu cực đó, thì tôi lại thấy vui khi chị muốn bảo vệ tôi. Cảm giác này gần như… khi Nellie nắm tay tôi vậy.
“Trường mới của em thế nào rồi?” Chị hỏi.
Tôi đã đặt cuốn sách lên thảm, cố tình để nó cách xa chỗ chúng tôi ăn pizza, tránh dây dầu mỡ hay phô-mai lên đó. Tôi vẫn nhìn chăm chăm bìa sách.
“Phừ phừ,” tôi đáp, vì miệng tôi vẫn đang bận nhai đống bánh.
“Chị xin lỗi.”
Tôi cố nhai và nuốt thật nhanh, nhưng bánh còn nóng quá.
“Thật ngạc nhiên là mọi thứ khá ổn ạ.” “Bọn nhóc không bắt nạt em à?”
“Không ạ. Sao tụi nó lại bắt nạt em chứ?”
“Chị không biết nữa. Hồi trước chị toàn bị bắt nạt thôi. Ba chị làm trong quân đội, và gia đình chị chuyển nhà như cơm bữa nên lúc nào chị cũng là ‘gà mới’ ở trường. Và những đứa khác luôn bắt nạt chị. Nhưng có lẽ ở trường chỉ có mình chị bị bắt nạt như thế thôi.”
“Có thể chuyện đó chỉ xảy ra ở những trường nhỏ,” tôi đáp. “Trường mới của em to lắm. Em thề là có khi tụi nó còn chẳng biết em có tồn tại hay không ấy. Tất nhiên thầy cô vẫn gọi tên em mỗi khi điểm danh hay trả bài, nhưng em cảm giác mình như người vô hình ở trường vậy.”
Sau đó tôi im lặng khi nhận ra Nellie lại làm tôi nói nhiều hơn cần thiết. Tôi ngoạm luôn một miếng pizza rõ to.
“Em biết đó, nhóc… em không nhất thiết phải ở lại và giúp đỡ mẹ em suốt đời đâu.”
Tôi không trả lời chị, vì vẫn đang bận nhai bánh.
“Khi em sinh một đứa con, thì em phải chịu toàn bộ trách nhiệm với đứa bé đó. Em không thể trốn chạy được. Dù đúng hay sai, thì em vẫn phải tiếp tục chịu đựng. Nhưng em đã có con đâu.”
Tôi nuốt những hai lần, nhưng trong miệng vẫn còn sót lại một chút pizza.
“Vậy ai sẽ giúp mẹ, nếu em không làm việc đó?”
“Chị biết chuyện này nghe có vẻ tồi tệ… và đứa nhóc tầm tuổi em có thể sẽ thấy hơi khó hiểu… nhưng chị không nghĩ đó là trách nhiệm của em đâu.”
“Em không thể bỏ đi được. Vì ba của Sophie đã thoái thác trách nhiệm khi mọi chuyện bắt đầu trở nên khó khăn hơn.”
“Chị cũng không nghĩ em cần giải quyết vấn đề đó. Chị không chắc em có thể bù đắp khoảng trống hụt hẫng ấy cho mẹ mình đâu.”
“Nhưng mẹ em không thể tự mình chăm sóc Sophie được. Chẳng ai chăm sóc con bé một mình được đâu.”
“Vậy em định chăm sóc Sophie thế nào? Khi cả hai đứa già đi ấy? Sau khi mẹ em qua đời ấy?”
Tôi lại cắn thêm một miếng pizza to nữa. Mỗi lần nhai, viền bánh giòn lại cứa vào lợi của tôi.
Chị nói tiếp, “Em muốn chị chuyển chủ đề phải không?”.
Tôi gật đầu cái rụp.
“Được rồi. Chị xin lỗi. Em muốn nói gì nào?”
“Em muốn nói về chuyện chị không thể làm công việc kiểm kê sách này một cách nghiêm túc được. Và có lẽ em nên làm gì đó để giúp chị hoàn thành công việc này.”
“Hừm. Vấn đề đó à. Có lẽ chị chỉ kiểm kê được mỗi lần hai tiếng liên tục thôi.”
“Vậy chúng ta hãy thử làm việc liên tục trong đúng một tiếng năm mươi phút xem sao.”
“Thế cũng được.”
“Vậy, giờ này tuần sau ạ?”
“Ừa. Vậy đi. Nhưng em không ở đây thì chị không hứa sẽ làm đâu nhé.”
“Em sẽ tới giúp chị mà. Em sẽ ghé tiệm sách mỗi Chủ nhật, cho đến khi công việc kiểm kê hoàn thành. Nếu em không làm vậy, thì chắc chắn chị sẽ không bao giờ kiểm kê xong đống sách này mất.”
“Chị nên trả ơn em thế nào đây? Nếu là cuốn sách, thì em chỉ cần làm việc thêm hai tiếng nữa thôi.”
“Em chịu thôi. Chị có thể mua pizza hay thứ gì đó cho em. Chúng ta sẽ bàn bạc sau.”
Tôi đứng dậy.
“Không, chị sẽ trả lương cho em. Em phải nhận lương đấy nhé. Em có muốn đem nửa chiếc pizza này về nhà không?”
“Vâng. Cũng được ạ. Em cảm ơn ạ.”
Khi tôi tới quầy tính tiền để lấy pizza, tôi thấy Nellie nhìn mình chăm chú. Tôi biết chị sắp hỏi một điều hệ trọng. Và tôi biết mình sẽ không thích điều đó.
“Bất cứ khi nào em thực sự cần người giúp đỡ, Angie… nếu như em gặp khó khăn… thì em sẽ tâm sự với chị, hay một người khác chứ?”
Tôi cầm hộp bánh pizza và ngẫm nghĩ một lát. “Không ạ.” Tôi nói.
“Ừa,” chị đáp. “Chị cũng nghĩ vậy.”