• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mình về nhà thôi
  3. Trang 6

2Tây Tạng

N

gày hôm sau là thứ Bảy, và tôi đã nướng một giấc rõ dài.

Khi tôi tới chỗ bàn bếp, mẹ và Dì Vi đang lẳng lặng ăn trứng bác cùng bánh mì đen nướng. Mẹ bước đến chỗ tôi, nâng cằm tôi lên và kéo tôi ra chỗ sáng.

“Dì Vi vừa kể cho mẹ về vết thương trên môi con. Khổ thân con quá. Vết rách đó chắc không cần phải khâu lại đâu nhỉ?”

“Ổn mà mẹ. Nó sẽ tự lành mà.”

“Ừ, con biết đấy, nếu vết thương đó cần khâu lại thì chúng ta sẽ tìm cách xoay xở.”

“Con biết ạ,” tôi nói. Tôi biết điều đó thật. Tôi cũng biết mẹ chắc chắn sẽ thở phào nhẹ nhõm nếu không phải đưa tôi đi bác sĩ.

“Mẹ xin lỗi, ngày hôm qua đúng là quá vất vả đối với con, con yêu. Và mẹ còn đi vắng nữa chứ.”

Mẹ choàng tay ôm tôi thật chặt. Nhưng tôi hơi cứng người lại. Tôi không cố tình làm vậy đâu, nhưng cơ thể tôi cứ tự hoạt động theo phản xạ ấy. Không phải vì tôi không muốn được mẹ yêu thương đâu. Tôi muốn chứ. Tôi chỉ không muốn mọi người thương hại mình thôi. Giả như tôi bị thương, hay lỡ như tôi gặp chuyện gì khó khăn, thì tôi muốn một mình chịu đựng tất cả những chuyện đó mà không có người khác chứng kiến.

“Con ổn mà,” tôi nói. Mẹ hiểu ý, nên thả tôi ra. “Sophie đâu hả mẹ?”

Mẹ chỉ tay ra ngoài sân sau.

Tôi bước tới cửa sổ và nhòm ra ngoài. Sophie lại nằm kiểu tượng nhân sư ngay sát hàng rào, và chờ đợi. Còn Rigby thì chưa thấy tăm hơi đâu cả.

“Hôm nay là thứ Bảy,” tôi nói. Nhưng tôi không định nói chuyện với bất kì ai trong căn phòng đó.

“Thứ Bảy thì sao hả con?” Mẹ tôi liền hỏi.

Tôi quay người, và thoáng giật mình khi nghe tiếng mẹ ở ngay gần. Mẹ đang đứng loay hoay bật lửa làm nóng chiếc chảo gang trên bếp và ra sức thổi để lửa bén hơi. Cuối cùng thì lửa cũng bén.

Trong chiếc chảo còn một suất trứng bác nữa.

“Có thể trứng hơi khô một chút đó, con yêu. Mẹ xin lỗi. Mẹ không nghĩ con sẽ dậy muộn thế. Chắc tối qua con mệt lắm nhỉ. Thứ Bảy thì có gì đặc biệt vậy con?”

“Có thể ông hàng xóm không phải đi làm ngày thứ Bảy, nên có khi ông ấy không thả chó ra ngoài ạ.”

Tôi lại nhìn ra phía cửa sổ, rồi ngó qua chỗ Sophie, dù con bé chẳng nhúc nhích tẹo nào. Có gì đó trong tôi vẫn cảm thấy không ổn khi để con bé ở ngoài sân một mình lâu đến thế.

Tuy nhiên, con bé vẫn đang nằm bất động, và nó cũng chẳng có ý định động đậy tay chân. Đây là điều bạn có thể tin tưởng ở Sophie. Một khi con bé đã dồn hết tâm trí vào một điều gì đó, bạn sẽ được rảnh tay một lúc.

“Chắc chú chó đó sẽ phải ra ngoài thôi, ít ra nó phải đi tè chứ,” mẹ nói, giọng có vẻ lo lắng.

“Cô chó,” tôi nói. “Nó là chó cái. Nếu vậy thì sau khi nó tè, nó sẽ lại phải quay vào nhà.”

Tôi không nghe thấy tiếng Dì Vi, nhưng tôi nghe mẹ nói, “Dì Vi, cháu sẽ lo liệu mọi chuyện. Cháu xin hứa với Dì điều đó. Giờ Dì làm ơn hãy bình tĩnh lại đi”.

Tôi quay sang hỏi Dì Vi. “Dì có biết rõ về bác hàng xóm bên đó không ạ?”

Có vẻ câu hỏi của tôi khiến Dì phải ngẫm nghĩ một hồi. “Không nhiều lắm, cháu ạ. Sao cháu lại hỏi thế?”

Tôi tự hỏi tại sao Dì cần thời gian suy ngẫm câu hỏi của tôi. Dì chỉ cần nói là Dì biết hay không biết thôi mà.

“Ông ấy có vẻ cáu kỉnh,” tôi nói. “Cháu nói chuyện với ông ấy rồi á?” “Vâng. Sao Dì lại hỏi vậy ạ?”

“Ta chưa từng nói chuyện với ông ấy. Ta chỉ biết tên ông ấy là Paul Inverness thôi. Ông ấy là cán bộ tín dụng ở ngân hàng. Nhưng ta còn chẳng biết đó là ngân hàng nào cơ. Ngoài mấy thông tin đó ra thì ta không biết gì nữa. Ta chỉ biết mỗi tên và chức vụ thôi. Thực ra, ta đã sống ở đây mười lăm năm, nhưng mới chỉ nói với ông ta khoảng trên dưới mười câu thôi.”

“Tại sao lại thế ạ?”

“Ta không biết. Ta có cảm giác ông ấy không muốn nói chuyện với ta. Ông ấy cứ lầm lì vậy đó. Mà cháu nên tránh xa ông ta ra. Ta không thích một người đàn ông sống một mình nhưng thay vì nói chuyện với hàng xóm của mình thì lại đi nói chuyện với một cô gái trẻ.”

“Chuyện không phải như Dì nghĩ đâu ạ” tôi nói. “Làm sao cháu biết được.”

“Cháu biết mà.”

“Thế giới này khắc nghiệt lắm.” “Chuyện đó thì cháu rõ lắm ạ.” Tôi lại mở cửa ra ngoài sân sau.

“Con đi đâu thế, con yêu?” Mẹ hỏi.

“Con thấy không ổn khi để em ở ngoài đó một mình lâu như vậy.”

“Mẹ vẫn để mắt đến con bé mà. Con đừng lo.” Tôi vẫn đi tiếp.

“Thế còn bữa sáng của con thì sao?”

“Mẹ mang ra ngoài cho con được không ạ?”

Thực ra đó không phải câu hỏi. Tôi tình nguyện trông Sophie, nên việc nhờ mẹ mang giúp tôi một đĩa trứng bác ra ngoài sân cũng đâu phải điều gì ghê gớm.

Tôi đi về phía hàng rào và đứng cạnh con bé. Chắc con bé đã thấy bóng tôi. Nhưng có vẻ con bé chẳng hề bận tâm tới chuyện tôi đứng đó.

“Chu.” Con bé kêu. “Chu, chu, chu.”

Ừm, có thể con bé có để ý đến tôi. Nhưng có thể nó đã lẩm bẩm như thế cả sáng nay rồi. Giọng con bé hơi khàn khàn. Nhưng nó vẫn nói được.

“Chu là sao hả, Sophie?” Tôi biết từ này chắc chắn có liên quan đến cô chó nhà bên, nên tôi nói, “Rigby. Con chó tên là Rigby”.

“Chu.” Sophie nói.

Tóc con bé sạch sẽ, láng bóng, và đã được mẹ tôi chải mượt. Mẹ đã tắm rửa và chải chuốt cho con bé thật xinh.

“Rigby.” “Chu.” “Rigby.”

“Chu, chu, chu.”

Tôi thở dài và quay lại ngồi trên đi-văng.

Vài phút sau, một đĩa trứng được bưng từ trong nhà ra ngay trước mũi tôi. Tôi đang mải tập trung suy nghĩ quá nhiều chuyện nên không hề nghe tiếng chân mẹ, hay nhìn thấy mẹ mang đồ ăn ra. Mẹ đặt hai miếng bánh mỳ đen nướng quết bơ trên đĩa trứng của tôi, còn bên cạnh là một cốc nước cam ép bé xíu.

“Con cảm ơn ạ.” Tôi nói.

“Con nếm đi. Nếu thấy không ngon thì mẹ sẽ làm cho con suất khác.”

“Ổn mà mẹ.” “Con nếm đi.”

Tôi cắn một miếng, cố gắng không cắn răng vào dĩa.

Thức ăn khô thật.

“Ăn được mà mẹ,” tôi nói.

Thật ngu ngốc khi lãng phí chỗ thức ăn này. Chúng cũng chẳng khô đến nỗi phải vứt đi như vậy.

“Con chắc mình ở ngoài này trông Sophie được chứ? Hôm qua con đã vất vả rồi. Hôm nay để mẹ trông em cho.”

“Con chỉ muốn xem có chuyện gì giữa Sophie và cô chó đó thôi. Rồi con sẽ vào nghỉ.”

Mẹ thở dài. Rồi bà hôn lên đỉnh đầu tôi. “Mẹ ước con chịu nuôi tóc dài.” “Con thích tóc thế này mà. Hồi trước con đã nói với mẹ rồi.” “Nuôi tóc dài sẽ đẹp hơn. Nữ tính hơn nữa. À mà… thôi bỏ đi. Con quên những điều mẹ vừa nói đi. Mẹ đã hứa không nhắc đến chuyện đó rồi mà nhỉ?”

Tôi nghe tiếng cánh cửa đóng lại khi mẹ quay vào nhà. “Mẹ hứa rồi,” tôi nói thầm. “Mẹ hứa như thế hai lần rồi.” Khi tôi ăn hết món trứng và gặm gần nửa miếng bánh mì thứ hai, thì cánh cửa ngách nhà hàng xóm bật mở, và Rigby đi ngay sát sườn ông chủ nó. Tôi ngước nhìn ông Paul Inverness.

Ông vẫn đứng ngay chỗ cánh cửa mở. Như thể Sophie và tôi là cơn ác mộng vậy. Trông ông có vẻ mệt mỏi khi nhìn thấy tôi… à, khi nhìn thấy chúng tôi ở đó.

“Chu!” Sophie hét lớn. “Chu, chu!”

Rigby chạy vòng vòng ba lần rồi ngồi xuống bãi cỏ, sau đó nó tiến tới bên hàng rào nằm cùng Sophie. Tôi đứng lên để đi tới chỗ hai đứa, và ông Paul cũng vậy. Quần áo trên người ông trông cực kì chỉn chu đối với một ngày nghỉ như hôm nay. Không phải một bộ vest, nhưng ông mặc một chiếc quần tây nâu xếp ly thẳng thớm, cùng đôi giày da nâu và chiếc áo sơ mi trắng lóa mắt. Ông vừa mới cạo râu, nên tôi ngửi thấy mùi nước hoa cạo râu phảng phất. Hình như ông sắp có hẹn, chứ không phải chuẩn bị dắt chó đi tè.

“Ta tưởng con bé sẽ mất giọng và tai chúng ta sẽ được nghỉ ngơi chứ.”

“Vâng. Cháu xin lỗi. Thật ra con bé không la hét đến khi mất giọng hẳn. Bình thường nó chỉ hét đến khi chìm vào giấc ngủ thôi ạ.” Rồi hai chúng tôi chỉ ngại ngùng đứng đó. Tôi đoán vậy. Nhưng trông ông có vẻ ngại. “Cháu rất xin lỗi vì những điều cháu nói với ông đêm qua. Về tai của con chó ấy ạ. Lúc đó cháu khá căng thẳng và mệt mỏi. Chứ bình thường cháu sẽ không nói ra, mà chỉ nghĩ trong đầu thôi ạ. Cháu cũng không biết tại sao mình lại thốt ra những điều đó nữa. Cháu cũng không hiểu sao ông có thể chịu đựng tất cả những lời cháu nói. Và ông cũng rất lịch sự nữa. Cháu rất ngạc nhiên khi ông không đuổi cháu đi rồi đóng sầm cửa lại.”

Tôi ngừng lại, một phần vì muốn nghe câu trả lời của ông. “Ta ngồi nghe cháu nói vì ta thích nghe những điều đó.” Tôi hơi nhăn mặt. Vì nhăn nhó nên môi tôi bị đau.

“Sao ông lại thích nghe những điều đó ạ?”

“Ta thích điều cháu nói vì cháu đã bảo vệ cho cô chó của ta. Ta thích thế. Cháu đã đấu tranh thay cho nó. Ta kiên nhẫn đứng nghe cháu bảo vệ em gái cũng vì lí do đó. Đó chính là phẩm chất tốt của cháu. Cháu đấu tranh cho những người không có khả năng tự bảo vệ bản thân.”

“Ồ.” Trả lời như vậy đúng là ngốc thật, nhưng vì khi đó tôi quá ngượng, nên chẳng biết phải trả lời thế nào. Nhưng tôi biết mình cần nói gì đó, nên tôi nói, “Hôm nay là thứ Bảy”.

“Ừ. Ơn Chúa.”

“Ông không phải đi làm ngày thứ Bảy ạ?” “Ừ. May là thế.”

“Nếu ông ghét công việc của mình đến thế, thì tại sao ông vẫn tiếp tục đi làm ạ?”

“Vì chỉ còn bảy tuần nữa là ta được nghỉ hưu rồi, và nếu có điều gì khó chịu, thì ta vẫn có thể chịu đựng nốt bảy tuần. Kể cả công việc của ta.”

“Vậy là… ông sẽ… ở nhà suốt ngày hôm nay ạ?” Tất nhiên tôi chỉ định hỏi dò để xem ngày hôm nay của tôi với Sophie sẽ khó khăn hay dễ chịu. Tôi đã hy vọng ông không nhận ra ý đồ của mình.

“Không. Ta chuẩn bị đi gặp hai vợ chồng anh trai ta ở đầu kia thị trấn.”

Tôi thầm nghĩ, thật lạ khi ông ấy kể cho mình điều đó. Hình như ông tiết lộ hơi nhiều thông tin cho tôi thì phải. Ông không giống kiểu người sẽ báo với bạn rằng mình chuẩn bị đi đâu. Tôi nghĩ ông là kiểu người sẽ nói “Tạm biệt” rồi đi luôn. Và, nếu bạn có hỏi, thì ông ấy sẽ nhắc để bạn nhớ rằng đó là cuộc đời của ông ấy, chứ không phải của bạn.

Hình như ông đang rất vui khi được đến thăm anh trai mình, nên ông muốn chia sẻ điều này với ai đó.

“Ông sẽ đưa Rigby đi cùng ạ?” Sớm muộn gì thì tôi cũng phải hỏi câu đó thôi. Có lẽ cả hai chúng tôi đều biết thế.

“Không. Hôm nay cháu may mắn đấy. Rigby sẽ đợi ta ở nhà.”

Tôi thở phào. Như thể lâu lắm rồi tôi mới được hít thở bình thường ấy. Tôi nghĩ là ông nhận ra.

“Giờ tới lượt ta can dự vào chuyện của cháu nhé,” ông nói. “Ta nghĩ có lẽ cháu nên kiếm cho cô bé một con chó.”

“Sophie ghét chó lắm ạ.”

Sau đó cả hai chúng tôi cùng nhìn xuống. Sophie đang gí mặt vào hàng rào, cố gắng tiến sát đến chỗ Rigby. Tôi nhận ra điều mình vừa nói nghe có vẻ thật kì quặc.

“Chu,” Sophie nói.

“Cô,” ông Paul đáp lại. Ông trực tiếp nói với Sophie. “Rigby là một quý cô đấy.”

Hầu như chẳng ai nói chuyện trực tiếp với Sophie cả, nên điều này thật thú vị.

“Chu.” Sophie nói.

Đây là lần đầu tiên tôi hiểu được điều con bé nói. Sophie muốn nói là chú chó. Thật đó, chỉ có mỗi chu với chú, dễ dàng như vậy mà đến giờ tôi mới hiểu được. Dù con bé phát âm từ chu không được tròn vành rõ chữ, nhưng cũng khá giống chú mà. Tôi không tưởng tượng nổi tại sao mình lại không tự nghĩ ra được điều đó. Tại sao phải đến lúc một người lạ chỉ ra thì tôi mới hiểu được nhỉ.

Mặt khác, nhìn chung thì Sophie cũng chỉ mới nói ra ngần ấy từ trong đời thôi, và cũng giống như tôi, ông Paul Inverness được nghe gần hết những từ con bé từng nói rồi.

Tôi quyết định sẽ không nghĩ thêm về chuyện này nữa.

“Cháu biết ông sẽ thấy khá vô lý khi cháu nói Sophie không thích chó. Nhưng Sophie ghét chó thật đấy ạ. Con bé chỉ thích cô chó của ông thôi. Không phải loài chó nói chung đâu ạ.”

Chúng tôi lại im lặng một chút, sau đó ông lắc đầu. Tôi hiểu ông muốn kết thúc cuộc trò chuyện ở đó. Ông chuẩn bị rời đi.

Ông quay người và dợm bước.

“Chúc ông đến thăm anh trai vui vẻ ạ,” tôi nói.

Ông sững người và quay ngoắt lại. Ông ném cho tôi ánh nhìn xa lạ nhất tôi từng thấy. Một ánh nhìn gần như… nghi hoặc. Hình như ông nghĩ đằng sau câu nói đó, tôi còn che giấu động cơ bí mật nào khác. “Sao cháu lại nói thế?”

“Cháu… À… Ừm… Cháu không biết ạ. Không phải mọi người vẫn thường nói như vậy sao ạ? Chỉ là cháu thấy ông có vẻ rất vui khi tới nhà anh trai mình thôi ạ.”

“Ta chẳng thấy vui vẻ gì khi phải gặp anh trai mình đâu.” “Thật ạ? Vì cháu thấy ông có vẻ vui mà.”

“Ta chẳng biết vì sao cháu lại nói thế. Ta thậm chí còn chẳng thích anh trai mình ấy chứ.”

Tôi muốn hỏi, “Thế tại sao ông lại tới nhà ông ấy?”. Nhưng… thực ra tôi cũng không cần biết điều đó, nên tôi không hỏi. Tôi muốn suy nghĩ thêm. Cuộc trò chuyện của chúng tôi dần trở nên kì quặc, nên tôi chẳng muốn nói ra điều mình nghĩ nữa.

Ông quay lại nhìn tôi trên đường đi ra cổng. Ông lại ném cho tôi một ánh nhìn khác. Như thể ông bắt tôi phải chịu hoàn toàn trách nhiệm cho câu nói dở hơi vừa rồi, chứ ông thì chẳng có lỗi gì hết.

Tôi tự nhắc nhở bản thân không được nói chuyện với Paul Inverness nữa. Không được nói thêm gì ngoài những điều tôi bắt buộc phải nói nữa.

Tôi quay vào nhà để báo với mẹ tin tốt. Rằng Sophie sẽ yên lặng được một lúc. Ít nhất là trong vài tiếng đồng hồ.

Và, vài tiếng yên bình là rất nhiều đấy.

Nếu tính đến những sóng gió chúng tôi từng phải đương đầu.

Tôi đi bộ tới thư viện, mặc dù chỗ đó cách nhà Dì Vi những gần hai dặm13. Không phải vì tôi không có tiền đi xe buýt đâu. Chỉ là tôi chưa bao giờ được cho nhiều tiền tiêu vặt, nên nếu đi bộ thì tôi sẽ tiết kiệm được chút tiền ít ỏi của mình.

13 Khoảng 3 kilomet.

Thư viện ở đây nhỏ hơn thư viện gần nhà cũ của tôi nhiều, bởi đây là vùng ngoại ô. Khi bước vào trong, tôi phải để ý tìm ngay phòng máy tính. Ở đây chỉ có tổng cộng tám chiếc máy tính, còn chưa bằng một nửa số máy ở thư viện trên thành phố. Nhưng khi đó chỉ có hai người đang dùng máy tính thôi. Tôi đã quen với cảnh mọi người xếp hàng chờ nhau ở thư viện cũ, dù có tới tận hai mươi chiếc máy tính cơ.

Tôi bước tới quầy thủ thư. Người phụ nữ trực quầy còn khá trẻ, chắc chị ấy chỉ khoảng hơn hai mươi một chút. Chị có mái tóc vàng, một bên còn điểm xuyết lọn tóc màu xanh dương.

Tôi trình thẻ thư viện của mình.

“Gia đình em mới chuyển tới đây. Em có thể tiếp tục dùng thẻ này ở đây không ạ?”

Chị thủ thư chớp mắt vài lần, chắc chị thấy mấy câu hỏi sơ đẳng kiểu này khó trả lời hơn những câu hỏi hóc búa thực sự. Sau đó chị đáp, “Các thư viện trên cả nước đều thuộc cùng một hệ thống mà em”.

“Ồ. Vậy thì tốt quá. Em cảm ơn ạ.”

Tôi không định mượn sách về nhà, dù tôi thích đọc sách thật. Nhưng tôi không bao giờ mượn về nhà. Tôi dành hàng giờ để đọc sách và ngắm nhìn những bức tranh trong đó, nhưng tôi không muốn đem về nhà, bởi không muốn Sophie xé rách chúng. Nhưng tôi biết để được dùng máy tính thì phải có thẻ thư viện.

Tôi bắt đầu ngồi vào chiếc máy tính phục vụ tra cứu danh mục sách trong thư viện. Tôi ngồi bất động ở đó một lúc, hai bàn tay đặt trên đầu gối và não thì gắng sức hoạt động. Thực ra tôi ngồi thần ra như vậy chẳng ảnh hưởng đến ai, bởi vẫn còn những ba chiếc máy nữa chưa có người dùng, hơn nữa cũng chẳng có ai xếp hàng chờ máy tính cả.

Một lúc sau, tôi cảm thấy có người đứng sau lưng nên ngẩng đầu lên nhìn quanh. Đúng là sau lưng tôi có một người phụ nữ. Có lẽ cô ấy khoảng bốn mươi tuổi. Cô có mái tóc thẳng dài và đôi mắt rất đẹp.

“Cháu cần cô giúp tìm sách gì không?”

“Dạ, không ạ. Cháu cảm ơn. Cháu có thể sử dụng hệ thống này khá thạo rồi ạ. Cháu chỉ đang ngồi nghĩ xem mình nên đi đâu hôm nay thôi.”

Tôi quan sát cô ấy một lát. Cô nhìn tôi như thể điều tôi vừa nói buồn cười lắm. “Sao vậy ạ?” Tôi hỏi.

“Không có gì đâu. Cô thích điều cháu vừa nói. Nghe thú vị thật đấy. Thế cháu thường thích đi đâu?

“Cháu thích đi du lịch. Và cháu thích đọc những cuốn sách về du lịch. Cháu cũng hay tìm kiếm ảnh và các đoạn phim về du lịch trên mạng nữa. Nhưng loại cháu thích nhất là những cuốn sách ảnh khổ lớn14 chứa những thông tin về mọi vùng đất trên thế giới. Trong đó còn có rất nhiều hình ảnh nữa. Khi đọc những cuốn sách ấy, cháu vừa có thể học thêm về một địa danh, lại vừa có cảm giác như đang được tận mắt ngắm nhìn nơi đó vậy. Nhưng ở thư viện thường không có đầu sách này, vì chúng rất đắt tiền. Cháu ‘chu du’ khắp mọi nơi, nhưng điểm đến ưa thích nhất của cháu là Tây Tạng. Nên nếu cháu không thể quyết định mình sẽ tới đâu, thì cháu thường quay lại với Tây Tạng. Cháu thích mấy dãy núi, nên cháu cũng thích đến các nước Ấn Độ, Nepal và Bhutan nữa. Vì những quốc gia đó có dãy Himalaya đó ạ. Nhưng cháu cũng thích cả dãy Andes ở Nam Mỹ, và dãy Alpes15. Cháu còn thích cả nước Úc, bởi ở đó có rặng san hô Great Barrier16. Cho dù cái đó không liên quan đến núi non.”

14 Nguyên văn: coffee-table books, loại sách khổ lớn có nhiều tranh minh họa.

15 Dãy núi Alpes: Một trong những dãy núi lớn và dài nhất Châu Âu, trải dài qua các quốc gia Áo, Ý, Slovenia, Thụy Sĩ, Liechtenstein, Đức và Pháp.

16 Rặng san hô lớn nhất thế giới.

“Hừm,” cô ấy nói. “Có vẻ cháu biết chính xác thứ mình cần rồi nhỉ.”

“Vâng, thưa cô.”

Tôi biết mình muốn gì mà. Nhưng làm thế nào để lấy được nó mới là vấn đề.

Cô ấy bước đi, và tôi đoán chắc cô ấy cũng chẳng quan tâm lắm. Tôi đã nói với cô quá nhiều thông tin về loại sách tôi tìm kiếm so với những điều cô cần biết. Thông thường tôi chẳng có nhiều chuyện để nói với mọi người, trừ khi ngồi trong thư viện hoặc hiệu sách, nhưng khi đó tôi lại nói quá nhiều. Hình như tôi chưa bao giờ biết nói chuyện cho đúng cách cả.

Tôi nghĩ có lẽ hôm nay tôi sẽ thử đến nơi khác, nên bắt đầu tìm sách về Na Uy. Có thể là vài địa điểm xung quanh mấy cái vịnh hay đại loại thế.

Một phút sau, người phụ nữ quay lại và nói, “Chỗ cô không có nhiều sách ảnh về dãy Himalaya đâu, nhưng ở đây có mấy cuốn Hành tinh Cô đơn17 về Tây Tạng, Nepal và Bhutan đấy”.

17 Nguyên văn: Lonely Planet, bộ sách hướng dẫn du lịch nổi tiếng trên toàn thế giới, do cặp vợ chồng Maureen và Tony Wheeler chắp bút.

Tiếng cô cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. Tôi cảm giác mình giống một người lữ khách đi lạc.

“Cháu cảm ơn ạ,” tôi nói, “nhưng cháu đã đọc cuốn Hành tinh Cô đơn về Tây Tạng những ba lần rồi. Cuốn về Nepal cháu đã đọc hai lần, còn Bhutan thì cháu mới đọc một lần thôi ạ.”

“Cháu đọc á? Hay cháu xem lướt vậy? Vì mấy cuốn đó…” Cô dùng hai bàn tay mình ước chừng và phóng đại độ dày của mấy cuốn sách đó.

“Vâng, thưa cô, cháu biết là mấy cuốn đó rất dày, bởi cháu đã đọc kĩ chúng từ đầu đến cuối rồi, và cháu biết rõ mấy cuốn đó chứa bao nhiêu thông tin ạ.”

“Chà chà. Chúng ta có thể đặt mượn cuốn khác từ những thư viện còn lại trong hệ thống mà.”

“Ưm… Không ạ, thưa cô. Không sao đâu ạ. Cháu dùng máy tính là được ạ.”

Phải tốn không ít tiền mỗi lần vận chuyển sách từ những thư viện chi nhánh khác tới đây.

“Cháu biết đấy, họ còn có cơ sở dữ liệu Road Warrior…” “Vâng, thưa cô. Cháu cũng dùng cái đó rất thạo rồi ạ.

Nếu cháu có cơ hội đến một quốc gia khác, cháu sẽ sử dụng hệ thống đó. Nhưng cháu đã đọc hết mọi thông tin về các quốc gia cháu vừa nói được đăng tải trên trang đó rồi ạ.”

“Hừm,” cô nói. “Vậy cháu có hứng thú với công việc thủ thư phụ trách tra cứu ở đây không?”

Tôi cười phá lên, và môi tôi lại đau nhói.

“Cháu nghĩ có lẽ cháu vẫn chưa đủ tuổi đâu ạ.”

Cô đặt bàn tay lên đầu tôi trong giây lát, rồi đi sang chỗ khác. Tôi dõi theo bước chân cô, và trong suốt khoảng thời gian đó, tôi vẫn còn cảm thấy rõ hơi ấm bàn tay cô trên đỉnh đầu mình.

Tôi ngồi yên vị trong phòng máy và đọc thông tin về Na Uy trong khoảng một giờ đồng hồ, nhưng chẳng thấy gì khiến tôi xúc động cả.

Trên đường về nhà, tôi đi ngang qua một tiệm sách. Cửa tiệm đó bán cả sách cũ và mới. Nơi đó có tên là Tiệm sách của Nellie, tôi có cảm giác những thứ trong đó sẽ rất hay ho. Cửa tiệm này không giống mấy tiệm sách lớn, hiện đại có tích hợp quầy cà phê đâu. Trong này chỉ có sách thôi.

Tôi bước vào trong tiệm.

Người phụ nữ ở quầy thu ngân ngẩng đầu nhìn tôi và mỉm cười. Vì lí do nào đó, nụ cười của cô ấy lại là tất cả những điều khi nãy tôi muốn kiếm tìm ở Na Uy, nhưng điều đó nói ra đúng là vô lý thật, bởi tôi làm sao mà “ngao du” tới nụ cười của ai đó được. Nhưng dù sao tôi cũng chẳng bao giờ có điều kiện đặt chân đến Na Uy đâu mà. Buồn cười quá nhỉ?

“Chị là Nellie phải không ạ?” Tôi hỏi. “Hay đó chỉ là tên hiệu sách thôi ạ?”

Tôi đứng đó, suy đi nghĩ lại rằng điều vừa thốt ra khỏi miệng mình nghe thật ngu xuẩn. Tại sao mình lại phải quan tâm đến điều đó chứ? Thực ra không phải tôi quan tâm đâu, chỉ là tôi nghĩ mình cần phải nói gì đó. Nhưng tôi thậm chí còn chẳng hiểu sao mình lại hỏi vậy. Có lẽ chỉ cần nói một câu “Xin chào” là đủ rồi.

“Nellie bằng xương bằng thịt đây,” chị ấy đáp. “Chị có thể giúp gì cho em không?”

“Em đang thắc mắc liệu cửa tiệm của chị có loại sách ảnh du lịch khổ lớn không ạ.”

“Em có đặc biệt thích nơi nào không?” “Em thích mấy nơi có nhiều đồi núi ạ.”

Hình như chị thấy buồn cười vì câu trả lời của tôi. Tôi đoán là vì hầu hết mọi người đều muốn đến một đất nước cụ thể, chứ không phải vì kiểu địa hình nơi đó.

“Chị có một cuốn khá thú vị về dãy Himalaya ở khu sách cũ đấy,” chị đáp. “Để chị ra xem cuốn đó còn không nhé.”

Tim tôi bỗng rạo rực. Nếu đó là sách cũ, có lẽ tôi sẽ có đủ tiền rước nó về nhà. Nhưng đó chỉ là một trong số những suy nghĩ chớp nhoáng mà thôi. Vì kể cả đó là sách cũ, thì mấy cuốn sách ảnh cỡ đại đó vẫn rất đắt. Mà tôi cũng chẳng nỡ mang những thứ đẹp đẽ nhường ấy về nhà.

Tôi đi theo chị Nellie qua vài giá sách và tranh thủ quan sát chị ấy. Nhưng chủ yếu là tôi nhìn trộm chị. Bởi, lỡ chị ấy có nhìn sang phía tôi, thì chị cũng không phát hiện ra tôi đang nhìn chị chằm chằm. Chị có mái tóc nâu gần giống Sophie, nhưng sắc nâu trên tóc chị đậm hơn một chút, mắt chị cũng màu nâu. Tôi thích chiếc mũi của chị, nhưng tôi cũng không hiểu tại sao mình lại thấy thế. Trừ vài đốm tàn nhang thì tôi không hề thấy mũi mình có khuyết điểm gì. Thế nhưng đột nhiên tôi lại muốn mình có chiếc mũi của chị ấy.

Chị dừng lại, rồi lấy một cuốn từ trên giá sách xuống. Chị quay bìa sách về phía tôi. Tôi thề, lúc đó hai đầu gối tôi mềm ra như bún. Suýt nữa thì tôi quỵ xuống sàn. Hình ảnh trên bìa sách rất giống với hình ảnh đầu tiên tôi đã thấy về Tây Tạng. Đột nhiên đầu óc tôi cứ mụ mị, mơ hồ dần đi, như thể chuyện này không thể là thật vậy. Như thể Tây Tạng đã đuổi theo tôi, và cuối cùng nó cũng tìm thấy tôi tại đây. Trên bìa sách là ngôi đền trắng với mái ngói chạm trổ tinh xảo, xa xa là những ngọn núi tuyết cheo leo và hiểm trở, những đứa trẻ bận trang phục sáng màu đang tươi cười, và những lá cờ nguyện18 phấp phới trong làn gió núi. Ừm. Tất nhiên đó chỉ là bức ảnh thôi, nên theo lý thuyết thì mấy lá cờ nguyện không thể chuyển động được. Nhưng khi nhìn vào đó, bạn cảm giác như chúng đang bay thật.

18 Nguyên văn: Prayer flags.

Mấy đứa trẻ Tây Tạng lúc nào cũng tươi cười trong những bức ảnh. Tôi nghĩ đó là một trong những lý do tôi bắt đầu thích “phiêu lưu” qua những trang sách.

Ngay trên bìa sách là dòng chữ Himalaya được viết rất to, và những cái tên Tây Tạng, Nepal, Bhutan, miền Bắc Ấn Độ, và miền Bắc Pakistan được viết bằng cỡ chữ nhỏ hơn.

“Em có thể xem thử cuốn đó không ạ?” Tôi chìa tay ra đón lấy cuốn sách. Tay tôi run rẩy, và tôi nghĩ chị phát hiện ra điều đó.

Tôi cứ cầm cuốn sách như vậy một lúc. Nó rất to và nặng. Tôi lật bìa sau của cuốn sách và nhìn vào giá tiền ghi trên nhãn. Sách cũ, giá năm mươi lăm đô. Nhưng bạn hầu như không thể nhận ra đó là sách cũ. Nếu bỏ qua vết quăn ở góc bìa, thì cuốn sách đó vẫn hoàn hảo.

“Em có thể xem qua cuốn sách này chứ ạ?” “Tất nhiên rồi.”

Chị đưa tôi đến chỗ một chiếc ghế nhồi đỗ trông khá thoải mái. Chỗ đó ở khá xa so với quầy thu ngân, nhưng nhìn từ đó tôi vẫn có thể thấy chị, và chị cũng thấy tôi. Tôi ngồi xuống, tháo giày và ngồi khoanh chân lại, nhưng tôi không cởi tất ra, vì tôi không muốn làm bẩn ghế của chị. Tôi đặt cuốn sách vào lòng và mở ra. Tôi ngẩng lên thì thấy chị đã quay lại quầy và tiếp tục đọc sách.

Tôi lật từng trang sách. Những dãy núi phủ trắng tuyết gần như thu trọn ánh nhìn của tôi. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy tuyết trong đời. Nhưng tôi không muốn thấy tuyết trong thành phố. Tôi không muốn thấy đống tuyết bị người ta đào đi mất một nửa để dành đường cho xe cộ lưu thông. Tôi muốn thấy tuyết trên núi cơ. Tôi muốn thấy những bông tuyết bay lả tả trên đỉnh núi, hay ở rìa núi, hoặc bám vào những vách đá cheo leo trên những đỉnh núi hùng vĩ. Tôi thậm chí còn muốn tận mắt chứng kiến một trận tuyết lở nữa ấy. Nhưng tất nhiên là tôi sẽ ngắm tuyết lở từ một nơi xa xôi và an toàn rồi.

“Thế sau này em có định tới Tây Tạng khi đủ lớn không?” Chị hỏi, đôi mắt chị vẫn không rời cuốn sách đang đọc.

Tôi rời mắt khỏi cuốn sách của mình và nhìn chị chằm chằm một lúc.

“Em nghĩ là không ạ.”

“Chị không nghĩ em sẽ trả lời như vậy đâu.”

Chị nhìn tôi. Còn tôi thì nhanh chóng quay mặt sang hướng khác.

“Em phải ở lại để giúp đỡ mẹ.” “Mãi mãi á?”

“Vâng, chắc vậy ạ.”

“Chị ghét nói gở lắm nhé, nhưng mẹ em cũng đến lúc phải ra đi chứ.”

“Ồ. Nếu thế thì em càng phải ở lại. Bởi nếu mẹ em không còn sống để chăm sóc Sophie, thì em sẽ phải làm điều đó thay mẹ.”

Tự nhiên tôi thấy bực mình vì nói quá nhiều. Sau đó tôi đợi chị hỏi Sophie là ai, và tại sao tôi phải chăm con bé.

Nhưng đợi mãi mà chị chẳng hỏi câu đó, nên tôi lại cúi xuống xem tiếp cuốn sách của mình. Trang tiếp theo có ảnh những thầy tu Tây Tạng mặc bộ y phục vàng cam.

“Có thể em sẽ kiếm được nhiều tiền, rồi thuê ai đó giúp đỡ mẹ trong khi em đi du lịch.”

Tôi lại ngước lên nhìn. “Em thích ý tưởng đó đấy,” tôi nói. Tôi đã hy vọng chị sẽ nói thêm điều gì đó, nhưng chị chỉ im lặng. Nên tôi tiếp tục đọc sách. Đó chính xác là nơi tôi muốn đến ngày hôm đó. Chính xác là nơi tôi muốn tới mỗi ngày. Tôi bắt đầu cảm thấy mình không nỡ chia tay cuốn sách. Tôi không nỡ bỏ nó lại. Nhỡ có người đến mua nó thì sao? Tôi cảm thấy dường như cuốn sách đó dành riêng cho mình vậy. Chỉ mới nghĩ đến việc nó thuộc về người khác là tôi đã thấy buồn rồi.

“Em thích điều gì về những quốc gia ở vùng núi Himalaya vậy?”

Câu hỏi của chị khiến tôi giật mình.

“À. Hồi nhỏ em nhìn thấy một tấm hình. Trông khá giống hình ảnh trên bìa cuốn sách này. Chỉ là… nơi này thực sự rất khác biệt so với tất cả những nơi em từng đặt chân tới. Và em cảm giác hình như tất cả những điều khác biệt ở vùng Himalaya đều tốt đẹp hơn nơi em sống. Cả đời em chưa bao giờ được tới vùng núi, hay nhìn thấy tuyết. Em không biết nữa. Mọi thứ về nơi đó đều hoàn hảo. Hoặc có lẽ em thích Tây Tạng chỉ vì nó ở cách đây tận nửa vòng trái đất thôi.”

Sau đó, tôi im lặng một lúc. Tôi muốn rút lại câu mình vừa nói, nhưng không thể, nên tôi quyết định giải thích thêm chút nữa.

“Chị đã bao giờ thấy cáo Tây Tạng chưa ạ? Trông nó chẳng giống mấy loài cáo khác trên thế giới chút nào. Em thề, trông nó như bước ra từ truyện tranh ấy. Trông nó siêu thực lắm ấy. Nó giống kiểu nhân vật cáo hoạt hình mà người ta vẽ cùng chiếc áo choàng hút thuốc, và trên miệng phì phèo một điếu xì gà cỡ bự. Trông mặt nó tinh vi lắm ạ.”

Chị ấy mỉm cười. Dấu hiệu tốt đây. Tôi tiếp tục.

“Chị có biết rằng, chỉ riêng Tây Tạng đã có một nửa số thực vật của Trung Quốc không? Ở đó có tới bốn trăm loài đỗ quyên cơ. Mà không phải là bốn trăm loài hoa khác nhau đâu ạ. Chỉ riêng loài hoa đó đã có tới bốn trăm chủng loại khác nhau. Ở Tây Tạng còn có hơn năm trăm loài lan rừng. Bốn nghìn loài thực vật khác, và hơn ba mươi phần trăm tổng số chim chóc các nhà sinh vật học từng tìm thấy trên toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ. Và ở đó có tới bốn trăm loài bướm khác nhau. Chị biết không ạ?”

Chị đang nhìn thẳng vào tôi, nên tôi lại quay mặt sang hướng khác.

“Em đang đọc mấy thông tin đó từ trong sách đấy à?” “Dạ không, thưa chị. Trong cuốn sách này không có mấy thông tin đó đâu ạ. Ý em là, không phải em đã đọc hết cả cuốn này để biết trong này có những gì đâu ạ. Chỉ là em biết mấy kiến thức đó từ trước khi tới đây thôi.”

“Ừa, để trả lời câu hỏi của em, thì chị nghĩ chỉ có em và những người làm việc ở công ty du lịch Tây Tạng mới biết được những điều đó thôi. Và… làm ơn… chị biết mình lớn tuổi hơn em. Nhưng chị nghĩ cụm từ ‘thưa chị, thưa cô, thưa bà’

chỉ nên dùng để nói những người như mẹ chị thôi. Làm ơn gọi chị là Nellie nhé.”

“Chị Nellie. Vâng, em xin lỗi. Em không rõ người nào sẽ biết hay không biết những thông tin đó.”

Chị im lặng một lát, nhưng không đọc tiếp cuốn sách của mình, mà lại nhìn ra ngoài cửa sổ. Cửa sổ nằm phía bên tay trái chị, nên tôi không rõ liệu ngoài đó thực sự có gì không, hay chị chỉ nhìn ra đó để suy nghĩ.

Rồi chị nói, “Em biết đấy, trước khi người Trung Quốc xâm lược thì Tây Tạng không hề giống vậy đâu”.

“Vâng, em biết ạ.”

“Và du lịch cũng chẳng có ích lợi gì cả. Chậc. Thực ra thì du lịch cũng có lợi đấy. Nhưng cũng có hại nữa. Chị nghe nói mấy con sông ở đó đã bắt đầu có rác rồi đấy.”

“Không sao mà chị,” tôi nói. “Đó chỉ là ước mơ của em thôi ạ. Dù sao thì em cũng chẳng bao giờ tới đó được đâu.”

Tôi gập cuốn sách lại và chuẩn bị đứng dậy. “Chị xin lỗi,” chị nói. “Đừng đi mà.”

“Nếu mấy con sông ở đó có rác, thì đó cũng không phải là lỗi của chị đâu ạ.”

“Lỗi của chị là đã nhắc tới chuyện đó khi em đang mơ mộng.”

“Không sao mà chị,” tôi nói. “Em phải về nhà đây. Em không thể đi du lịch, và em cũng chẳng có đủ tiền mua cuốn sách này. Em phải về nhà đây ạ.”

“Em có thể quay lại tiệm để đọc nốt cuốn sách.”

“Dạ… vâng. Có thể ạ. Có thể em sẽ quay lại.”

Tôi mang cuốn sách tới quầy tính tiền, vì tôi không thể nhớ vị trí của nó. Ta không nên cất bừa một cuốn sách lên giá, trừ khi ta nhớ vị trí của nó.

“Chị sắp phải kiểm kê toàn bộ tiệm sách,” chị ấy nói. “Chị sẽ cho em cuốn này, đổi lại bằng bốn giờ lao động chăm chỉ.”

Tôi đặt cuốn sách lên quầy tính tiền, rồi ngó ra ngoài qua chiếc cửa sổ chị vừa nhìn khi nãy. Nhưng ngoài đó chẳng có gì cả.

Tôi không nghĩ chị thực sự cần tôi giúp đỡ. Lời đề nghị của chị nghe giống kiểu làm từ thiện hơn. Ý tôi là… tôi biết chị có ý tốt. Nhưng tôi không thích cảm giác đó.

“Chị thật tốt khi đề nghị em làm việc đó, thưa chị. Em xin lỗi, ý em là… chị Nellie ạ. Nhưng dù sao em cũng không thể đem cuốn sách đó về nhà được. Nó sẽ bị xé nát mất thôi.”

“Thế trong nhà em không có chỗ nào an toàn để cất sách à?”

“Dạ… Em có một chiếc rương kim loại có khóa, nhưng thi thoảng em vẫn phải lấy sách ra đọc chứ, nếu không thì em mang sách về để làm gì ạ? Và em sẽ thấy rất buồn nếu cuốn sách đó bị xé rách. Cuốn sách này thực sự quá giá trị, nó không đáng bị đối xử như thế, chị cũng biết vậy mà?”

“Em có muốn chị cất cuốn sách sau quầy tính tiền giúp em không? Biết đâu em muốn nghĩ lại thì sao?”

“Ưm…” Tôi lại nghĩ tới chuyện khi tôi quay lại đây, và có người đã mua cuốn sách này. Một người nào đó nhiều tiền, không cần phải suy đi xét lại về một khoản năm mươi lăm đô cỏn con, và cũng chẳng cần phải quan tâm quá nhiều tới cuốn sách vì giá trị của nó chẳng đáng mấy đồng so với hầu bao của họ. “Như vậy thì tốt quá ạ. Em cảm ơn chị.”

“Tên em là gì vậy?”

Tôi cứ đứng đó, đần mặt ra một lúc. Vì tôi không hiểu chị hỏi tên mình làm gì.

Trước khi tôi kịp hiểu ra, thì chị ấy nói: “Nếu chị giữ sách cho em thì chị phải dán tên em lên đó chứ”.

“À. Vâng. Em là Angie. Chị có cần biết họ của em không ạ?”

“Không, chị chỉ cần tên và số điện thoại thôi.”

“Ôi. Nhưng em còn chưa biết số điện thoại nhà mình nữa.” Tôi cau mày, câu vừa rồi đần độn quá. “Gia đình em mới chuyển đến sống ở nhà Dì từ ngày hôm kia thôi. Em còn chưa kịp nhớ số điện thoại nhà Dì ấy.”

“Không sao. Lần sau em nói với chị cũng được.” “Em nhớ rồi ạ. Em cảm ơn chị.”

Tôi thấy chị viết tên tôi thật to trên tờ giấy nhớ màu vàng bằng nét chữ nguệch ngoạc. Khi chị dán tờ giấy nhớ lên bìa sách, tôi đã nghĩ, “Thấy chưa? Mày biết rõ cuốn sách đó là do định mệnh mang tới cho mày mà”.

Nhưng tôi vẫn không thể tin rằng có ngày nó sẽ thuộc về tôi.

Sau đó tôi ra khỏi cửa tiệm và rảo bước về phía ánh đèn. Tôi chợt nhận ra mình mới ra khỏi nhà chưa đầy hai tiếng đồng hồ, tính cả thời gian đi bộ. Cũng không phải vì tôi cần về nhà. Tôi chẳng cần, và cũng chẳng muốn về. Là do chị chủ tiệm sách ấy. Tôi thích chị ấy lắm, nhưng tôi lại có cảm giác mình bị chị nhìn thấu tâm can. Tôi cảm thấy toàn thân trở nên trong suốt, và tôi chẳng có lớp áo nào bảo vệ mình khỏi ánh mắt xuyên thấu tâm can của chị, hay ngăn cản chị bước vào tâm trí mình.

Tôi đi lòng vòng thêm khoảng một giờ nữa, sau đó lại vào công viên ngồi thêm một giờ. Đáng lẽ tôi nên kể cho bạn những điều tôi nghĩ khi đó, nhưng thú thực thì tôi chẳng biết lúc đó mình có suy nghĩ gì không nữa.

Khi tôi về tới nhà thì mẹ và Sophie đang ngồi trong tủ quần áo. Dấu hiệu này chẳng tốt lành gì. Tôi lần theo tiếng hét và tìm thấy hai người bọn họ. Tôi nghe thấy tiếng Sophie, nhưng lúc bấy giờ con bé chỉ còn lào khào thôi. Chắc con bé sắp mất giọng. Tức là con bé đã la hét lâu lắm rồi.

Tôi mở cửa tủ.

Mẹ ngước lên nhìn tôi. Trông mẹ có vẻ giật mình. Nhưng sau đó mặt mẹ giãn ra, có vẻ mẹ thấy mừng vì thấy tôi về một mình.

“Mẹ bỏ mấy hộp trứng lên rồi ạ?” Tôi nói.

Trong khi tôi ở ngoài đường thì mẹ đã kịp dọn dẹp chiếc tủ quần áo trong căn phòng trống của Dì Vi. Mẹ con tôi phải xoay xở để sống trong căn phòng đó. Mẹ đã lót mấy hộp trứng vào đáy tủ quần áo. Mẹ gỡ những hộp trứng đó từ chiếc tủ quần áo cách âm ở nhà cũ, và chuyển tới đây trong một chiếc thùng các-tông.

“Ừ. Ơn Chúa là ông hàng xóm đi đủ lâu để mẹ kịp làm xong việc đó.”

Tôi bước vào trong tủ quần áo và đóng cửa lại. Tôi cũng không chắc tại sao mình lại vào đó nữa. Trong đó chỉ vừa đủ chỗ để tôi ngồi khoanh chân trên sàn nhà thôi. Đầu gối tôi đụng trúng người Sophie, nhưng con bé chẳng hề bận tâm.

Mẹ tôi cứ chải tới chải lui mái tóc của Sophie từ trán ngược về sau. Tôi nghĩ mẹ muốn xoa trán cho con bé là chính. Bình thường Sophie không thích bị người khác đụng vào người, nhưng thi thoảng, khi em thực sự kiệt sức thì việc vuốt ve này giống như thôi miên vậy. Mặt em đỏ lựng và nhễ nhại mồ hôi. Trong tủ quần áo cũng hơi nóng và bức bí thật, nên tôi cũng chẳng ngạc nhiên.

Giọng con bé giờ yếu ớt đến mức mẹ và tôi có thể nói chuyện bình thường với nhau mà chẳng cần phải hét lên nữa.

“Dì Vi đâu ạ?”

Mẹ im lặng hồi lâu. Mỗi lần tôi hỏi mà mẹ im lặng như vậy, thì câu trả lời thường chẳng tốt đẹp gì.

“Dì tới nhà nghỉ rồi.” “Dì tới nhà nghỉ sao ạ?” “Mẹ e là vậy.”

“Chúng ta vừa đuổi Dì ra khỏi nhà Dì sao?”

“Mẹ chẳng biết mình nên nói gì với con nữa, nhóc ạ.” “Dì sẽ đi bao lâu ạ?”

“Mẹ chịu.”

Sau đó, chúng tôi chỉ ngồi thừ người ra một lúc. Trong tủ càng lúc càng nóng và bức bí hơn, nên tôi định lách ra ngoài.

Khi đó mẹ hỏi, “Hôm nay con đã đi đâu thế?”.

Không phải mẹ muốn tôi báo cáo đâu. Câu hỏi đó nghĩa là mẹ đang cố tỏ ra quan tâm đến tôi. Mẹ luôn cố hết sức để chứng tỏ mình quan tâm đến chuyện tôi làm. Tôi nghĩ lí do là vì Sophie đã thu hút hết sự chú ý của mẹ. Nhưng thật sự, tôi chỉ muốn được tự do làm điều mình muốn mà không bị ai quản lý thôi. Thà mẹ cứ tập trung để ý Sophie còn hơn. Tôi luôn cảm thấy không thoải mái khi bị ai đó dõi theo những thói quen đơn giản, và đôi khi kì quặc của tôi.

“Con đến thư viện ạ.”

“Con tới đó để viết thư cho mấy người bạn ở trường cũ à?” “Đại loại vậy ạ. Con đến dùng máy tính chút ấy mà.

Mẹ cũng biết mà, con chỉ đến đó xài mạng và liên lạc với mọi người thôi.” Nhưng sự thực là tôi chẳng có bạn bè gì ở trường cũ. Tôi không có những người bạn thân thiết tới mức sẽ nhớ nhung nhau. Nhưng tôi không muốn mẹ biết điều đó. Và tôi cũng không bao giờ muốn mẹ biết về chuyện du ngoạn, vì tôi biết điều đó chỉ khiến mẹ thấy buồn hơn thôi.

“Ông hàng xóm đó chẳng hề tốt bụng tẹo nào,” mẹ nói. Mẹ cứ tự nhiên phát biểu không đầu không đuôi vậy đấy.

Tôi đột ngột ngẩng đầu lên nhìn mẹ. Nhưng vì mẹ đang mải nhìn Sophie và chải tóc cho con bé, nên mẹ không thấy tôi.

“Mẹ sang nói chuyện với ông ấy á?” “Ừ. Sao thế?”

“Mẹ đứng nói chuyện với ông ấy qua chỗ hàng rào á?”

“Không, mẹ đến tận cửa nhà ông ấy.” “Để nói gì cơ ạ?”

“Chúng ta phải tìm cách để Sophie được ở cùng con chó đó nhiều hơn.”

“Chúng ta không thể. Không đời nào. Đó là chó của ông ấy mà.”

“Ừ. Ông ta cũng nói gần giống con đấy. Và ông ấy nói, không đời nào ông ấy chịu rời xa con chó đó…”

“Mẹ đòi ông ấy cho mình con chó đó á?” Tôi thấy mình chợt lên giọng cao vút và sắc lạnh.

“Không! Mẹ có xin ông ấy cho không đâu. Mẹ có đề nghị trả tiền cho ông ấy mà. Dù mẹ chưa thể trả hết ngay, nhưng mẹ có thể trả góp chẳng hạn.”

Tôi đứng bật dậy, và tôi còn không biết mình bật dậy kiểu gì.

“Con không thể tin mẹ được! Đó là chó của ông ấy! Là người bạn thân nhất của ông ấy! Mẹ không thể đề nghị ai đó bán bạn thân cho mẹ được!”

“Mẹ chỉ hỏi vậy thôi. Ông ấy có quyền từ chối mà. Và ông ấy đã từ chối đó thôi.”

“Con không thể tin là mẹ có thể hỏi được câu đó đấy. Nhỡ con chó đó chỉ bình tĩnh khi ở gần Sophie thì sao? Liệu mẹ có chịu bán Sophie không?”

Thế là mẹ cũng bật dậy, mặt đối mặt với tôi. Sophie thì vẫn đang ngồi trên sàn, con bé khẽ rít lên the thé.

“Con không được so sánh em mình với chó!”

“Con đâu có so sánh Sophie với tụi chó. Con nghĩ mẹ hiểu con hơn thế mà. Con đang so sánh con chó đó với một con người đấy chứ? Cô chó đó là người duy nhất chờ đợi ông Paul ở nhà khi ông ấy đi làm về mỗi ngày. Mẹ nghĩ điều đó không quan trọng à? Nó là bạn thân nhất của ông ấy, chứ không phải một chiếc xe hơi đã cũ.”

“Để mẹ nhắc cho con nhớ, chúng ta đang gặp rắc rối đây này. Chí ít ông ta có thể đối xử tử tế với chúng ta hơn một chút vì điều đó mà.”

“Con chẳng trách ông ấy đâu. Con cũng chẳng muốn tử tế với người hỏi con như vậy.”

Tôi lao ra khỏi tủ. Sau đó tôi chẳng biết mình nên đi đâu nữa.

Cuối cùng tôi tức giận bỏ ra ngoài sân sau, rồi nằm trên chiếc đi-văng ngoài bãi cỏ. Gió thật mát, và tôi thấy mồ hôi trên mặt mình khô dần. Tôi lại nghĩ về chiếc tủ đồ, và chứng sợ hãi nơi chật hẹp bất chợt ùa đến. Nhưng tôi thấy chuyện này đúng thật lạ kì, hình như tôi bị phản ứng chậm hay sao ấy. Có lẽ cả cuộc đời tôi cũng giống như chiếc tủ cách âm đó. Quá chật hẹp và quá nóng, nên tôi chẳng thể nào dang thẳng tay, hay duỗi thẳng chân trong đó.

Một lúc sau, mẹ ló đầu ra từ cửa sau và nói, “Ước gì con không bực tức với mẹ như thế”.

“Mẹ cho con chút thời gian được không?”

Mẹ tôi là thế đấy. Mẹ không thích khi người khác giận dỗi mình. Nhất là khi người đó là tôi. Nên mẹ luôn mong tôi nguôi giận ngay lập tức. Hoặc tôi chỉ cần nói với mẹ rằng tôi đã nguôi giận cũng được. Nhưng tôi cần thêm thời gian. Mọi thứ trong đầu tôi cứ rối như tơ vò, và giờ tôi phải gỡ rối từng chút một. Vội vàng hấp tấp chẳng ích gì.

Chắc mẹ lại quay vào nhà, vì sau đó tôi không nghe thấy mẹ nói thêm gì nữa.

Tôi ngủ gật ngoài sân một lúc, dù chẳng hề cố ý. Và việc đó thật… Tôi không thể diễn tả nổi việc đó kì cục đến mức nào. Tôi phải nói mình chưa từng chợp mắt vào ban ngày. Mà không phải tối nào tôi cũng ngủ đủ, nên có lẽ đó cũng là lí do.

Tôi choàng tỉnh.

Hoàng hôn sắp buông xuống. Tôi nhận ra mẹ đang ngồi trên mép ghế, ngay cạnh hông tôi. Mẹ đang ngắm tôi ngủ.

“Con vẫn giận mẹ đấy à?”

Trông mẹ có vẻ buồn bã. Và có chút sợ hãi nữa.

“Làm sao con giận mẹ được chứ? Con ngủ mê mệt nãy giờ mà. Sao con tức giận trong khi ngủ được.”

Mẹ cười, vẻ buồn bã vẫn lưu lại trên khuôn mặt mẹ. Mái tóc dài của mẹ được tết bím lỏng. Kiểu tóc đó trông rất hợp với mẹ. Trên mặt mẹ lòa xòa mấy lọn tóc lạc đàn, nhưng nói chung trông bà vẫn rất đẹp.

Mẹ bắt đầu vuốt trán tôi nhè nhẹ, giống như khi nãy mẹ xoa đầu Sophie. Chỉ khác là tôi chẳng có nhiều tóc để mẹ vuốt.

“Sophie đâu ạ? Mẹ không để em trong tủ một mình đấy chứ?”

“Tất nhiên là không rồi. Con biết mẹ không bao giờ làm thế mà. Em con ngủ rồi. Mẹ đã bế con bé lên giường rồi.”

“Sớm thật đấy. Liệu con bé có ngủ xuyên đêm không mẹ nhỉ?”

“Ôi, Chúa ơi. Hãy cứ hy vọng thế đi.”

Chúng tôi im lặng một lúc. Tôi để mẹ xoa đầu tiếp, bởi tôi cảm thấy khá thoải mái khi được mẹ xoa đầu như vậy.

Rồi mẹ nói, “Mẹ không thích con giận mẹ đâu”.

“Con biết. Nhưng thi thoảng mọi người cũng cần tức giận. Ý con là, đó là chó của ông ấy mà mẹ.”

Mẹ nhẹ nhàng lấy tay bịt miệng tôi lại. “Đừng nói chuyện đó nữa con.”

Tôi đảo mắt, sau đó mẹ rụt tay lại. “Con biết mẹ có ý tốt mà,” mẹ nói.

“Con biết chứ. Con hiểu mẹ đang cố gắng kiếm một nơi để tất cả chúng ta được sống yên ổn mà không phải lo bị đuổi khỏi nhà.”

“Dù sao thì ý tưởng đó đúng là ngu ngốc thật. Mẹ thề, lúc đầu mẹ cứ nghĩ ý tưởng của mình hay ho lắm, nhưng giờ mẹ chẳng nhớ vì sao mình lại nghĩ vậy nữa. Mẹ chẳng thể nhớ nổi mình đã tự thuyết phục bản thân thế nào nữa.”

“Mới chỉ có mấy ngày thôi mà mẹ. Sao mẹ chắc chắn ngày mai Sophie sẽ không trở mặt với con chó chứ?”

“Sophie mà chán thứ gì đó ư? Ý mẹ là, một khi con bé đã thích thứ đó?”

“Chà. Mẹ nói cũng có lý đấy.”

“Mẹ đang nghĩ liệu chúng ta có thể kiếm một con chó Great Dane đen giống vậy không. Nếu chú chó này có đôi tai bình thường, thì con nghĩ Sophie có nhận ra không?”

“Con nghĩ Sophie sẽ nhận ra điểm khác biệt ngay, nếu đó là một chú cún. Mà kể cả khi mẹ mua một con chó giống hệt Rigby, thì con bé vẫn nhận ra điều khác biệt thôi. Không phải vì ngoại hình của nó đâu. Con bé thích điều gì về nội tâm con chó đó cơ.”

“Nghe không giống Sophie của chúng ta lắm nhỉ.” “Mẹ tin con đi. Con quan sát hai đứa mấy hôm rồi.” “Thi thoảng mẹ thấy mình đúng là ngốc thật.”

“Con thì thấy vậy những vài lần mỗi ngày cơ.”

“Ý mẹ là, mẹ thấy mình ngốc khi ở bên con cơ. Thi thoảng mẹ nghĩ, có khi con còn biết nhiều hơn mẹ. Ý kiến của con hầu như luôn đúng, mỗi khi chúng ta phải tranh luận. Mẹ cảm thấy con thậm chí còn người lớn hơn cả mẹ. Và mẹ sợ điều đó lắm.”

“Con chẳng người lớn hơn ai cả,” tôi nói.

Mặc dù tôi biết điều đó không đúng. Tuy chưa hiểu rõ nhiều điều, nhưng tôi lại biết rõ thế nào là trưởng thành. Tôi cảm thấy không thoải mái khi mẹ nhắc tới chuyện này. Tôi chưa từng nói hẳn ra với mẹ… vẫn chưa… nhưng tôi biết chính xác ý mẹ là gì. Và tôi cũng thấy sợ điều đó.

Thực ra, có khi tôi còn thấy sợ hơn cả mẹ.

Sau khi mẹ vào nhà, tôi còn nán lại trên mép ghế một lúc lâu. Trời bắt đầu xâm xẩm tối, nhưng chẳng hiểu sao tôi lại tiếp tục ngồi như vậy. Tôi chẳng thấy có động lực làm gì, ngoại trừ việc ngồi ì ra như thế.

Một lúc sau, tôi để ý có thứ gì đó chuyển động. Khi ngẩng đầu lên, tôi thấy Rigby đang nhìn mình qua hàng rào và vẫy đuôi tíu tít. Tôi nghĩ, nếu nó đủ kiên trì, có thể chiếc đuôi của nó sẽ xé rách hàng rào để nó chạy tới chào tôi. Bất chợt, tôi mỉm cười trong vô thức.

Tôi suýt không định ngẩng đầu lên nhìn ông Paul đứng đằng sau Rigby. Trong giây lát, tôi đã nghĩ mình có thể tránh mặt ông.

Nhưng sau đó tôi nghe ông nói, “Ôi, thôi nào, Rig. Cứ làm điều mi định làm đi”.

Tôi ngước lên. Câu nói của ông khiến tôi chú ý.

Tôi thở dài, đứng dậy và đi tới bên hàng rào. Tôi luồn mấy ngón tay mình qua mắt lưới để Rigby thoả sức hít hà.

“Cháu xin lỗi về điều mẹ cháu đã nói với ông,” tôi nói. Phản ứng của ông chẳng hề giống như những điều tôi mong đợi.

Ông cố đứng thẳng hơn nữa, như thể vai ông sắp biến thành một hợp chất cứng hơn xương. Có lẽ là xi măng, hay đá cẩm thạch. Đôi lông mày ông nhíu lại.

“Thế này nhé. Chuyện về gia đình nhỏ của cháu,” ông nói. “Ta không muốn liên quan đến ai trong gia đình cháu cả. Ta chỉ muốn được ở một mình. Ta muốn yên lặng. Ta muốn an bình. Ta muốn cuộc đời ta đơn giản nhất có thể. Cháu có vẻ là một đứa trẻ tốt bụng. Nhưng những người còn lại thì ta không chắc lắm. Tuy nhiên, đó không phải điều ta định nói. Ý ta là, phía bên nhà cháu quá phức tạp. Còn ta thì chỉ muốn giản đơn. Ta muốn được yên tĩnh. Nếu cháu đem đến chỗ ta bất kì điều gì về gia đình cháu, thì cuộc sống của ta cũng sẽ trở nên phức tạp như vậy. Cháu hiểu chứ?”

“Vâng, cháu hiểu ạ.”

“Ta chỉ muốn được ở một mình thôi.” “Cháu hiểu đoạn đó.”

“Cháu… ừ, ta tin là vậy. Và ta cũng tin là cháu sẽ để ta một mình nếu ta yêu cầu cháu làm vậy. Nhưng cháu không thể bảo em gái mình im lặng được.”

“Không, thưa ông. Cháu không nghĩ có thứ gì khiến em cháu im lặng được.”

“Cháu cũng không thể bảo mẹ cháu tự lo lấy chuyện của mình được.”

“Thực ra… Cháu không chắc liệu câu ông vừa nói có đúng không.” Tôi rời mắt khỏi khuôn mặt đáng yêu của Rigby và ngẩng lên nhìn khuôn mặt không-mấy-đáng-yêu của ông Paul. Trong ánh sáng nhập nhoạng chiều tối, tôi chỉ lờ mờ thấy vài nét trên mặt ông. “Cháu đã phát cáu với mẹ vì chuyện đó.”

Ông chỉ đứng lặng im một lúc. Tôi thấy nét mặt ông thay đổi. Không phải thay đổi hoàn toàn đâu, chỉ một chút thoáng qua thôi. Khuôn mặt ông từ vô cảm như gỗ đá chuyển thành vẻ mặt… gần như… tò mò.

“Và mẹ cháu nghe lời cháu?”

“Cũng gần như vậy ạ. Nhưng mẹ cũng giận vì một điều cháu nói. Lúc đó cháu đã hỏi, ‘Nếu ông đến nói với mẹ rằng Sophie giúp cho con chó của ông bình tĩnh thì sao? Liệu mẹ có bán Sophie cho ông không?’ Mẹ đã tức giận vì nghĩ rằng cháu so sánh em gái với tụi chó. Nhưng cháu đâu có ý đó. Cháu đã so sánh con chó của ông với em gái của một nhân vật hư cấu cơ mà. Nhưng, nói chung là mẹ không thích cháu giận dỗi mẹ. Nên chắc mẹ cháu sẽ không làm vậy nữa đâu ạ.”

“Cháu thực sự đã nói vậy với mẹ cháu à?” “Vâng ạ.”

Trong một vài tích tắc thôi, ánh mắt ông thay đổi. Kiểu như… ông kính trọng tôi hay gì đó. Tôi biết điều đó nghe thật điên rồ. Nhưng trong một chớp nhoáng, tôi đã thấy vẻ tôn trọng đó trong mắt ông. Nhưng sau đó ông trở lại bình thường.

“Ta thực sự thích cách cháu nhìn nhận mọi việc. Nhưng…”

“Ông chỉ muốn được ở một mình.” “Phải.”

“Được ạ. Cháu có thể làm vậy.”

“Ta biết cháu nghĩ ta là ông già cáu kỉnh nhất quả đất. Hầu hết mọi người đều nghĩ vậy, nhưng thực ra ta không phải người như vậy. Nói chung ta không cố tình cáu kỉnh với người khác. Ta chỉ…”

“Muốn ở một mình.” “Ừ.”

“Vâng,” tôi nói. “Không sao ạ.”

Ông lại quay vào nhà. Tôi nhìn theo bóng lưng ông đi lên bậc thềm. Tôi cảm giác ông giả vờ đi vào nhà thôi, vì ông không dắt Rigby theo. Tôi không nghĩ ông sẽ vào nhà mà không có Rigby. Tôi nghĩ ông có thể để nó ở lại ngoài sân một mình, nhưng bình thường ông sẽ nán lại chờ tới khi nó hoàn thành mọi thủ tục. Nhưng nãy giờ, Rigby chỉ vẫy đuôi mừng tôi đằng sau hàng rào thôi.

“Mẹ cháu có ý tốt mà,” tôi nói. Ông quay ngoắt người.

“Ai cơ? Mẹ hay em gái cháu?”

“Cả hai ạ, cháu nghĩ vậy. Nhưng cháu vừa nói là mẹ cháu. Mẹ cháu chỉ cố gắng làm người tốt thôi ạ. Ông biết đấy? Mẹ đang cố gắng hết sức đấy ạ.”

Chúng tôi lại im lặng hồi lâu.

Sau đó ông nói, “Đường tới địa ngục được lát bằng thiện tâm”.

“Cháu không hiểu câu đó đâu ạ.”

“Nghĩa là khi những người như mẹ cháu cố gắng làm người tốt, thì họ sẽ khiến người khác tổn thương rất nhiều.”

“Và những người như ông cũng khiến người khác tổn thương rất nhiều khi ông không cố gắng đối tốt với họ.”

Tôi có cảm giác châm chích trong lòng khi ngóng chờ câu trả lời từ ông. Tôi không quen chỉ trích người lớn. Nhưng “người lớn” này có vẻ không giống như những người khác. Tôi cảm thấy ông Paul có vẻ là dạng hiếm có khó tìm. Tôi càng nói thẳng nói thật bao nhiêu, thì ông sẽ càng ngưỡng mộ tôi bấy nhiêu.

“Lập luận của cháu không tồi,” ông nói. “Nhưng…” “Ông chỉ muốn được ở một mình.”

“Ừ.”

Rồi ông vào nhà. Còn Rigby vẫn ở lại ngoài sân.

Đó là cuộc đối thoại cuối cùng của tôi và ông Paul Inverness trong vòng ba tuần liền. Vào thời điểm đó, nếu như có ai hỏi, thì tôi sẽ trả lời rằng có lẽ đó là cuộc đối thoại cuối cùng của hai chúng tôi. Trong cả cuộc đời mình, cả trước và sau cuộc nói chuyện đó, tôi chưa từng nghĩ sẽ có ngày mình nhầm to đến vậy.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 21
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 21
  • Sau