T
ới năm bảy tuổi, tôi đã sở hữu tận hai mươi hai bộ bài. Những hai mươi hai bộ cơ đấy. Tôi thậm chí còn chẳng bao giờ chơi bài ấy chứ. Mấy trò bài bạc chán òm.
Tôi dùng mấy lá bài đó để xếp nhà.
Mọi chuyện bắt đầu từ ngôi nhà thẻ bài đầu tiên ba dạy tôi xếp, ngay trước khi ba cho tay vào túi áo lục tìm thuốc lá. Nhưng trong túi áo ba chẳng còn lại điếu nào, thế nên ba đành tới cửa hàng tạp hóa góc phố mua thuốc, rồi bị bọn cướp giết chết ngay tại đó. Khi ấy tôi mới sáu tuổi. Bọn chúng giết ba để lấy chiếc đồng hồ đeo tay, ví tiền và nhẫn cưới của ông. Dù chiếc đồng hồ Timex ba đeo chỉ là loại rẻ tiền, chiếc nhẫn bạc mỏng tang cũng chẳng có giá trị gì cả. Thậm chí ba còn chẳng mang theo nhiều tiền, bởi trước giờ ông làm gì có nhiều tiền đâu.
Sau khi đã xếp nhà thuần thục, tôi tiếp tục xếp những công trình khác bằng thẻ bài: khu chung cư, khu phức hợp, nông trại, cung điện,… Tôi tốn rất nhiều công sức cho những công trình đó, dù đến cuối cùng chúng đều sụp đổ hết. Nhưng mọi thứ trên đời này đều như vậy mà. Phải không?
Giống như ba tôi ấy. Lúc đó ba đang dạy tôi rằng khoảnh khắc tuyệt vời nhất chính là khi tòa nhà dần cao lên. Đó là khi bạn đã xây được khoảng ba hay bốn tầng nhà, và mỗi lần xếp thêm bài đều khiến bạn nín thở. Bạn phải hết sức kiên nhẫn. Bạn nghĩ, công trình của mình chắc chắn sẽ sụp đổ mất thôi, nhưng hóa ra không phải. Cảm giác nín thở chờ đợi ấy thật kì lạ, giống như thời gian ngưng lại vậy. Và khoảnh khắc ấy chính là lí do khiến tôi xếp tiếp những lá bài chết tiệt đó.
“Ba thú thực với con điều này nhé, Angie,” ba tôi nói. “Khoảnh khắc chờ đợi ấy khiến con bạc trong ba bừng tỉnh.”
Nhưng ba chẳng cần khoảnh khắc nào cả. Ba tôi là một con bạc, và máu cờ bạc trong ba chẳng khi nào ngừng sôi sục.
Ngay lúc đó, ba cho tay vào túi áo.
Bây giờ tôi chẳng còn bộ bài nào nữa. Tôi đã vứt hết thẻ bài từ khi em gái Sophie của tôi lọt lòng mẹ. À, nói vậy thì không chính xác lắm. Vì… bạn biết đấy, khi còn nhỏ em ở trong cũi suốt mà. Thậm chí tới khi con bé bắt đầu biết bò thì mọi chuyện dường như vẫn ổn thỏa. Nhưng một thời gian sau, chúng tôi dần phát hiện ra con bé có vấn đề. Mẹ và tôi cũng chẳng nhớ rõ con bé bắt đầu có biểu hiện bất ổn từ khi nào nữa, có lẽ là từ rất rất lâu trước khi chúng tôi chính thức nhận ra.
Vậy nên sau đó, tôi chẳng dại gì để những đồ vật dễ vỡ, dễ hỏng trong nhà nữa.
Dù sao thì cũng có khác gì đâu? Giờ tôi đã mười bốn tuổi, và cả cuộc đời tôi giống hệt như một ngôi nhà thẻ bài. Tôi xếp bài. Rồi chờ đợi. Sau đó tiếp tục hít thở, hoặc không.
Tôi thích xếp nhà bằng bài thật hơn. Chỉ cần dùng tay quơ một phát là đã có thể xếp lại từ đầu. Rõ ràng là mọi vấn đề đều dễ giải quyết hơn chính cuộc đời chết giẫm của chúng ta!
Hôm đó là ngày đầu tiên ba mẹ con tôi dọn đến nhà Dì Violet1, và khi tỉnh giấc tôi đã tự hỏi, liệu đây có phải là ngày cuối cùng luôn không? Dì có thể đuổi mẹ con tôi ra khỏi nhà bất cứ lúc nào mà. Bạn cứ nghĩ mình phải đoán trước được chứ, nhưng hóa ra chẳng phải vậy đâu.
1 Nguyên văn: Aunt Violet. Nhân vật này là dì của ba Angie, tức bà trẻ của cô bé. Tuy nhiên Angie lại bắt chước mẹ mình, xưng hô Dì - cháu với bà Violet.
Vả chăng tình hình ngày hôm đó cũng không khả quan cho lắm.
Hôm đó là thứ Sáu, ngày mà đáng lẽ ra tôi phải tới trường. Nhưng do chuyển nhà nên tôi cần đăng ký học ở trường mới. Mẹ bảo để thứ Hai mẹ làm thủ tục nhập học cho tôi cũng được, thực ra ý mẹ là cần tôi trông nom Sophie trong lúc bà ra ngoài tìm việc.
Dì Vi, Sophie và tôi ăn sáng bằng bánh quế nướng trên chiếc bàn Formica cũ. Sophie đang dán mắt vào những đốm kim tuyến nhỏ trông như những vì sao nhân tạo lấp lánh trên mặt bàn. Tay trái con bé cầm bánh, còn ngón trỏ của bàn tay phải liên tục chấm chấm lên những đốm lấp lánh kia. Mỗi lần như thế, em lại khẽ lầm bầm vài tiếng.
Tóc con bé cần được chải lại. Lẽ ra tôi nên chải tóc cho em, nhưng tôi lại cố tình lờ đi. Tôi viện cớ do mẹ không dặn tôi phải làm. Nhưng lý do thật sự là vì việc đó khó chịu kinh khủng.
Ánh mắt Dì Vi nhìn Sophie khiến tôi thấy khó thở.
Dì Vi không phải dì ruột của chúng tôi. Trước hết, bà ấy là dì của mẹ tôi, lẽ ra chúng tôi phải gọi là “bà trẻ”. Mà thực ra bà cũng chẳng có quan hệ máu mủ ruột già gì với mẹ tôi cả. Bà là dì ruột của ba tôi. Thế thì có thể coi bà là dì của mẹ tôi không nhỉ? Chắc là có, bởi tôi chẳng thấy ai xưng hô là “dì chồng” cả. Tôi không chắc lắm, nhưng cũng chẳng sao. Điều quan trọng mà tôi biết là: chúng tôi không phải ruột thịt. Điều đó càng giúp Dì dễ dàng tống cổ chúng tôi ra khỏi nhà hơn.
“Mẹ cháu đang tìm việc gì vậy?” Dì Vi hỏi. Dì vẫn nhìn chằm chằm vào Sophie nãy giờ, nên tôi cảm giác câu hỏi vừa rồi giống như dành cho Sophie vậy. Nhưng tất nhiên đó là chuyện không tưởng rồi.
“Mẹ cháu muốn làm phục vụ bàn ở nhà hàng ạ,” tôi trả lời. Lúc này, tiếng lầm bầm của Sophie đã chuyển thành những tiếng ré nho nhỏ liên hồi đủ khiến chúng tôi nhức lỗ nhĩ. Tôi thấy Dì Vi cau mày sau mỗi lần con bé ré lên. Trò chơi chấm đốm lấp lánh của em dần chuyển thành la hét và quẫy đạp. Tôi cố nói to hơn để Dì nghe thấy, “bởi có thể nhận được khá nhiều tiền boa từ chỗ đó. Và cháu có thể trông nom Sophie khi mẹ…”.
“Cháu không làm gì để con bé ngừng hét được à?” Dì Vi đột nhiên rít lên. Giọng Dì hơi chói quá mức bình thường, và có vẻ khá tuyệt vọng. Hình như lúc nào Dì cũng chực vỡ òa.
Tôi đã có linh cảm từ trước rằng điều này sẽ xảy ra. Nhưng tôi vẫn nửa tin nửa ngờ, trong lòng luôn tự nhủ chắc mọi chuyện không đến nỗi tệ như mình nghĩ đâu. Bác Charlie2 vừa qua đời vài tháng trước, và Dì Violet đang rất nhạy cảm.
2 Nguyên văn: Uncle Charlie. Cách xưng hô tương tự như Dì Violet.
Chúng tôi im lặng. Khá kì lạ, nhưng cũng không hẳn là im lặng, vì Sophie vẫn đang gào thét mà. Chỉ có Dì Vi và tôi khựng lại trong giây lát và chẳng nói năng gì với nhau. Có thể bạn sẽ thắc mắc, tại sao ngồi cạnh Sophie đang gào thét mà tôi vẫn cảm thấy im ắng? Nhưng tôi đã thực sự thấy như thế thật đấy.
Xếp bài.
“Không, thưa Dì. Cháu không nghĩ là có thể làm em ngừng hét đâu ạ.”
Chờ đợi.
Dì Vi thở dài.
Rồi hít thở.
“Chỉ là… ta nghĩ mình hơi mất kiểm soát sau khi Charlie mất. Cứ như bị ốm ấy. Cháu tưởng mình có thể gượng dậy làm lụng mọi thứ, nhưng thực sự thì vẫn còn yếu ớt lắm. Chắc cháu cũng biết cảm giác khi bị ốm và chẳng thể chịu đựng nổi thứ gì mà, phải không? Cháu chẳng thể làm gì, ngoài việc tiếp tục ốm yếu vậy thôi.”
Tôi hiểu điều Dì muốn nói, dù có thể tôi đã hiểu sai ý nghĩa của từ chịu đựng, hoặc Dì dùng từ đó sai ngữ cảnh.
“Cháu rất tiếc về chuyện Bác Charlie. Bác ấy tốt bụng lắm, cháu cũng rất quý Bác ấy.”
Trong một tích tắc, khuôn mặt Dì Vi chợt đông cứng lại. Sau đó Dì bật khóc. Tôi cảm thấy vô cùng tồi tệ khi lỡ miệng thốt ra điều mình không nên nói.
Dì đứng bật dậy. Tôi chưa từng nghĩ rằng một người già có thể di chuyển nhanh đến thế.
“Ta phải đi nằm một chút đây.” Dì nói.
Hẳn là thế, chúng ta vừa ngủ dậy mà Dì. Nhưng tôi không nói ra.
“Dì có muốn bịt tai lại không ạ?”
Tôi lấy hai chiếc nút tai từ trong túi áo, sau đó chìa tay về phía Dì. Những chiếc nút hình viên đạn có màu xanh đậm lấp lánh. Mà chúng không phải loại nút tai cao su đâu nhé. Mấy chiếc nút cao su hầu như chẳng có tác dụng gì. À, thực ra chỉ là chúng không đủ sức ngăn tiếng hét của Sophie thôi. Loại bịt tai tôi dùng được làm từ sáp ong và sợi gì đó. Tôi chìa mấy chiếc nút tai về phía tấm lưng của Dì Vi, vì Dì đang rảo bước rất nhanh.
Dì đứng sững chỗ cửa bếp và quay người lại. Trên chiếc áo choàng Dì mặc điểm xuyết hàng trăm bông hoa nhí màu hồng. Có lẽ hồi trước mấy bông hoa đó đẹp hơn nhiều, nhưng bây giờ màu hồng của chúng đang dần phai đi, gần như không nhìn thấy được nữa. Dì bám chặt vào thành cửa, cứ như thể căn nhà vừa mới va phải tảng băng trôi vậy.
Dì luôn trang điểm, ngay cả khi Dì mặc chiếc áo cũ mèm, xấu tệ ấy. Tôi tự hỏi liệu Dì nghĩ ai sẽ để ý hay quan tâm tới lớp trang điểm đó chứ. À... Thì có tôi để ý mà nhỉ. Tôi chỉ thắc mắc liệu có ai quan tâm không thôi.
Tôi vẫn đứng đó, tay giơ ra phía trước. Hệt như một con ngốc. Tôi chỉ vào mấy chiếc nút tai. Trông chúng thoải mái, đáng tin vậy mà. Chúng chính là cứu tinh đấy. Chẳng lẽ Dì không thấy vậy sao?
“Ta chỉ định ngả lưng chút thôi,” Dì lắc đầu quả quyết.
“Đừng, Dì đợi cháu chút. Dì đừng đi! Chúng cháu sẽ ra ngoài.”
Dì níu chặt thành cửa. Có lẽ Dì đang chờ xem tôi sẽ lôi Sophie ra ngoài bằng cách nào.
Tôi nhồi hai miếng bánh quế còn lại vào miệng, rồi bỏ đĩa vào chậu rửa bát. Sau đó tôi lẻn ra phía sau lưng Sophie và giật phắt nửa miếng bánh quế đã khô khỏi tay con bé.
Sophie rít lên.
Tôi giơ miếng bánh lên cao, giống như người ta treo củ cà rốt ở đầu cây gậy để bẫy thỏ ấy. Miếng bánh chỉ ở ngoài tầm với của con bé một chút. Tôi biết em sẽ đuổi theo miếng bánh ra cửa sau.
“Chị sẽ trả bánh cho em sau khi chúng ta ra ngoài.”
Tôi không biết liệu Sophie có hiểu những gì tôi nói hay con bé có làm theo không nữa. Tôi cố tình nói to cho Dì Vi nghe thấy thôi. Để Dì hiểu rằng tôi không vô cớ bắt nạt Sophie. Nhưng rất có thể Dì chẳng thèm bận tâm ấy chứ. Chắc chỉ có mình tôi quan tâm đến chuyện này thôi.
Tôi chạm ánh mắt Dì Vi khi tôi và Sophie đâm sầm vào cửa sau - đúng theo nghĩa đen luôn. Tôi nhìn Dì chằm chằm, dù chẳng hề cố ý.
Chờ đợi.
“Cháu không hiểu cảm giác đó đâu,” Dì nói. “Cháu không biết mọi thứ khó khăn nhường nào khi ta mất đi người thân đâu.”
Mặt tôi nóng bừng. Đó là chuyện thường tình mỗi khi tôi tức giận. Tôi rất dễ nổi nóng, nhưng không tỏ thái độ gì cả.
Tôi không có thói quen xả cơn giận dữ. Nếu tức giận thì có thể tôi sẽ khóc, và nếu tôi trở thành một kẻ khóc lóc thì thật không hay chút nào. Nước mắt khiến mọi chuyện hỏng bét. Thế nên tôi thường im lặng.
Sophie không ngừng huých vào mạng sườn tôi. Có lẽ con bé đang tìm cách ép tôi trả lại miếng bánh. Đau muốn chết, nhưng tôi đang mải nghĩ chuyện khác.
Dì Vi thật xấu tính khi nói ra những lời đó. Dì thật ích kỷ. Bạn hiểu không?
Tôi dụ Sophie ra khỏi bếp, đến hiên sau, rồi sập cửa thật mạnh sau lưng.
Rồi trả con bé miếng bánh quế. Nhưng tôi chẳng thở lấy một hơi nào. Đại loại thế.
Dưới ánh nắng chói chang, tôi ngả lưng lên chiếc ghế nhựa trắng trên thảm cỏ. Xung quanh chỗ đó lốm đốm những vệt cỏ vàng, đó là những chỗ cô chó của Dì Vi từng “đánh dấu lãnh thổ”. Cô chó đó cũng chẳng còn nữa, nó ra đi trước Bác Charlie hai tuần. Đó cũng là một trong những nguyên do khiến Dì Vi trở nên nhạy cảm đến vậy. Hồi trước tôi cũng quý nó lắm. Tên nó là Beulah, nó là một cô chó săn lùn3, thừa cân và mắc bệnh viêm khớp. Tuy hay chảy dãi lòng thòng, nhưng bù lại, nó rất ngoan.
3 Nguyên văn: basset hound, chó săn chân lùn, một loài chó săn có nguồn gốc từ nước Pháp.
Sophie không thích Beulah. Em ấy chưa bao giờ thích bất kỳ con chó hay mèo nào cả. Thật đấy, bạn phải căng mắt ra trông chừng khi con bé ở gần tụi chó mèo, bởi em sẽ cố đấm đá chúng bằng được - kể cả khi chúng chẳng làm gì nên tội. Có lần Sophie định cắn một chú chó bên ngoài siêu thị, và vì con chó còn chẳng buồn tự vệ, nên tôi đành xông ra can thiệp. Cuối cùng tôi lại là người bị cắn.
Tôi ngước mắt xem tại sao đột nhiên Sophie yên lặng vậy. Con bé đang nằm sấp trên thảm cỏ trước hàng rào lưới ở góc sân. Trông tướng em nằm trên cỏ giống hệt như một chú chó. Giống tư thế phủ phục kiểu tượng Nhân sư ấy. Cằm em đặt lên mu bàn tay, như thể đó là chân chó. Còn mũi thì gí sát hàng rào. Ở phía bên kia hàng rào là chú chó to nhất tôi từng thấy trong đời. Đó là một chú chó Great Dane4 có bộ lông đen tuyền, và đôi tai được cắt dựng đứng. Tôi nghĩ họ không nên làm thế với loài chó, nhưng nói chung hiện tại điều này không quan trọng lắm. Tôi đoán chú chó này chắc phải nặng tầm 200 pound5. Dáng nằm của nó giống y hệt Sophie, và mũi nó chỉ cách mũi con bé khoảng 4 inch6 thôi. Toàn thân nó phủ lông đen tuyền, trừ chỗ mõm lốm đốm lông bạc.
4 Một giống chó Đức.
5 Tương đương 90 kilogram.
6 Tương đương 10 centimet.
Tôi ngồi thẳng dậy. “Hừmmm,” tôi nói to, mặc dù ngoài tôi ra thì chẳng có ai quanh đây nghe tiếng tôi cả. Rồi tôi nói to, “Sophie, em tránh xa con chó ra đi” vì tôi nghĩ có thể con bé sẽ khiến chú chó tội nghiệp hiểu nhầm.
Nhưng… như tôi đã nói từ trước, tôi không biết con bé có nghe lời tôi không. Có khi em vẫn nghe thấy, chỉ là em không quan tâm thôi. Hoặc con bé chẳng hiểu được để mà quan tâm, tôi nghĩ mình cũng nên tính đến khả năng này.
Tôi nhẩm tính một lúc. Đằng nào Sophie cũng chẳng thể vượt qua hàng rào - dù em ở ngay sát đó. Con chó cũng đâu có bị xích. Chắc chắn nó sẽ biết cách chuồn thôi. Nó nặng gấp ba hay bốn lần Sophie cơ mà. Liệu tôi có thực sự sẵn lòng mạo hiểm tính mạng để chộp lấy con bé không? Tôi luôn chuẩn bị sẵn phương án cực-kì-khẩn-cấp, đó là lẻn ra đằng sau Sophie và trùm một chiếc chăn lên người con bé, giống như người ta dùng lưới bắt thú ấy. Nhưng tôi luôn cố gắng để không phải dùng đến chiêu khẩn cấp này. Vả lại, cứ mỗi lần mạo hiểm, tôi đều bị em đá rất đau.
Cuối cùng tôi quả quyết rằng con chó già to lớn đó có thể tự lo liệu cho bản thân. Chẳng qua có cái hàng rào nên tôi mới thấy an tâm thôi. Giả sử không có hàng rào đó, thì tôi cá là chú chó kia chẳng có cơ may nào thoát khỏi tay Sophie đâu.
Thi thoảng, tôi lại ngước mắt lên theo dõi tình hình. “Em không được làm nó đau đâu đấy.” Tôi nói. Có lẽ tôi phải nói câu đó tới bốn lần rồi.
Nhưng chẳng thứ gì di chuyển cả.
Tôi lại nghĩ đến chuyện chải đầu cho Sophie, nhưng tôi chẳng nỡ phá hỏng sự yên bình này. Nếu mẹ cắt tóc con bé ngắn như tôi, thì việc chải tóc cho em sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nhưng mẹ rất yêu mái tóc của Sophie, nên tôi cũng chẳng đành lòng trách bà. Tóc con bé màu nâu trầm gỗ gụ, khi ra ngoài nắng, mái tóc em còn điểm xuyết thêm cả ánh đỏ. Và em còn có những lọn tóc xoăn tự nhiên nữa. Sophie xinh hơn tôi rất nhiều. Mẹ luôn thao thao bất tuyệt về mái tóc và đôi mắt xanh đẹp tuyệt của em, như thể tôi chẳng hề tồn tại. Nhưng giờ mẹ cũng ít nói về đôi mắt xanh hơn, bởi từ nhiều năm nay đôi mắt ấy không còn nhìn chúng tôi nữa.
Tôi thở dài và cố gắng xua đi tất cả những suy nghĩ vẩn vơ đó.
Một lúc sau, tôi lại nghe thấy tiếng “còi báo động” khủng khiếp của Sophie vang lên. Mẹ tôi gọi đó là than khóc, nhưng trước đây tôi có nghe người khác than khóc rồi, và tôi phải thú thực rằng tiếng hét của Sophie kinh khủng hơn nhiều. Khi tôi nhổm dậy, con chó đã rời khỏi hàng rào để đi tới chỗ bát uống nước của nó. Nó ngẩng đầu lên nhìn tôi, và tôi cũng nhìn lại. Tôi thấy nước chảy ra từ hai bên khóe miệng nó.
Tôi đành thò tay vào túi áo, lôi mấy cái nút tai ra.
Tôi không muốn tỏ ra lạnh nhạt khi cứ thế đeo nút tai lên và mặc kệ cho Sophie tiếp tục rền rĩ. Nghe có vẻ như tôi không bận tâm đến việc em la hét. Nhưng sự thực không phải vậy. Tôi quan tâm đến con bé rất nhiều là đằng khác. Chỉ là tôi chẳng thể làm gì. Chẳng có thứ gì, hay người nào có thể khiến em ngừng hét. Bạn phải làm mọi cách để cố giữ cho bản thân tỉnh táo thôi.
Dì Violet lao ra từ phía cửa sau.
“Cháu phải làm sao cho con bé ngừng hét đi.” Dì nói. Nghe giọng Dì hình như còn tuyệt vọng hơn lúc trước, giống như giọt nước đã tràn ly vậy. Như thể Dì có thể phát nổ bất kì lúc nào, sau đó đám tro tàn của Dì sẽ vương vãi đầy trên đám cỏ kia. “Ta không thể chịu được,” Dì Vi nói. “Ta chẳng mạnh mẽ đâu. Ta cũng nói vậy với mẹ cháu rồi. Không có Charlie, ta thấy mình như đánh mất bản thân vậy. Ta không có nhiều…”
Dì cố tìm từ để nói nốt câu, còn tôi nhìn vào cặp lông mày của Dì. Tôi luôn lén liếc nhìn chúng mỗi khi tôi nghĩ Dì không phát hiện ra. Hình như Dì chẳng có sợi lông mày nào, nên Dì đã vẽ lên đó đôi lông mày màu nâu nhạt kì quặc, cao tớn ngay giữa trán. Trông Dì lúc nào cũng như đang sửng sốt với cặp lông mày vẽ đó. Chúng không phải thứ tôi nên nghĩ đến trong hoàn cảnh này. Chỉ là… khi mọi chuyện trở nên tồi tệ, thi thoảng não tôi lại trôi dạt đi tận đẩu đâu ấy...
Ngay khi tôi định mở miệng thông báo tin buồn - mà đáng lẽ Dì nên biết rõ từ lâu rồi mới phải - rằng tôi không thể ngăn Sophie khi con bé bắt đầu la hét, rằng chẳng có ai, hay cái gì có thể ngăn cản con bé - thì con chó quay về phía hàng rào. Tôi loáng thoáng thấy bóng nó.
Giống như những hồi còi báo hiệu, tiếng hét của Sophie giảm dần rồi tắt ngúm.
“Lạy Chúa!” Dì Vi nói. “Cảm ơn Người vì nó đã ngừng hét.” Dì Vi quay sang nhìn tôi, đôi lông mày tự vẽ của Dì chùng xuống hết mức có thể, nhưng trông chúng vẫn cao hơn bình thường. “Có phải cháu giận vì mấy lời ta nói lúc nãy không?”
Hình như Dì đã dành từng ấy thời gian nằm suy nghĩ, nhưng Dì vẫn chưa hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra.
Mặt tôi lại nóng bừng.
“Cháu nghĩ lời Dì nói vừa nãy hơi ích kỷ,” tôi nói, và mặt tôi nóng phừng phừng vì đã phải lấy hết can đảm nói ra điều đó. Tôi cố gắng dằn nước mắt lại.
Dì Vi ngạc nhiên, “Thế ta đã nói cái gì nào?”. Như thể tôi đã sai, và thực sự thì chẳng có chuyện gì to tát cả.
“Rằng cháu không hiểu cảm giác mất đi người thân.”
Dì ngây người một chút và nhìn tôi chằm chằm. Thực ra cũng chẳng đến một phút, chỉ mất vài giây thôi. Sau đó mắt Dì mở to, và Dì đưa bàn tay lên che miệng. Sau đó Dì tiến tới chỗ tôi, khiến tôi sợ chết khiếp. Tôi cứ tưởng Dì định tấn công mình, nên định hét lên hoặc chạy đi. Hoặc làm bất cứ điều gì để trốn thoát.
Nhưng mọi chuyện xảy ra quá nhanh.
Điều tiếp theo tôi nhớ được là Dì Vi đang siết chặt tôi trong vòng tay Dì. Người tôi tì vào chiếc bụng lớn của Dì, bụng Dì êm hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi. Dì kéo tôi lại gần và ôm chặt tới mức tôi gần như không thở được.
“Cháu à,” Dì Vi cúi xuống sát tai tôi và nói. “Ta thực lòng xin lỗi. Ta quên mất. Ta đã quên mất chuyện của…”
Dì làm ơn đừng nói ra điều đó, tôi thầm nghĩ.
”… ba cháu. Ôi, lí do ba cháu qua đời cũng thật tệ quá. Và quá đột ngột nữa chứ. Cháu nói đúng, ta thật ích kỷ. Cháu thấy không, ta đã nói ta đánh mất bản thân rồi mà.”
Dì kéo đầu tôi ra khỏi cơ thể êm ái của mình, hai tay Dì đặt lên hai thái dương tôi. Khi đó tôi đã hít một hơi thật sâu, có lẽ đủ cho cả mười nhịp thở luôn ấy.
”Cháu sẽ tha thứ cho ta chứ?”
”Vâng, thưa Dì,” tôi nói. Tôi chỉ nhắc lại những gì Dì nói thôi. Chẳng phải tôi tha thứ, nhưng cũng không phải là còn để bụng. Tôi còn chẳng thèm bỏ công suy nghĩ xem điều mình vừa nói nghĩa là gì nữa.
“Ôi trời!“ Dì thốt lên, mà chẳng thèm giải thích mình vừa ôi trời về cái gì.
Dì lại trở vào nhà, theo sau là tiếng cánh cửa kêu “rầm” một tiếng rõ to. Tôi lại nhìn về phía Sophie. Con bé và chú chó hàng xóm lại nằm giống nhau như hai hình ảnh phản chiếu qua một chiếc gương vậy.
Tôi hít thở. Mặc dù chuyện đó chẳng kéo dài lâu.
Bạn thấy đó, mọi chuyện lúc nào cũng vậy. Trong khi bạn đang thở phào sung sướng rằng ngôi nhà thẻ bài của bạn chẳng hề hấn gì, thì bạn biết mình lại chuẩn bị xếp một lá bài khác lên. Đây chẳng phải chuyện được mất. Vấn đề không phải bạn giành được gì, mà là phải cố gắng để giữ mọi thứ không sụp đổ trong thời điểm hiện tại.
Tôi đứng dậy và đi về phía hàng rào, cỏ mọc dài khiến mấy ngón chân tôi hơi nhồn nhột và buồn cười. Tôi nghĩ có lẽ mình nên cắt cỏ cho Dì Violet, cũng nên thử làm chuyện gì ý nghĩa khi chúng tôi tá túc nhờ nhà Dì.
Tôi đến đứng bên Sophie.
“Chuyện gì thế này, hả Sophie?”, tôi hỏi con bé. “Em có bao giờ thích chó đâu hả?”
“Chu.” Con bé nói.
Điều này thực sự… Tôi không biết phải diễn tả thế nào nữa... Một từ phát ra từ miệng Sophie giống như là… phải đánh dấu ngày hôm nay lại ngay.
“Thật không thể tin được.”
Sau đó tôi nhận ra ngày hôm ấy là ngày bình yên và tuyệt vời nhất của tôi và Sophie trong nhiều năm qua. Tại sao tôi lại muốn em từ bỏ điều đó chứ?
Bất kể “điều đó” là gì chăng nữa.
Ngày tuyệt vời của tôi chỉ kéo dài đến đúng năm giờ hai mươi lăm phút, sau đó thì tôi phải trả giá đắt gấp đôi cho sự yên bình và tĩnh lặng vừa rồi. Tôi tình cờ biết được giờ giấc khi quay vào bếp xem đồng hồ. Khi ấy tôi đã nghĩ, chắc mẹ sắp về tới nhà rồi. Tôi chẳng biết liệu mẹ về muộn có nghĩa là tốt hay không nữa.
Ngay khi tôi trở lại hiên sau, chú chó đột nhiên nhổm dậy. Nó vẫn đứng gần hàng rào, nhưng mắt lại hướng ra ngoài đường. Sophie cũng đứng dậy.
Tôi chẳng nghe thấy gì, nhưng tôi chắc chắn “kì nghỉ” yên bình này sắp sửa kết thúc. Tôi cũng không chắc nó sẽ kéo dài bao lâu, hay tại sao mình lại kì vọng đến thế.
Rồi tôi nghe tiếng sập cửa ô tô, có vẻ như vọng lại từ rất xa. Thế nhưng, chú chó bắt đầu ngúc ngoắc chiếc đuôi to đùng và mạnh mẽ của mình. Nó vẫn đứng gần Sophie ngay chỗ hàng rào, nên mỗi lần vẫy, chiếc đuôi đều đập vào mấy mắt lưới, khiến cả hàng rào rung lên như tiếng chuông lạc điệu. Sophie bắt đầu nhảy nhoi nhoi đầy phấn khích. Tôi thấy điều này rất thú vị. Ý tôi là, rõ ràng con bé đang bắt chước chú chó kia, nên tôi đã nghĩ con bé sẽ lúc lắc mông hay gì đó. Nhưng thay vào đó, con bé lại nhảy lên nhảy xuống để tỏ ra mình đang phấn khích. Vậy nên tôi nghĩ em chỉ đang bắt chước nội tâm và suy nghĩ của con chó, chứ không phải hành động của nó. Điều này gần giống như việc con người hiểu được cảm nhận của người khác, mà các bác sĩ tâm lý gọi là cảm thông. Trước đây chúng tôi chưa từng nghĩ rằng Sophie có thể làm được điều này.
Khoảng một phút sau, cánh cửa ngách nhà kế bên bật mở, tôi thấy một người đàn ông đứng đó. Ông có vẻ khá kinh ngạc khi nhìn thấy tôi. Điều đó khá kì cục, bởi tôi đang đứng trong sân nhà Dì Violet, chứ đâu phải sân nhà ông ấy, và tôi không hiểu tại sao ông lại nhìn tôi như thể tôi vừa đột nhập vào phòng khách nhà ông vậy. Chúng tôi nhìn nhau trong giây lát, sau đó tôi phải đổi hướng nhìn đi nơi khác.
Ông ấy khá già rồi, nhưng không phải kiểu già lụ khụ và chống gậy đâu. Dáng người ông cao, mảnh khảnh và trông có vẻ khỏe mạnh. Nhưng tóc ông đã bạc gần hết, và do bộ râu ngắn kiểu bóng đổ năm giờ7 nên tôi biết nếu ông định nuôi thì bộ râu dài của ông cũng sẽ bạc trắng. Ông mặc một bộ vest màu xám lịch lãm, cùng chiếc áo sơ mi lam nhạt và cà-vạt kẻ sọc xanh đen vừa được nới lỏng. Ông đã kéo chiếc cà-vạt ra và không cài khuy cổ trên cùng, tôi đoán ông làm thế cho dễ thở.
7 Five o’clock shadow: một kiểu râu ngắn.
Ông lại nhìn tôi chằm chằm một lúc nữa, sau đó ánh nhìn của ông hướng về phía chú chó. Ông khá bối rối, và tôi có thể hiểu được suy nghĩ của ông từ nét mặt đó, rằng thật kì lạ khi chú chó của ông vẫn đứng bên hàng rào. Bây giờ nó đang rối rít vẫy và đập đuôi lia lịa vào hàng rào, nhưng tôi biết như vậy thì chưa đủ.
“Rigby,” ông nói.
Thực sự ông chẳng hề hét to hay gọi chú chó về. Ông chỉ nói ra từ đó hết sức bình thường và nhẹ nhàng thôi.
Tiếng gọi đó như một câu thần chú, chú chó liền chạy tới ngồi ngay ngắn trước mặt người chủ của mình và tiếp tục vẫy đuôi. Khi ngồi, nó có thể rướn mũi tới gần khuôn mặt ông chủ, nó thực sự to lớn đến vậy đó.
Và quả nhiên, lúc này, Sophie lại bắt đầu rền rĩ.
Người đàn ông nhìn quanh, nhưng ông lại không nhìn về phía chúng tôi. Tôi không nghĩ khi đó ông nhận ra Sophie. Nếu nhận ra thì ông đã chẳng phải tìm kiếm xung quanh làm gì. Tôi nghĩ ông không thể tưởng tượng rằng một âm thanh kinh khủng đến vậy lại có thể phát ra từ con người bé nhỏ nhường kia. Hầu hết mọi người đều như ông, họ không thể nhận ra ngay. Ông nhìn xung quanh một chút nữa, có lẽ ông đang chờ đợi một chiếc xe cứu thương hay xe cứu hỏa đi ngang qua. Ông thậm chí còn ngước mắt lên nhìn trời, để xem có thứ gì bay qua không, dù tôi còn chẳng biết đó có thể là thứ gì nữa. Sau đó ông cúi xuống, và ánh mắt ông ngừng lại ở chỗ Sophie.
Chờ đợi.
Tôi thấy ông hơi nhăn mặt. Kiểu như, nếu đây không phải tiếng người, mà là tiếng của đồ vật hay con vật nào đó thì ông ấy hoàn toàn có thể chịu đựng được. Mọi người đều như vậy. Nếu là tiếng kêu từ máy hay còi hụ thì họ đành chịu thôi, bởi họ chẳng thể can thiệp đến chúng. Nhưng một khi họ đã biết đó là Sophie, tất cả bọn họ đều muốn con bé ngừng hét ngay lập tức.
Khoảnh khắc đó kéo dài. Đủ dài để khiến tôi thấy xấu hổ. Sau đó ông quay vào nhà, còn Rigby đi sát phía sau ông. Đuôi nó vẫn tiếp tục ve vẩy. Sau đó, cánh cửa ngách đóng sầm lại.
Tôi cũng đứng dậy. Tôi để Sophie ở lại ngoài sân một mình vài phút, để quay vào nhà giúp Dì Vi chống chọi với những hồi gào thét kinh khủng sắp tới. Thực ra con bé ở một mình ngoài đó cũng chẳng sao, vì đằng nào em cũng không định làm gì khác ngoài la hét. Chắc em sẽ tiếp tục rền rĩ như vậy đến… mãi mãi luôn.
Tôi thấy Dì Vi đang nằm trên giường với một chiếc gối lông trùm qua tai.
Tôi khẽ chạm vào vai khiến Dì giật nảy mình. Sau đó Dì ngồi thẳng dậy nhìn tôi, trong mắt Dì hiện lên ánh nhìn khổ sở cùng cực. Tôi thực sự thấy có lỗi với Dì. Nếu có nơi nào khác trên quả đất này chịu chứa chấp gia đình tôi, chắc chắn tôi sẽ mang Sophie đến đó để Dì được sống yên ổn một mình.
Tôi thò tay vào túi áo, lấy ra hai chiếc nút tai ra rồi đưa cho Dì.
“Chúng có tác dụng,” tôi nói. “Thật đấy ạ. Tuy chúng không thể chặn hết toàn bộ âm thanh, nhưng khi đeo chúng, Dì sẽ thấy dường như âm thanh vọng tới từ một nơi rất xa, và sau đó Dì sẽ không còn để ý đến nó nữa. Dì phải dùng mấy ngón tay nhào liên tục, cho tới khi chúng mềm ra. Sau đó Dì lại nặn chúng thành hình viên đạn, rồi nhét vào tai. Dì sẽ thấy ngạc nhiên khi thấy chúng hiệu quả đấy ạ.”
Dì nhận cặp nút tai từ trên tay tôi và nở nụ cười yếu ớt. “Cảm ơn cháu nhé!” Dì nói.
Sau đó tôi đứng dậy và bỏ ra ngoài, bởi tôi biết Dì thích gặm nhấm nỗi đau một mình hơn. Tôi cũng từng như thế, nên rất hiểu tâm trạng của Dì.
Tôi quay trở lại chiếc ghế tựa ngoài vườn gần chỗ Sophie, và tự nhào nặn mấy chiếc nút tai. Tôi vừa nhào xong một bên thì cánh cửa ngách nhà ông già hàng xóm lại bật mở. Tôi thấy ông ngó đầu ra ngoài. Ông nhìn tôi. Sau đó ông lại nhìn Sophie.
Khi tôi còn đang thắc mắc liệu ông sẽ đứng đó nhìn trong bao lâu thì ông tiến đến chỗ hàng rào, còn Rigby đi cạnh vẫn ve vẩy đuôi. Tiếng hét của Sophie giảm dần khi họ tiến lại gần chỗ hàng rào.
Ông ấy đã thay chiếc áo sơ mi khi nãy thành chiếc áo len màu đen, nhưng ông vẫn mặc chiếc quần âu đẹp đẽ đó. Và chân vẫn đi đôi giày da đen bóng loáng nữa.
Ông đứng đó nhìn Sophie, giờ đây con bé đã im lặng. Rigby tiến tới chỗ hàng rào và ngồi xuống, mũi nó lại hướng gần đến chỗ hàng rào, còn Sophie thì bám chặt mấy mắt lưới, cố gí sát mặt mình vào mặt chú chó.
Người đàn ông lại nhìn tôi, và tôi quay sang hướng khác. Tôi có cảm giác khó chịu khi thấy ánh mắt của ông. Tôi không thích ánh mắt đó, và không thể chịu đựng được lâu. Có gì đó hà khắc trong ánh nhìn của ông. Giống như ông đang tò mò muốn biết điều gì đó, và ông đang cố gắng moi được thông tin ấy từ tôi.
“Con bé ngừng hét rồi kìa,” ông ấy nói.
Giọng nói của ông giống y như những gì tôi tưởng tượng. Âm vực sắc bén. Lại vừa toát lên một chút cứng rắn, và có vẻ như đang chỉ trích tôi.
“Vâng, thưa ông. Em ấy đã ngừng hét rồi ạ.” “Con bé sẽ tiếp tục im lặng chứ?”
“Chỉ đến khi ông vào nhà thôi ạ.”
Tôi đứng dậy và đi về phía hàng rào, dù tôi không thực lòng muốn đi về phía đó cho lắm. Nhưng tôi không muốn Dì Vi biết chuyện chúng tôi vừa mới chuyển đến mà đã gặp rắc rối với hàng xóm của Dì.
Tôi lại lấy thêm hai chiếc nút tai nữa ra khỏi túi áo và đưa chúng về phía hàng rào. “Chúng có tác dụng đấy ạ,” tôi nói.
Ông nhìn chằm chằm vào chúng hồi lâu. Giống như ông đang tính toán. Nhưng có lẽ phép toán này vượt xa khả năng tính toán của ông rồi.
“Đây là nút tai,” tôi nói, cố gắng phá vỡ bầu không khí căng thẳng và bắt chuyện lại với ông.
“Ta biết chúng là gì.”
“Ông muốn biết lí do con bé la hét ạ?” “Cháu đoán đúng rồi đấy.”
“Con bé thích chú chó của ông.” Câu nói đó cứ lửng lơ như vậy một lúc, vì không ai trong chúng tôi biết nên nói gì tiếp. Tôi đoán nếu người ta không biết về Sophie thì câu nói này chẳng thể nào giải đáp tất cả nghi vấn của họ. “Em gái cháu đã ngồi cùng chú chó của ông cả ngày, và con bé thấy buồn khi nó phải vào nhà.”
“Cô chó,” ông nói. “Ồ, là con cái ạ.”
“Ừ. Rigby là giống cái.”
“Em gái cháu thấy buồn vì cô chó này phải vào nhà cùng ông.”
“Và con bé cứ la hét như vậy mỗi khi buồn sao?” “Thường là như vậy đó ạ.”
Sau đó, phản ứng trên khuôn mặt ông cũng giống y chang những người tôi từng gặp. Kiểu như, Sophie cần được dạy dỗ quy củ hơn. Con bé cần biết cách cư xử đúng mực hơn.
Điều đó khiến tôi tức giận, vì mọi người chẳng biết gì cả. Mọi người không nên phán xét con bé khi không biết gì về em. “Cháu nghĩ là cô chó của ông không thể nán lại ngoài sân thêm nữa, phải không ạ?”
Ông lườm tôi tóe lửa. Vẫn là ánh nhìn đó, nhưng lần này dành cho tôi. Kiểu như, tôi mới là người nên được dạy dỗ quy củ hơn. Kiểu như, tôi nên cư xử đúng mực hơn.
“Ta luôn làm việc chăm chỉ,” ông nói. “Mỗi ngày. Và ta ghét từng giây phút phải mài mặt ở chỗ làm. Tất cả những điều ta muốn làm vào cuối ngày là được trở về nhà gặp cô chó của mình, xem tin tức và ăn tối trong yên bình. Liệu như thế có phải là đòi hỏi quá nhiều không?”
“Không, thưa ông. Cháu không nghĩ vậy ạ.”
Câu trả lời còn hơn cả những gì ông ấy mong đợi. “Nhưng con bé sẽ lại rền rĩ ngay khi ta bước vào nhà.” “Đúng vậy, thưa ông. Thường là thế.”
“Và cháu không thể khiến con bé ngừng hét.”
“Vâng, thưa ông. Không một ai hay thứ gì có thể khiến em ấy ngừng hét ạ.”
“Vậy khi nào thì con bé tự giác ngưng hét?”
“Thông thường em sẽ mất giọng sau khi la hét liên tục trong vòng hai tiếng. Trong vài ngày sau đó, con bé chỉ có thể thầm thì và rên rỉ thôi ạ. Khi đó cháu và mẹ sẽ được thảnh thơi một chút.”
Ông nhìn vào mắt tôi một lúc. Có lẽ ông đang tuyệt vọng kiếm tìm lời đùa cợt trong những lời tôi vừa nói. Rồi ông ném cho Sophie một ánh nhìn cực kì khinh miệt. Như thể con bé là loài sinh vật sống hạ đẳng nhất trên quả đất này vậy. Tôi bắt đầu bốc hỏa, và tôi biết lần này mình cần nói gì đó. Có thể tôi sẽ bật khóc và khiến bản thân bẽ mặt trước ông ấy, nhưng tôi mặc kệ.
Tuy nhiên, trước khi tôi kịp mở miệng nói gì, ông đã quay lưng bước về phía cửa nhà. Và Sophie lại bắt đầu rền rĩ.
“Con bé không phải đứa hư hỏng,” tôi nói, thật to và rõ ràng để ông có thể nghe thấy giữa những tiếng thét gào của Sophie.
Nhưng ông không nghe thấy. Ông khum bàn tay lên sát vành tai, ra hiệu rằng mình không nghe thấy điều tôi vừa nói. Sau đó ông quay lại chỗ hàng rào, và Sophie hạ giọng. Trong lòng tôi chợt cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm khi em ngừng kêu la.
“Cháu vừa nói cái gì cơ?” Ông hỏi. Câu hỏi của ông khiến tôi càng thấy khó nói ra suy nghĩ của mình hơn.
Dù sao thì tôi vẫn nói.
“Em cháu không phải đứa hư hỏng.”
“Buồn cười thật đấy, vì con bé cư xử giống hệt một đứa trẻ hư mà.”
Tôi bắt đầu khóc, nhưng tôi cố gắng lờ đi. Thực tình, tôi vẫn để tâm đến mấy giọt nước mắt đó. Nhưng tôi không thể ngừng nói.
Tôi nhìn thẳng vào mắt ông, dù nước mắt có rơi hay không. “Cháu đã quá mệt mỏi khi người ta đối xử với em cháu như thể cháu và mẹ không biết dạy dỗ con bé. Mẹ đã nuôi dưỡng cháu, và cháu vẫn lớn lên bình thường. Nhưng Sophie thì khác. Não con bé không giống người thường. Con bé có biểu hiện gần giống chứng tự kỉ. Ý cháu là, hầu như tất cả biểu hiện của con bé khá giống chứng tự kỉ, nhưng có một số biểu hiện hơi khác. Người ta gọi đó là Phổ Tự kỉ8. Các bác sĩ vẫn chưa hiểu được hành vi của em cháu, nhưng con bé không thể cư xử như người thường, và gia đình cháu cũng chẳng có cách nào khiến con bé ngừng la hét. Còn ông, ông chẳng biết gì về chúng cháu cả. Vì vậy ông không nên phán xét khi ông chẳng biết gì về chúng cháu như thế.”
8 Nguyên văn: Autism Spectrum.
Bấy giờ những giọt nước mắt bắt đầu lã chã trên mặt tôi, và tôi chẳng thể nào kìm nén bản thân được nữa. Thật xấu hổ, nhưng tôi có thể làm gì đây? Tôi dùng mu bàn tay, cố gắng gạt nước mắt thật nhanh gọn và dứt khoát.
Ông chỉ đứng đó nhìn tôi thêm một lúc lâu nữa. À, thực ra chỉ một vài giây thôi. Nhưng tôi thì thấy mấy giây đó dài như mấy thế kỉ vậy.
“Cháu nói đúng,” ông nói. “Cho ta xin lỗi nhé.”
Sau đó ông ấy quay vào nhà. Cô chó của ông nán lại chỗ hàng rào gần Sophie một chút. Nhưng cuối cùng, khi ông quay lại nhìn nó, thì nó đã lựa chọn ông chủ của mình. Tôi nghĩ, có lẽ nhiệm vụ của nó là phải nghe lời chủ nhân. Thế nên tôi thấy thật kì lạ khi nó nán lại lâu như vậy.
Sophie lại bắt đầu rền rĩ.
Ông đứng sững ở hiên nhà, và lại ném ánh nhìn không hài lòng về phía tôi. Tôi hiểu rằng, tất cả mọi hy vọng về bữa tối và xem tin tức trong yên bình đều đã tuột khỏi tầm tay ông. Nét mặt của ông thể hiện rõ: Rằng ông chẳng thể thực hiện những việc thường ngày đó nữa. Rằng giờ đây, ngay cả giấc mơ giản đơn ấy cũng trở nên quá xa vời.
Tôi lại chìa mấy chiếc nút tai về phía ông.
Đầu tiên, ông ấy vẫn ngần ngừ đứng đó. Có lẽ ông nghĩ, nếu phải dùng tới cách này thì quá thảm hại. Nhưng một lát sau, ông quyết định đi tới chỗ hàng rào để lấy chúng. Và… điều này kì lạ thật, tôi thầm nghĩ… lần này cô chó chỉ ngồi yên trên bậc thềm chờ đợi ông. Có lẽ nó đủ thông minh để hiểu rằng việc tới chỗ hàng rào vài giây rồi quay lại chỉ khiến mọi chuyện càng thêm tồi tệ.
Tôi rướn mấy ngón tay mình qua hàng rào để thả hai chiếc nút tai màu xanh dương vào lòng bàn tay ông. Đôi bàn tay ông khá to nhưng nhẵn nhụi, như thể ông chưa bao giờ phải đào đất hay dựng hàng rào trong đời vậy. Có lẽ ông chưa từng làm mấy việc đó thật. Nhất là với bộ đồ lịch lãm đó.
“Cảm ơn cháu nhé,” ông ấy nói, gần như phải hét lên để tôi có thể nghe rõ tiếng ông giữa những hồi rền rĩ của Sophie.
Sau đó ông lắc đầu và quay vào nhà.
Tôi không đeo đồng hồ, nhưng tôi nghĩ Sophie la hét được thêm khoảng bốn mươi lăm phút thì cảnh sát xuất hiện. Tôi chẳng nghe thấy bất cứ tiếng động nào, dù là tiếng xe họ dừng hay đậu, hay tiếng họ gõ cửa, rung chuông nhà Dì Vi. Tất nhiên, tôi chẳng nghe thấy gì là phải thôi, bởi khi đó tôi đang đeo nút tai, và tôi vẫn đang ngồi ở sân sau cùng Sophie đang ra sức rền rĩ. Nếu có âm thanh nào lọt được vào tai tôi thì chắc chắn đó phải là tiếng thét của Sophie rồi. Tôi lúc đó còn đang mải suy nghĩ vẩn vơ, và đầu tôi thì đã lơ lửng trôi đi xa lắc, tới một nơi mà bây giờ tôi chẳng còn nhớ rõ nữa. Rồi tôi nhìn loáng thoáng thấy bóng người di chuyển, đó là Dì Vi đi cùng hai chú cảnh sát ra sân sau. À, thực ra một trong hai sĩ quan cảnh sát đó là nữ.
Chợt có cảm giác ớn lạnh sau gáy, tôi vội ngồi thẳng dậy và nhanh chóng rút hai chiếc nút tai ra.
“Có người đã báo cảnh sát về tiếng ồn,” Dì Vi cố gắng hét thật to giữa những tiếng rền rĩ của Sophie. Tôi chưa từng thấy Dì Vi hay người nào trông thảm hại và bẽ bàng đến thế.
“Cháu xin lỗi,” tôi hét lên. Tôi biết như vậy không đủ, nhưng tôi cũng chẳng còn cách nào khác để né đạn.
Hai sĩ quan cảnh sát nhìn Sophie, rồi họ lại quay sang nhìn nhau.
“Người hàng xóm nói với chúng tôi rằng đó có thể là tiếng kêu của một con vật đang đau đớn,” chú cảnh sát hét lên.
Thế là tôi lại nóng máu, bởi ông già chết tiệt nhà bên biết quá rõ đó chẳng phải con thú nào cả, và ông ta cũng biết quá rõ rằng chúng tôi không hề ngược đãi Sophie. Ông ta thật hèn hạ khi báo cảnh sát như thế, tôi nghĩ thầm.
“Các vị có thể thấy đấy, chúng tôi đâu có đánh đập con bé.” Dì Vi hét to.
Cô cảnh sát cũng hét lên, “Vừa nãy cháu nói con bé mắc chứng gì vậy?”.
“A.S.D.” Tôi đáp. Sau đó tôi phải nói lại to hơn để cô ấy nghe rõ.
“Và đó là…?”
“Rối loạn Phổ Tự kỷ.9”
9 Nguyên văn: Autism Spectrum Disorder.
“Vậy con bé mắc chứng tự kỷ sao?”
“Vâng, thưa cô. Nói chung là vậy ạ. Có rất nhiều dạng tự kỷ, và em gái cháu là một trong số đó. Con bé rất thích cô chó nhà hàng xóm, nhưng ông chủ của nó đã dẫn nó vào nhà, nên con bé đang rất buồn. Cháu vẫn đang cố gắng hết sức để làm con bé vui vẻ, cháu xin đảm bảo với cô điều đó.”
Hai cô chú cảnh sát lại nhìn nhau. Chắc hẳn họ đang giao tiếp qua ánh mắt. Tôi ở ngay đó, nhưng lại chẳng đọc được gì từ họ. Tuy nhiên tôi không hề thích cảm giác này.
“Cháu không có cách nào để cô bé ngừng hét sao?” Cô cảnh sát nói.
“Không, thưa cô. Cháu xin thề, cháu cũng đã thử hết cách rồi. Cháu xin lỗi ạ. Con bé chỉ ngừng hét khi kiệt sức thôi ạ.”
Họ lại nhìn nhau.
“Chí ít cháu có thể đưa con bé vào nhà chứ? Để mấy người hàng xóm còn nghỉ ngơi ấy?”
Tôi liếc nhanh về phía Dì Vi. Tôi cố tình đưa Sophie ra ngoài để đôi tai của Dì được nghỉ ngơi ấy chứ. Nhưng, Dì chẳng nói gì, chỉ hất đầu về phía ngôi nhà. Tôi hiểu ý Dì ngay, dù Dì chẳng nói lời nào. Vì Chúa, hãy đưa con bé vào nhà đi, Dì muốn nói với tôi như vậy.
Tôi đứng thẳng dậy, rồi thu dọn đống suy nghĩ ngổn ngang trong đầu và chuẩn bị tinh thần.
“Cô chú có thể… giúp cháu được không ạ? Cô chú giữ chân con bé giúp cháu được không? Nếu không có người giữ, thì con bé sẽ đá cháu... đá rất đau. Em ấy không cố tình làm cháu đau đâu ạ. Sinh ra em đã vậy rồi.”
Chú cảnh sát định từ chối. Chú ấy nói: “Bọn chú không được phép”.
“Cô sẽ giúp cháu,” cô cảnh sát lên tiếng.
Chúng tôi đứng ở hai phía đầu và chân Sophie. Tôi hít một hơi thật sâu, rồi túm chặt người con bé, sau đó ghìm hai tay em lại. Tôi đặt tay mình tít phía dưới eo em, phòng khi em cố gắng cắn tôi. Cô cảnh sát nắm lấy hai cổ chân trần của con bé, nhưng lại để tuột mất, nên Sophie được thể đá vào đùi tôi một cú đau điếng người. Sau đó cô cảnh sát đã rút kinh nghiệm, nên lần này cô túm chân Sophie chặt hơn. Giờ thì cô đã hiểu mình đang phải đương đầu với thứ gì.
Tuy nhiên, tôi đã mắc một sai lầm sơ đẳng. Đáng lẽ tôi nên biết rõ điều đó hơn ai hết. Tôi bế con bé quá cao, nên đầu em cũng cao gần bằng đầu tôi. Do đó, nếu con bé ngửa đầu về phía sau, thì…
Đúng như tôi nghĩ, con bé cố quẫy đạp thật mạnh và duỗi thẳng người để trốn thoát vòng kìm kẹp của tôi, nên khi con bé ngửa đầu ra phía sau thì chẳng may đập trúng môi và răng tôi. Cú đó khiến tôi choáng váng thực sự.
Cô cảnh sát ngước lên nhìn tôi. “Cháu ổn chứ?”
Tôi chẳng nói gì, chỉ tuyệt vọng hất đầu về phía ngôi nhà. Bởi giờ tôi chỉ muốn vào nhà thật nhanh để còn thả Sophie ra. Chúng tôi nhanh chóng di chuyển qua bãi cỏ, rồi thận trọng bước vào trong bếp. Dì Vi sập cửa thật mạnh sau lưng chúng tôi, còn tôi cố gắng đặt Sophie lên trên tấm lót sàn nhẹ nhàng nhất có thể.
Một trong hai cô chú cảnh sát đưa khăn giấy cho tôi, nhưng tôi chẳng thể nhận ra đó là ai. Tôi chỉ thấy một cánh tay mặc sơ mi xanh chìa ra tờ khăn giấy ngay trước mặt mình.
Đầu tiên, tôi không hiểu sao mình lại cần khăn giấy. Sau đó tôi mới nhận ra môi mình đang chảy máu.
Đó là khi Sophie bắt đầu chạy huých người vào cửa thật mạnh.
Bạn thấy không, điều đó thật tệ. Đó chính là hành vi tự gây thương tổn. Trước đây, chúng tôi chưa phải lo lắng nhiều về hành vi này đối với Sophie, nhưng chúng tôi luôn chuẩn bị tinh thần đối mặt nếu con bé vượt qua ranh giới đó. Dù chẳng ai mong muốn, nhưng có lẽ điều này vẫn luôn luôn chực chờ chúng tôi. Tôi thực lòng không hề muốn chuyện này xảy ra.
Tôi túm lấy Sophie, cả người tôi gần như đè hẳn lên em, rồi hai đứa ngã vật xuống sàn. Tôi tóm chặt hai cánh tay và dùng hai chân khóa người con bé lại. Ban nãy tôi đã tháo nút tai nên giờ tôi phải nghe tiếng em gào thét ngay bên tai mình. Nhưng tôi thấy lo lắng về những chuyện khác nhiều hơn.
Con bé vẫn rền rĩ rất sung.
Sau đó tôi chẳng biết sau lưng mình có chuyện gì nữa. Tôi nghe loáng thoáng tiếng Dì Vi nói chuyện với hai sĩ quan cảnh sát ở cửa trước, nhưng không rõ họ nói điều gì. Khi tôi nghĩ hai cô chú cảnh sát đã rời đi, thì thấy có người đặt tay lên vai mình. Đầu tiên tôi nghĩ đó là Dì Vi, nhưng khi quay đầu lại, tôi nhận ra đó là cô cảnh sát khi nãy. Cô nâng cằm tôi lên và cố gắng lau thật sạch chỗ máu trên môi, cổ và trên áo tôi bằng một chiếc khăn tay ẩm, sau đó cô kẹp vết rách trên môi tôi và dán một miếng băng cá nhân hình bướm10 lên đó.
10 Loại băng cá nhân có hai cặp cánh như cánh bướm, chuyên dùng để dán vết rách.
Cô còn siết chặt vai tôi trước khi rời đi. Tôi lờ mờ đoán ý nghĩa của cái siết vai đó là để khen thưởng cho hành động dũng cảm vừa rồi, hoặc để chúc tôi may mắn, bởi tôi sẽ cần nhiều may mắn. Có lẽ tôi sẽ cần cả hai.
Sau đó tôi không thấy tiếng người nói chuyện nữa, và xung quanh tôi hình như cũng chẳng còn ai.
Tôi nghĩ Sophie còn tiếp tục rền rĩ thêm ba mươi phút nữa, trước khi con bé mệt lử hoàn toàn, và tự ngủ thiếp đi.
Sau khi bế con bé vào giường, tôi chui vào phòng tắm và tự nhốt mình lại. Tôi đã tắm rất, rất lâu, cho tới khi chẳng còn giọt nước nóng nào trong bình nóng lạnh nữa. Như thể mọi chuyện tồi tệ tôi vừa phải chịu đựng sẽ trôi hết theo làn nước. Dù sao thì tôi cũng cảm thấy khá hơn đôi chút sau khi tắm.
Tôi ra khỏi bồn tắm rồi lấy khăn quấn quanh người và lau bớt hơi nước trên chiếc gương nhà tắm.
Dưới lớp băng cá nhân hình bướm, môi tôi vẫn sưng vù và có vẻ vẫn còn tươm máu. Đầu tiên tôi dùng lưỡi, sau đó là ngón tay để thử nạy chiếc răng cửa vừa bị Sophie đụng, và tôi phát hoảng khi thấy nó lung lay. Tôi không biết liệu răng mình có trở lại bình thường được không, hay tôi sẽ mất nó vĩnh viễn. Nếu thế thật thì chết mất. Chúng tôi làm gì đủ tiền đi chỉnh nha thẩm mỹ cơ chứ.
Tôi nghe thấy có người khẽ gõ cửa phòng tắm. “Cháu ra ngay đây, Dì Vi.”
“Mẹ đây.”
“A. Chào mẹ.”
“Ngày hôm nay ổn chứ con?”
“Cũng giống như mọi ngày thôi ạ,” tôi nói.
Giữa hai mẹ con tôi có một kiểu giao ước ngầm, rằng đối với những ngày tồi tệ thế này, chúng tôi chỉ thông báo những điều người kia thực sự cần biết thôi. Hai mẹ con tôi chưa bao giờ trực tiếp thỏa thuận với nhau, nhưng giao ước đó vẫn tồn tại.
“Mẹ có vài tin cực vui này.”
“Tuyệt. Thế thì cho con hưởng ké với.”
“Mẹ kiếm được việc rồi. Mẹ sẽ làm ca tối tại một nhà hàng Ý rất tuyệt vời trên đường Sáu. Đó là một nhà hàng sang trọng. Và con cũng biết điều đó nghĩa là gì rồi đấy.”
Nhiều tiền boa. Mẹ tôi muốn nói vậy. Hóa đơn nhà hàng càng đắt đỏ, thì mẹ càng được nhiều tiền boa.
“Tuyệt quá,” tôi nói. “Thế thì chúng ta sắp mua được nhà rồi.”
“Đừng cầm đèn chạy trước ô tô thế chứ, con yêu. Nói chung là tuần sau mẹ bắt đầu đi làm rồi đó.”
“Tốt quá, mẹ ạ.” “Con có vẻ...”
“Con ổn mà. Con ra ngay bây giờ đây ạ.”
Im lặng. Tôi đoán là mẹ đã đi sang phòng khác. Bởi sau đó tôi chẳng hề nghe thấy âm thanh nào khác nữa.
Sau khi mặc quần áo xong xuôi và dùng chiếc máy sấy của Dì Vi sấy cho khô tóc, tôi ra ngoài tìm mọi người. Tôi nghe thấy mẹ và Dì thì thầm chuyện gì đó với nhau.
Khi tôi ngó vào bếp, cả hai người đều im bặt và ngước lên nhìn tôi. Như thể tôi vừa bắt quả tang họ đang làm điều gì xấu xa vậy.
“Sao con không nói với mẹ là cảnh sát đến nhà mình?” Mẹ tôi hỏi. Mẹ làm như tôi mời họ đến đây ấy.
Mẹ chẳng hỏi han gì về vết thương trên môi tôi, hoặc có thể là do ánh sáng. Chỗ tôi đang đứng ngược ánh đèn phòng khách, nên có thể mẹ không nhìn rõ.
“Mẹ có hỏi đâu,” tôi đáp.
Tôi đồ rằng mình thật xấu tính khi đáp trả mẹ như vậy. Tôi không cố ý tỏ thái độ với mẹ đâu. Chỉ là tôi đang mệt mỏi quá thôi. Gì tôi cũng chịu được, và ai hỏi gì tôi cũng trả lời được, nhưng thi thoảng nếu phải làm cả hai chuyện đó trong cùng một ngày thì tôi chẳng thể nào kham nổi.
Chẳng ai nói năng gì, và cũng chẳng có chuyện gì xảy ra. Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng họ sẽ không nói gì nữa, nếu tôi cứ tiếp tục đứng đó vểnh tai nghe. Tôi lại chuồn khỏi bếp, và đi thẳng từ phòng khách về phía cửa trước.
Tôi nghe tiếng Dì Vi nói, “Dì chỉ không nghĩ là...”.
Và mẹ tôi ngắt lời Dì, “Mong Dì làm ơn giúp cháu. Cháu cầu xin Dì làm ơn làm phước giúp mẹ con cháu. Chúng cháu cần thêm một chút thời gian. Chúng cháu thực sự sẽ phải ra đường ở, nếu...”.
Đó là khi tôi ra hẳn bên ngoài và đóng sầm cửa lại. Trong màn đêm mịt mùng, cùng những cơn gió man mát, tôi cảm thấy mình được tự do tự tại hơn đôi chút khi ở ngoài đó.
Tôi nhìn về phía ngôi nhà kế bên, rồi hít một hơi thật sâu, thật dài, ưỡn thẳng người và bước tới đó. Sau đó tôi gõ cửa.
Tôi nghe ba tiếng sủa to chưa từng thấy của Rigby. Cánh cửa bật mở.
Ông hàng xóm đang bận đồ ngủ và một chiếc áo choàng tắm khá đẹp bằng vải bóng màu đỏ rượu vang, dù lúc đó hẵng còn sớm. Rigby thì vẫy đuôi rối rít, như thể nó biết tôi cả đời rồi vậy. Đuôi nó đập liên hồi vào đùi sau của ông chủ, nhưng hình như ông không hề để tâm tới điều đó.
Ông tỏ vẻ ngờ vực khi thấy tôi. Chỉ một chút thôi, nhưng vẫn…
“Chuyện gì vậy?”
Tôi được một phen hú hồn hú vía.
Tôi phải cố gắng giữ nhịp thở bình thường. Rồi tôi lại ưỡn thẳng người lên.
Trước khi tôi kịp mở lời, ông hỏi, “Có chuyện gì với...”. Tôi không đợi ông nói hết câu.
“Ông thật xấu xa và ích kỷ khi làm việc đó.”
Ông ấy mím môi suy nghĩ một lúc. Ông cố gắng dò xét nét mặt của tôi. Sau đó ông nói, “Ta xin lỗi, ta tưởng chúng ta nói xong chuyện vừa nãy rồi chứ”.
“Cháu không nói tới chuyện đó. Ông biết thừa cháu định nói gì mà.”
“Ta không biết nhiều như cháu nghĩ đâu.” “Ông phải biết mình đã làm gì chứ.”
“Ta thực sự không biết.”
“Ông đã gọi điện báo cho cảnh sát về Sophie. Trong khi ông thừa biết cháu đang cố hết sức để kiềm chế con bé rồi. Như thế thật xấu xa và ích kỷ.”
“Ta đâu có gọi cảnh sát.”
Lời nói đó đột ngột rơi xuống chân tôi, và cứ ở đó mãi. Tôi không biết tiếp theo mình nên làm gì. Tôi không tin tưởng ông ấy lắm. Nhưng nếu một đứa nhóc mà nói người lớn là dối trá thì cũng căng thẳng ra trò đấy. Đó là điều cơ bản trong cách hành xử thông thường mà mọi người đều nằm lòng.
“Vậy thì ai đã gọi chứ?”
Ông bước ra ngoài hiên, và Rigby cũng theo chân ông ra ngoài. Nó ngồi về phía bên tôi, còn tôi đặt tay mình trên lưng nó. Và tôi thấy dễ chịu hơn nhiều khi có nó ở bên.
“Cháu nhìn xung quanh đi,” ông nói và tay chỉ về phía con phố. “Cháu nhìn thấy gì? Chỉ có mặt trăng và hai ngôi nhà của ta và bà Dì của cháu à? Hay cháu thấy những ngôi nhà hàng xóm mọc lên san sát trong tầm mắt?”
Tôi thấy mình là đứa đại ngốc. Đáng lẽ tôi nên nghĩ ra từ trước, rằng bất cứ ai cũng có thể gọi cảnh sát. Chỉ vì tôi chưa gặp người hàng xóm nào khác ngoài ông ấy, không có nghĩa là họ không nghe thấy tiếng Sophie rền rĩ.
“Thực sự ông không làm điều đó ạ?”
“Ta nói với cháu điều này về ta nhé. Ta chỉ làm những điều ta nghĩ là đúng đắn. Và nếu cháu hỏi liệu ta có gọi cảnh sát không, ta sẽ nói với cháu sự thật, bởi với ta đó là điều đúng đắn. Ta sẽ nói với cháu rằng ta đã làm việc đó, và giải thích cho cháu lí do. Ta sẽ không phủi tay nói dối. Sự thật là ta không hề gọi cảnh sát. Ta đã dùng mấy chiếc nút tai cháu đưa, và đọc báo mạng thay vì xem thời sự trên tivi, sau đó ăn món bò nướng đóng hộp với khoai tây nghiền. Chỉ vậy thôi.”
“Ồ,” tôi nói. Khi tôi đang nói, đột nhiên cơn mệt mỏi ùn ùn kéo đến. Tôi mệt đến mức muốn tan ra thành vũng nước ngay trên hiên nhà ông ấy. “Cháu xin lỗi. Cháu nói nghiêm túc đấy ạ. Cháu thực lòng rất, rất xin lỗi ông.”
“Ta chấp nhận lời xin lỗi của cháu.”
“Con chó của ông thật dễ thương,” tôi vừa nói vừa vuốt ve tấm lưng to đùng của nó.
“Cảm ơn cháu. Giờ, ta xin phép…” “Ông đặt tên nó theo bài hát đó à?” “Bài hát nào cơ?”
“Ai cũng biết bài hát đó mà. Bài hát nói về những người cô đơn ấy ạ11.”
11 Bài hát Eleanor Rigby của nhóm The Beatles.
“Chỉ vì ta thích cái tên Rigby thôi. Giờ, nếu không còn chuyện gì nữa…”
Thế mà vẫn còn đấy. Tôi thề, những chuyện xảy ra hôm đó hoàn toàn vì tôi quá mệt mỏi thôi. Khi ấy tự dưng tôi thấy buồn ghê gớm. Tôi thề, nếu là ngày hôm khác tôi sẽ không nói ra những lời đó. Tôi sẽ lọc hết chúng ra khỏi đầu. Nhưng tối hôm đó, tự nhiên trên người tôi chẳng còn chiếc túi lọc nào cả.
“Uớc gì hồi trước ông không đưa nó đi cắt tai. Cháu biết ông sẽ nói đó không phải chuyện của cháu. Có thể ông đúng, vì nó là chó của ông. Chỉ là… khi cô chó con này ra đời, bản thân nó đã rất hoàn hảo rồi. Cháu không hiểu nổi tại sao có người lại nghĩ rằng cơ thể nó có vấn đề được. Dù sao thì, cháu thích mấy chú chó với đôi tai to và cụp xuống hơn là tai dựng đứng lên thế này.”
Tôi lấy hết can đảm nhìn ông. Khuôn mặt ông vẫn vậy, biểu cảm hầu như chẳng hề thay đổi. Tôi không thể đoán được điều gì từ đôi mắt ông.
“Thế cháu nói xong chưa?”
“Cháu chỉ cảm thấy việc chăm sóc tụi nó là nhiệm vụ của chúng ta. Ông biết đấy? Và nếu ta chăm sóc ai, thì ta phải yêu thương bản chất của người đó. Chứ không phải cố gắng thay đổi họ.”
Im lặng.
“Cháu còn muốn nói gì nữa không?”
“Không, à mà có ạ. Một điều này nữa thôi ạ. Chúng sẽ thấy rất đau khi tai chúng bị cắt như vậy. Lũ cún tin tưởng con người, và cháu không nghĩ chúng ta nên làm bất kỳ điều gì khiến chúng đau đớn, trừ khi việc đó cực kỳ thiết yếu.”
Lại im lặng.
“Cháu nói hết rồi chứ?” “Vâng. Cháu nói xong rồi ạ.” “Ta không đưa nó đi cắt tai.”
Tôi nhìn xuống con chó… à, thực ra tôi gần như quay sang nhìn nó như một con người vậy. Tai nó dựng đứng ngang tầm mắt tôi. Tôi nhìn đôi tai đó, giống như tôi đột nhiên thấy chúng lành lặn trở lại. Rồi tôi ngước nhìn người đàn ông hàng xóm. Tôi đoán ông sẽ tiếp tục giải thích câu nói vừa rồi, chỉ cần tôi cho ông ấy thêm thời gian.
“Ta nhận nuôi nó từ một nhóm cứu trợ chó. Khi ấy nó đã tám tháng tuổi, và tai nó đã như vậy sẵn rồi. Ta cũng thích một con chó chưa cắt tai hơn, nhưng ta thấy mến cô chó này vì tính khí của nó.”
“Ồ.” Tôi nói. Tôi tự thấy mình càng ngu ngốc và mỏi mệt hơn bao giờ hết. “Cháu nghĩ là cháu lại nợ ông thêm một lời xin lỗi nữa.”
“Ta nghĩ vậy.” “Cháu xin lỗi.”
“Thấy không? Ai trong chúng ta cũng có thể phạm phải sai lầm đó mà.”
“Có thể phạm phải sai lầm gì cơ ạ?”
Thực sự tôi không hiểu ý ông cho lắm. Tôi thì cứ nghĩ ông vẫn nói về chuyện cắt tai chó. Kiểu như ai trong chúng ta cũng có thể bị cắt tai vào một lúc nào đó trong đời. Nhưng nói như vậy thì chẳng có ý nghĩa gì cả.
“Ông chả biết gì về chúng cháu cả. Vì vậy ông không nên phán xét khi ông chẳng biết gì về chúng cháu như thế.”12
12 Ông Paul nhắc lại lời Angie nói khi hai người mới gặp mặt.
“À. Vâng. Đúng là cháu đã nói thế. Sau đó cháu đã quay lại đây và phán xét ông những tận hai lần, phải không ạ?”
“Đúng vậy. Nên lần tới, nếu có ai nghĩ sai về gia đình cháu, thì thay vì coi đó là chuyện cá nhân, cháu hãy nghĩ rằng ai ai cũng có thể kết luận nhầm như vậy. Kể cả cháu cũng thế.”
Tôi biết trong câu nói của ông có điều gì đó quan trọng, nhưng lúc đó tôi đã quá mệt để động não. Tôi hiểu ý ông, nhưng khi đó não tôi chỉ chực sập nguồn thôi.
Tôi gãi gãi đầu. Tôi chẳng hiểu vì sao mình làm thế nữa. Đầu tôi có ngứa ngáy gì đâu.
“Cháu đoán là mình sẽ phải suy nghĩ thêm về điều ông vừa nói,” tôi nói.
“Chúc cháu ngủ ngon,” ông đáp. “Cháu xin lỗi vì đã làm phiền ông.” “Ngủ ngon nhé,” ông nhắc lại.
Rồi ông quay vào nhà cùng Rigby ngay sát sườn, sau đó ông đóng cửa và khóa lại. Bỏ lại tôi ngoài hiên nhà ngẩn ngơ suy nghĩ, mình đúng là đứa thần kinh và vô vọng nhất quả đất này.