• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mình về nhà thôi
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 21
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 21
  • Sau

1Người kiếm cá

D

ù không rõ lí do, nhưng tôi đã kì vọng cuộc sống của mình huyên náo hơn một chút.

Hôm ấy là ngày đầu tiên của kì nghỉ hè sau một năm tôi theo học ở trường mới. Rõ ràng trường mới khó khăn hơn trường cũ rất nhiều, vì nó nhỏ xíu. Tôi sống sót được trong những ngôi trường lớn. Nhưng chẳng có cách nào để tàng hình trong một trường chỉ có vỏn vẹn ba trăm học sinh cho cả bốn cấp.

Khi tiếp xúc thường xuyên như vậy thì việc tụi nó thấy tôi kì quặc là điều không thể tránh khỏi.

Sophie và mẹ đang ngồi ăn sáng. Mẹ tôi ăn cơm và đậu còn thừa tối qua. Sophie thì ngồi trước mặt mẹ và tập trung hoàn toàn vào thứ khác. Tôi không biết con bé đang nhìn gì. Em toàn nhìn vào giữa không trung thôi. Chắc là điều gì đó mà tôi sẽ không bao giờ thấy được.

Chúng tôi đang ở nhà mới. Một căn nhà thực sự. Một nhà khách, bên trong có một phòng ngủ rất nhỏ. Nhưng mẹ tôi cũng tâm lý, nên đã chừa cho tôi chiếc ghế xếp trong phòng khách, còn Sophie và mẹ thì ngủ trên giường. Đúng là không có nhiều không gian cho lắm. Nhưng chí ít mẹ không bắt tôi phải ngủ chung với Sophie trong phòng khách.

Thực sự thì tôi không quan tâm nhiều đến kích thước hay tiện nghi của nơi chúng tôi đang ở. Tôi cũng không hề kén chọn. Miễn là có gì đó của riêng mình.

Tôi ngồi vào bàn.

“Con ăn sáng không?” Mẹ tôi hỏi. Giọng mẹ vẫn còn ngái ngủ.

Tôi biết hy vọng nhiều thì chỉ tự chuốc lấy thất vọng thôi, nhưng tôi đã nghĩ mẹ phải thấy vui mới đúng. Mẹ biết thừa rằng đó là ngày đầu tiên của kì nghỉ hè. Tôi nghĩ mình hiểu được cảm xúc của ông Paul khi ông kể về những việc ông sẽ làm khi nghỉ hưu, sau khi cống hiến cho công việc tròn bốn-mươi-lăm năm cuộc đời mình.

Tôi muốn một chút kèn hiệu ăn mừng. Trời, tôi muốn có hẳn một cuộc diễu hành luôn ấy chứ.

“Cơm và đậu thừa không phải bữa sáng” tôi đáp.

“Mẹ e là chỉ có những lựa chọn đó thôi, hoặc là nhịn.” “Con sẽ nhịn ạ.”

Mẹ chẳng đáp, cũng chẳng bận tâm.

Tôi nhìn Sophie, dường như con bé đang giao tiếp với thứ gì lơ lửng trong không trung ở bên trên chiếc bàn bếp.

“Con thấy Sophie cũng nhịn ăn mà.” Mẹ vẫn không đáp.

Sau khi mẹ tôi trả tiền thuê căn nhà này, chúng tôi hầu như chẳng còn xu nào. Mẹ phải đi bộ tới chỗ làm, rồi đi bộ về, vì không đủ tiền mua xăng. Mẹ đã mua một bao gạo to và năm pound30 đậu, và chúng tôi chỉ được ăn ngần ấy thứ cho đến ngày mẹ nhận lương tháng tới. Tôi thì chán gạo và đậu lắm rồi. Tháng trước thì chúng tôi ăn toàn nui. Thế nên tôi cũng chán nui lắm rồi.

30 Khoảng 2,2 kilogam.

“Ít ra con bé còn được ăn trưa ở trường”, tôi nói tiếp. “Con bé vẫn được ăn trưa khi đi học hè chứ ạ?”

“Cái gì cơ?”

“Bữa trưa ở trường. Của Sophie ấy ạ. Con bé vẫn được ăn trưa khi đi học hè chứ ạ?”

“Ừ, tất nhiên rồi. Chứ con nghĩ là họ sẽ bỏ đói tụi trẻ cần chăm sóc đặc biệt cả mùa hè à?

“Xin lỗi vì con đã để tâm tới chuyện đó.” Tôi nói thầm. Rồi tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ phía trên lò vi sóng. “Con bé sắp muộn rồi. Xe sắp đến rồi đấy ạ.”

Mẹ tôi cũng ngẩng đầu lên nhìn đồng hồ. “Chết tiệt!”

Mẹ đưa tay bịt miệng, rồi liếc sang Sophie. Tôi không hiểu sao mẹ phải lo lắng chuyện Sophie học nói bậy nhỉ. Sophie chưa bao giờ học nói từ nào trong bảy năm qua. Ngoại trừ Chu. Và từ đó cần động lực to lớn lắm. Còn lâu mới có chuyện tương tự vậy nữa.

Mẹ tôi lao vào phòng ngủ, và một phút sau mẹ đem theo giày và tất của Sophie ra ngoài.

“Con đi dạo đây” tôi nói.

Mẹ chẳng đáp.

Tôi dừng bước ở cửa rồi ngoái lại. Mẹ tôi đang quỳ gối trên thảm để đi giày cho Sophie.

“Nghỉ hè vui vẻ”, tôi nói, trong lòng tự hỏi, liệu nói ra điều đó có ý nghĩa gì không.

“Trông con có vẻ vui” mẹ nói. “Mẹ nghĩ con không cần mẹ giúp gì đâu nhỉ. Như thế là tốt, vì buổi sáng hôm nay của mẹ rất tồi tệ đấy.”

Tôi thở dài, rồi bước ra phía ngoài. Tôi còn chưa kịp đóng cửa thì đã thấy bác Maribal đậu xe trên lối vào nhà. Bác Maribal phụ trách lái xe đưa trẻ Đặc biệt tới trường của quận. Bác có vẻ khá kiên nhẫn, nhưng đôi lúc tôi thắc mắc liệu có phải bác cố tỏ ra như vậy không.

Bình thường bác sẽ bấm còi. Nhưng vì đã thấy tôi, nên hôm nay bác chỉ vẫy tay chào.

Tôi lại ngó vào nhà. “Xe đến rồi ạ.”

“Sao mẹ không thấy bấm còi?” “Vì bác ấy thấy con rồi.”

Mẹ lao đến phía cửa, gần như huých tôi ra để đứng ngó ra ngoài đường.

“Mẹ không tin con à?” Tôi hỏi.

Mẹ vẫy tay với bác Maribal rồi nói với tôi, “Con đưa em tới đó đi, nếu con đang định đi dạo, được không? Mẹ phải chuẩn bị đi làm nữa”.

“Sophie ơi”, tôi nói. “Đi thôi em. Xe đến rồi. Đi nào.” Chẳng có phản ứng gì.

Không phải tôi kì vọng gì nhiều đâu. Ý tôi là, đó là Sophie mà. Con bé có vẻ ngoan ngoãn chấp nhận lên xe rồi đến trường mỗi ngày, nhưng điều đó không có nghĩa là con bé chịu nghe lời tôi.

Tôi quay lại chỗ bàn bếp và nắm lấy tay em.

Hồi trước con bé sẽ giật mạnh tay lại. Nhưng kể từ khi chúng tôi đến thị trấn này, Sophie đã trầm tĩnh hơn. Và con bé đặc biệt bám dính lấy tôi, vì trong tâm trí của em thì tôi là người liên quan trực tiếp đến Chu.

Tôi dẫn con bé ra đường lớn. Có tiếng cửa sập mạnh sau lưng.

“Tâm trạng của mẹ sáng nay không được tốt lắm”, tôi nói với Sophie, và tất nhiên con bé chẳng thèm bận tâm.

Bác Maribal đã xuống xe và mở sẵn cửa trước khi tôi và Sophie tới. Chiếc xe van của bác cũng là loại thường thôi, nó giống mấy chiếc xe van gia đình mà các “bà mẹ bóng đá31” thường lái ấy. Cả quận này cũng chỉ có bảy đứa trẻ đặc biệt thôi.

31 Nguyên văn: Soccer mom, chỉ những bà mẹ khuyến khích con mình tập bóng đá hoặc các hoạt động thể thao khác thường đi xe van.

Tôi bế Sophie lên ghế, rồi nhìn bác Maribal thắt dây an toàn cho em. Bác ấy thích được tự thắt dây an toàn cho bọn trẻ. Chắc bác có tinh thần trách nhiệm lớn lắm. Hoặc bác thấy lo lắng, hay đại loại thế.

“Chào buổi sáng, Reggie”, tôi nói. “Chào em, Elen.”

Nhà chúng tôi là điểm dừng thứ ba.

“Chào buổi sáng!” Reggie đáp. “Chào buổi sáng. Chào buổi sáng. Chào buổi sáng. Chị biết em thấy gì không? Em đã thấy… Ưm. Chị biết đó là gì không? Em đã thấy nó đấy. Sáng nay. Vừa mới đây thôi. Đó là…”

“Là gì thế, Reggie?” Tôi cố gắng tỏ ra khích lệ thằng bé. Tôi chẳng bao giờ biết thằng bé thuộc loại gì. Tôi nghĩ thằng bé cũng bị rối loạn phổ tự kỉ, nhưng cũng có thể là chứng chậm phát triển. Tôi chỉ biết thằng bé đúng là trái ngược hoàn toàn với Sophie khi xét đến khoản ăn nói.

“Em quên béng mất rồi”, Reggie đáp.

Tiếng bác Maribal đóng cửa xe nghe thật dễ chịu. “Tạm biệt Sophie”, tôi nói.

Em chẳng nói gì. Tôi cũng chỉ thử thôi mà.

Reggie lại bắt đầu nói liên tục “Tạm biệt, chị của Sophie. Tạm biệt! Bọn em đến trường đây! Hẹn gặp chị ngày mai nhé, chị của Sophie!”.

Tôi cứ đứng đó vẫy tay tới khi chiếc xe đi hẳn, rồi đi bộ hết quãng đường, sau đó bắt đầu hổn hển leo lên con đồi dẫn vào thị trấn. Mệt phết đấy, vì tôi đang đói. Như thường lệ. Vậy nên tôi làm gì có đủ năng lượng mà đi bộ.

Tôi đang nghĩ nếu Sophie nói nhiều hơn, kiểu như Reggie chẳng hạn, thì có tốt hơn không, bởi nếu thế thì tôi sẽ thấy gần gũi với con bé hơn. Nhưng sau đó tôi chắc chắn rằng cũng sẽ chỉ hay ho trong một, hai giờ đầu thôi, rồi chúng tôi sẽ như sống trong địa ngục vĩnh viễn.

Tôi cũng không biết tại sao mình lại đi bộ vào thị trấn. Trong đầu tôi biết rõ mình muốn đi tìm mấy thứ ông Paul từng nhắc tới. Đi bộ vào thị trấn, đọc báo, uống một tách cà phê siêu đậm đặc và có thể ăn một chiếc bánh mì Anh nướng, hay đại loại thế. Nhưng ông Paul có tiền, còn tôi thì không.

Dù sao tôi vẫn quyết tâm đi tìm một số thứ theo lời ông miêu tả. Ít ra tôi có thể tới tiệm cà phê để đọc báo dành cho khách ở đó chẳng hạn.

Một chiếc xe chạy tới bên tôi thật chậm, gần như dừng hẳn.

Tôi nghe thấy người đó nói: “Chúc mừng ngày đầu tiên nghỉ hè”. Tôi nhận ra giọng ông Paul ngay.

Rigby đang thò đầu ra ngoài cửa sổ phía sau. Tôi bước đến chỗ chiếc xe, choàng tay ôm chiếc đầu to lớn của nó và hôn chào nó. Rồi tôi ngó qua chiếc cửa kính ông Paul đã hạ xuống.

“Sáng nay cháu cứ đợi mẹ cháu nói câu đó mãi. Một câu đơn giản mà nhỉ.”

“Chuyện chẳng bao giờ xảy ra hả?” “Chẳng bao giờ xảy ra.”

“Cháu định đi đâu thế?”

Tôi thở dài. “Cháu thực sự không biết nữa. Cháu muốn có một ngày nghỉ thực thụ, nên cháu định thả bộ vào thị trấn. Giống như ông vẫn thường làm mỗi sáng. Nhưng cháu không có tiền mua bánh và cà phê, nên mấy chuyện này giống như trò đùa thôi. Cháu chỉ đang cố làm cho buổi sáng hôm nay trở nên đặc biệt hơn một chút, cháu nghĩ vậy. Còn ông thì sao ạ?

Cháu tưởng ông đi bộ vào thị trấn mỗi sáng chứ. Ông và Rigby đang đi đâu thế ạ?”

“Chúng ta đang trên đường về nhà. Rigby và ta vừa đi câu cá rạng sáng nay.”

“Ồ. Tuyệt. Thế ông có bắt được con nào không ạ?”

Ông cúi xuống lấy một chiếc giỏ mây hình thù khá kì lạ và có nắp đậy. Ông đặt nó trên một tấm vải mưa màu xanh ở dưới chân ghế hành khách. Chiếc giỏ có quai đeo bằng da, và một sợi dây da để cột chặt miệng. Nhưng ông không cột giỏ. Ông mở nắp cho tôi nhìn. Trong đó là năm con cá tuyệt đẹp màu bạc, với khoang bụng lấp lánh và hai bên hông là những chiếc vảy sặc sỡ lấp lánh xếp chồng lên nhau một cách hoàn hảo. Trông chúng giống như một bức tranh tĩnh vật.

“Cá hồi ạ?”

“Ừ. Cá hồi vân đấy.”

“Ông định làm gì với chúng ạ?”

“Câu hỏi hơi lạ đấy. Ta sẽ ăn chúng. Chắc là ta sẽ ăn luôn bây giờ đấy.”

“Ông ăn chúng vào bữa sáng luôn ấy ạ?” “Cháu chưa từng đi cắm trại đúng không?” “Vâng ạ.”

“Đây là bữa sáng kinh điển của những người đi cắm trại đấy. Cá hồi tươi mới bắt, nướng ngoài trời. Bởi bình minh và chạng vạng là lúc thích hợp nhất để đi câu cá. Ta định mời cháu ăn thử, nhưng có khi cháu đã ăn sáng rồi nhỉ.”

“Thực ra là chưa ạ.”

“Cháu không đói à?”

“Cháu đói muốn chết ấy chứ. Lúc nào cháu cũng đói muốn chết. Bữa sáng ở nhà kinh khủng lắm, nên cháu chẳng bao giờ muốn ăn cả.”

“Vào trong xe đi. Ta sẽ đãi cháu bữa này. Cẩn thận đừng giẫm lên cá nhé.”

Tôi cẩn thận đặt chiếc giỏ đựng cá lên đùi mình khi ông lái xe.

Tôi mở nắp giỏ lên ngắm lũ cá. Mấy đôi mắt to tròn như gương của chúng nhìn vào vô định. Tôi thấy buồn khi nghĩ rằng, chỉ mới sáng nay thôi chúng còn đang bơi lội tung tăng trong nước hồ hay sông, và nghĩ rằng mọi chuyện trong đời chúng đều ổn thỏa. Rằng ngày hôm nay sẽ thật tuyệt, giống như mọi ngày khác. Rồi chuyện này xảy ra.

Nhưng ai chẳng phải ăn. Và tôi cũng là một con người mà.

Con cá vẫn còn nguyên vẹn khi ông cẩn thận dùng dao bay đặt nó lên đĩa của tôi. Ông chỉ bỏ ruột cá, rồi rửa qua dưới vòi nước, sau đó lau khô bằng khăn và quét một chút dầu ô-liu trước khi cho vào nướng.

“Nó sẽ lườm cháu như thế trong khi cháu ăn nó ạ?” Thực ra sau khi nướng, mắt con cá đã chuyển thành màu trắng đục. Nhưng vẫn là mắt. Nằm trên đĩa của tôi. Và đang lườm tôi.

“Ta quên mất cháu là lính mới. Để ta chỉ cho cháu…” Ông dùng dao và dĩa, nhanh chóng tách phần thịt cá bên trên rồi bỏ xuống đĩa. Rồi ông cầm đuôi cá, dùng dĩa tách nốt phần thịt phía dưới. Ông lọc nguyên bộ đầu và xương cá ra ngoài. Trên đĩa của tôi giờ chỉ còn lại hai lát cá nóng hôi hổi.

Con cá này khá to, có lẽ phải dài khoảng mười ba hay mười bốn inch nếu tính cả đầu và đuôi. Chỗ thức ăn đó còn nhiều hơn cả tôi mong đợi. Lâu lắm mới thấy ngần ấy thức ăn. Và chỉ dành cho riêng mình tôi thôi.

“Cháu cảm ơn ông. Cháu thấy thật kì khi có thứ gì nhìn cháu ăn nó.”

Ông có một cái thùng rác trong bếp. Tôi thấy ông vứt bộ xương cá vào đó. Điều này khiến tôi nhớ đến một bộ phim hoạt hình từng xem hồi nhỏ - bộ xương cá kia trông giống hệt thứ bọn mèo hoang lôi ra từ thùng rác.

“Hương vị cá nướng trong lò không ngon lắm” ông nói. “Ta đang định mua một chiếc bếp nướng ngoài trời. Nhưng kể cả nướng cá bằng bếp ga thì hương vị cũng chẳng thể sánh bằng nướng củi được. Ta nhớ hồi cắm trại. Ta cũng muốn đi cắm trại lần nữa, nhưng đã quá già để ngủ trên nền đất rồi.”

Ông quay lại chỗ lò nướng để lấy nốt phần cá của mình. Mùi cá thơm nức mũi khiến dạ dày tôi quặn lại và bắt đầu sôi ùng ục.

“Ông có thể mắc võng mà?”

“Ừ. Có thể. Nhưng ta nghĩ Rigby cũng đã quá già để ngủ trên nền đất rồi. Nó bắt đầu bị viêm khớp nhẹ rồi đấy. Ta phải cho nó uống thuốc.”

“Cháu không biết điều đó đấy.”

“Ừ. Thì ta cũng không muốn làm lớn chuyện. Ta biết cả cháu và ta đều không muốn nó già đi. Thế cháu đang chờ gì nữa vậy? Ăn đi chứ.”

“Cháu không muốn vô lễ.”

“Vớ vẩn. Cháu phải ăn luôn trước khi nó nguội đi. Và cẩn thận xương dăm nữa nhé. À, rắc thêm chút muối và tiêu nữa này.”

Tôi dùng dĩa xắn một miếng cá, nhưng rõ ràng nó mềm đến mức chỉ cần chạm nhẹ cũng vỡ. Đến mức tôi chỉ cần cho vào miệng, thịt cá sẽ tự tan ra. Tôi ăn một miếng cá, trong lòng vừa phấn khích, lại vừa lo lắng.

Hương vị bùng nổ trên đầu lưỡi tôi. Và cá không hề tanh chút nào. Miếng cá rất mềm, như thể tôi vừa cắn một miếng mây trên trời ấy. Tôi thề, đây là thứ ngon nhất tôi từng được ăn từ trước tới nay. Tôi không nói quá lời đâu. Tôi đã nghĩ tới pizza, và bò bít-tết mẹ tôi từng mang về nhà khi còn làm ở nhà hàng trước đó. Và món tôm tôi từng ăn ở một bữa tiệc. Mấy món đó chẳng là gì cả. Nếu so sánh với món cá hồi này, thì chúng đều là bìa các-tông hết.

Tôi rắc thêm chút muối và tiêu lên đĩa, rồi lại cắn thêm miếng nữa.

Còn ngon hơn lúc nãy. Trên cả tuyệt vời. Ông Paul ngồi xuống với đĩa cá của mình. “Cháu thấy sao?” “Cháu nghĩ mình vừa chết đi và được lên tới thiên đường rồi.”

“Ta ghét nói thế này, nhưng ta đã bảo rồi mà.”

“Rigby đâu ạ? Cháu thấy ngạc nhiên là nó không quan tâm đến mùi cá nướng đấy.”

Ông Paul chỉ tay.

Ở góc nhà là Rigby đang lịch sự thưởng thức suất ăn cỡ bự của mình.

“Nó có phần riêng mà. Đây là truyền thống của bọn ta, nếu ta bắt được từ hai con trở lên, thì nó sẽ được hẳn một con.”

Tôi muốn bình luận gì đó, nhưng chẳng muốn ngừng ăn. Tôi cảm giác chúng tôi cứ lẳng lặng ăn như thế mãi mãi.

Tôi cứ tự nhủ mình phải ăn chậm lại. Món cá này khiến tôi thấy mình thực sự tồn tại. Cảm giác thật khác so với những lần trước đó, khi tôi đứng trong nhà ông Paul với cái bụng lép kẹp.

Ông Paul mở lời trước. “Thế Sophie cũng đang được nghỉ hè à?”

“Không ạ. Trường em ấy có khóa học mùa hè dành cho trẻ đặc biệt. May thật. Nếu không thì cha mẹ chúng không thể làm một công việc bình thường được. Hoặc trong trường hợp của cháu, thì cháu sẽ không được nghỉ hè.”

“Con bé đi học ở đó vẫn ổn chứ?”

Tôi cắn phải chiếc xương dăm đầu tiên. Tôi nhằn xương ra khỏi đống thịt cá bằng lưỡi, rồi lấy tay nhặt nó ra.

“Tới giờ thì vẫn ổn ạ. Con bé không phản đối chuyện đến trường. Cháu nghĩ chương trình học ở đây tốt hơn ở nhà trẻ cũ của con bé nhiều. Hồi trước em ấy ghét đi nhà trẻ lắm ạ. Nhưng có thể vì hồi đó chúng cháu chưa gặp Rigby.”

Lại nhắc đến Rigby, lúc này nó đã gối đầu lên đùi tôi. Lúc nào tôi cũng thấy buồn cười vì hành động này của Rigby, vì nó phải ráng cúi người thấp lắm mới chạm được đến đùi tôi. Tôi nghĩ nó đã ăn xong phần cá của mình.

“Như thế không công bằng nhé, Rigby” ông Paul nói.

“Mi có cá rồi mà.”

Nó lê bước ra phòng khách, trông có vẻ hơi xấu hổ. Dù tôi chỉ nhìn từ sau lưng nó.

“Ông dạy cháu câu cá được không ạ?”

Cả hai chúng tôi đều ngạc nhiên vì câu hỏi đó. Tôi còn chẳng biết mình định hỏi như thế.

“Ta hơi ngạc nhiên đấy” ông đáp. “Trông cháu đâu giống kiểu người thích câu cá.”

“Vâng. Chính cháu cũng hơi ngạc nhiên mà. Vì đúng là cháu không phải loại người thích câu cá thật. Nhưng cháu là loại người thích ăn. Và đây là món ngon nhất cháu từng được ăn trong nhiều năm nay. Thực ra là cả đời cháu chưa từng ăn món gì ngon hơn thế. Và ông chỉ việc ra ngoài sông hay suối là bắt được bữa sáng rồi. Bữa sáng ấy lại còn miễn phí nữa chứ.”

Ông bật cười ha hả. Tôi chẳng rõ vì sao.

“Miễn phí hả. Để ta tính coi. Bốn mươi lăm đô một năm cho giấy phép câu cá này. Có lẽ thêm gần một nghìn đô nữa cho nửa tá bộ cần câu. Rồi chì câu. Mồi câu sống. Móc câu. Mồi giả. Trứng cá hồi. Và phao này. Rồi cả dây câu nữa. Nếu chia số tiền đó cho số cá ta từng câu, có lẽ mỗi bữa sáng của ta đáng giá tới năm mươi đô ấy chứ. Nhưng có lẽ những năm tới ta sẽ bắt được nhiều cá hơn. Có lẽ ta sẽ giảm giá bữa sáng của mình xuống còn mười đô.”

“Ồ, cháu biết là chẳng có gì miễn phí mà. Những thứ tốt đẹp chẳng tự nhiên mà bơi vào đời đâu. Cháu không định chơi chữ đâu nhé.”

“Chà, cũng không hẳn. Có lẽ với cháu thì không đắt đến thế. Cháu chắc không cần phải xin giấy phép đâu.” “Sao lại thế ạ?”

“Phải mười sáu tuổi trở lên mới cần xin giấy phép cơ.” “Ồ. Cháu còn tận một năm được câu cá không cần giấy phép. Ngoại trừ việc…”

“Và ta có tận nửa tá cần câu, nghĩa là ta có thể cho cháu mượn một cái. Ta sẽ cho cháu vài chiếc móc và dây câu, và giả sử nếu cháu làm mất thì thay mấy bộ phận đó cũng rẻ thôi mà.”

“Vậy là ông sẽ dạy cháu ạ?” “Chắc chắn rồi.”

“Khi nào ạ?”

“Thế hôm nay cháu định làm gì?”

“Hôm nay ạ? Nhưng hôm nay ông đi câu rồi mà?” “Thì sao chứ? Cháu quên chuyện ta nghỉ hưu rồi à?” “Vâng, nhưng không phải ông sẽ chán nếu đi câu hai lần trong ngày ạ? Mà ông cũng nói đi câu vào lúc bình minh là tốt nhất mà.”

“Ừ, ở mấy con lạch thì thế. Nước ở đó rất nông nên đi câu lúc trời nhá nhem là tốt nhất. Khi đó chỉ vừa đủ sáng cho bọn cá thấy mồi thôi, chứ không thấy chúng ta chuyển động trên bờ được. Và lúc ấy cũng chưa có nắng, nên chúng cũng không nhìn thấy dây câu. Nhưng bây giờ chúng ta có thể lái xe tới mấy cái hồ nhỏ trên núi. Ở đó nhiều cá hồi hồng lắm.

Khi trời ấm, chúng sẽ lặn sâu xuống đáy hồ, nhưng mấy cái hồ đó khá nhỏ nên dù cháu có lội xuống thì nước cũng chỉ tới ngang eo thôi. Và cháu có thể quăng lưỡi câu xuống tận đáy hồ.”

Tôi bắt đầu thấy phấn khích khi nghe tới việc đứng giữa một cái hồ nông để bắt cá cho bữa tối. Có vẻ giống một kì nghỉ hè thực thụ đối với tôi. Cảm giác phấn khích vui sướng hệt như khi ông Paul nghe tin nghỉ hưu vậy.

Không chỉ nghỉ hè, có thể tôi còn được ăn uống đều đặn nữa ấy chứ. Cả nhà tôi có thể được ăn uống tử tế thường xuyên hơn.

Nhờ có tôi.

Tôi thấy hình ảnh cơm và đậu xa mờ dần trong tâm trí mình.

“Thực ra cháu có thể mua một số đồ câu cá”, tôi nói. “Cháu đã dành dụm được một ít quỹ đen.”

Ông lôi một chiếc cần câu khỏi rương rồi đưa cho tôi. Tôi vung vẩy qua lại, và khá ngạc nhiên về độ dẻo của nó. Cảm giác chiếc cần này có thể gập đôi lại được. Tôi chạm vào dây câu và dùng ngón tay mình cảm nhận. Nó trong suốt và mảnh gần bằng sợi tóc người. Thực ra cũng không đến mức đó, nhưng nó mảnh lắm ấy. Tôi nghĩ đến kích thước chú cá trên đĩa của mình lúc trước. Tôi thắc mắc, tại sao nó lại không làm đứt dây câu nhỉ. Suy cho cùng thì vận mạng của nó phụ thuộc vào sợi dây đó mà.

“Chuyện đó cần nhiều ý chí đấy” ông Paul nói.

Ông sập nắp rương lại.

Chúng tôi đứng bên hồ, ông Paul đi ủng lội nước, còn tôi thì mặc quần soóc ngắn và đi giày vải. Một tay ông cầm hộp dụng cụ bằng nhựa, còn tay kia cầm cần và lưới bắt cá. Còn cái giỏ, khi đó tôi mới biết cái đó là giỏ câu, thì ông đeo trên vai.

“Cái gì cần ý chí cơ ạ?”

Tôi đã quên luôn chúng tôi đang nói dở chuyện gì.

“Có tiền nhưng không tiêu. Nhất là khi cháu có thể dùng số tiền đó mua nhiều đồ ăn ngon hơn.”

“Cháu hy vọng ông không giận khi cháu có quỹ đen mà lại ăn ké đồ của ông.”

“Không hề. Nếu cháu tiêu số tiền đó thì cũng chẳng được bao lâu mà. Phải không?”

“Đúng ạ. Đó chính là lí do cháu không tiêu tiền. Vì khi cháu tiêu hết sạch tiền, thì vấn đề của mẹ con cháu vẫn còn đó. Cháu thường đưa cho mẹ hết số tiền mình kiếm được, ví dụ như khi ông trả tiền dắt Rigby đi dạo ấy ạ. Nhưng số tiền đó chẳng bao giờ giải quyết được vấn đề của nhà cháu. Cách giải quyết vấn đề là mẹ cháu phải kiếm được nhiều tiền hơn, hoặc kiếm một nơi khác tốn ít tiền thuê nhà hơn. Nếu cháu đưa mẹ một trăm đô của cháu, thì chúng cháu chỉ cải thiện được bữa ăn trong một vài tuần, và sau đó thì lại đâu vào đấy. Và nếu thế thì cháu càng khiến mẹ không giải quyết được vấn đề của mình. Cháu cứ nghĩ là đến khi mọi thứ thực sự trở nên khó khăn thì mẹ sẽ nghĩ ra cách gì đó. Nhưng tới giờ mẹ cháu vẫn chưa nghĩ ra cách nào cả. Nhưng có thể cách này sẽ đáng tiền.”

“Cháu cứ tiết kiệm một trăm đô đó đi. Ta sẽ cho cháu những thứ cần thiết để bắt đầu đi câu. Ta có đủ đồ để dùng đến cuối đời cơ. Nếu cháu dùng hết lưỡi câu hoặc cần một cuộn dây câu mới, thì có lẽ lúc đó cháu đã kiếm được cả đống cá cho mẹ rồi ấy chứ. Cháu bảo mẹ đầu tư chút tiền cho người kiếm cơm của gia đình đi.”

“Người kiếm cá ạ”, tôi sửa lại.

“Ừ. Người kiếm cá. Nhưng đừng có tự mãn sớm thế. Cháu chưa bắt được con cá nào đâu đấy. Và còn phải học nhiều lắm.”

Ông Paul nhoài người sang phía tôi thì thào, “Cuối cùng thì bên ta cũng có cá cắn câu rồi. Bên cháu có gì chưa?”.

Việc giữ trật tự khi đứng giữa lũ cá rất quan trọng. Mà cụ thể là lũ cá hồi. Nếu thấy tiếng động, chúng sẽ hoảng sợ và bơi ngay đi chỗ khác. Chúng tôi đã đứng im lặng như vậy bên hồ gần một tiếng rồi.

“Chưa ạ”, tôi cũng thì thào.

Tôi thấy hơi ghen tị vì ông có cá cắn câu. Tôi bắt đầu thấy chuyện câu cá này chẳng hề suôn sẻ như mình tưởng.

Tôi đang đứng trong hồ, nước ngập lên tận cạp quần soóc. Tôi vẫn đang đi đôi giày vải vì bùn dưới đáy hồ rất trơn. Rồi chúng sẽ khô như cũ thôi.

Tôi nhìn về phía Rigby, nó đang cuộn người trong bóng râm trên bờ. Nó chẳng nhúc nhích tẹo nào. Còn chẳng hề bận tâm rằng chúng tôi đang ở nơi nó không thích. Tôi có cảm giác nó từng đến đây rồi.

Rồi tôi cảm thấy có gì đó. Như thể ai đó khẽ giằng tôi vậy.

“Tuyệt!” Tôi khẽ reo lên.

“Cháu nhớ điều ta dạy lúc nãy chứ ?” Tôi gật đầu.

Tôi phải đợi thêm một hay hai lượt giằng nữa, rồi mới được giật mạnh dây câu. Nếu làm vậy khi lưỡi câu đang ở trong miệng cá thì nó sẽ móc sâu và chắc chắn hơn nữa.

Tôi thấy con cá giật liên hồi. Giống kiểu người ta nói lắp ấy.

Tôi giật mạnh. Chẳng có gì cả.

Tôi chờ đợi. Chẳng thấy cá giật dây câu nữa. “Cháu nghĩ nó nhả mồi rồi”, tôi nói thầm.

“Cháu thu dây về đi. Thử xem nó ăn mất mồi câu của cháu chưa.”

Tôi thu dây câu, tới khi tôi thấy lưỡi câu nổi lên trên mặt nước. Nó trơ trụi. Trên đó chẳng còn quả trứng cá hồi nào cả.

“Làm sao nó ăn rồi thoát được vậy ạ?”

“Chúng làm thế suốt ấy mà”, ông đáp. “Chúng muốn ăn mồi, không có nghĩa chúng sẽ đớp cả móc câu đâu. Thi thoảng chúng sẽ rỉa mồi. Hoặc ngậm và kéo mồi ra.”

“Ông có nghĩ chúng biết không ạ?”

“Có lẽ là không đâu. Nhưng cũng khó nói lắm. Vì ta có phải cá đâu. Đây, cháu lấy thêm mấy quả trứng cá hồi nữa đi này.”

Ông lấy một chiếc hũ từ trong hộp dụng cụ của mình đưa cho tôi. Mấy quả trứng cá hồi có màu đỏ rực và to cỡ hạt đậu. Tôi móc bốn quả lên lưỡi câu của mình để bọn cá chỉ thấy trứng, chứ không thấy được lưỡi câu.

“Ta xin lỗi vì ấn tượng đầu tiên cháu thấy là ta mang về những ba chú cá hồi vân to lớn, đẹp đẽ. Thi thoảng cháu sẽ chẳng câu được gì cả. Việc câu cá không chỉ là quăng lưỡi câu và kéo cá lên đâu. Thi thoảng cháu sẽ bị rỉa trộm mồi và chẳng thu được gì hết. Thi thoảng cháu sẽ nghĩ rằng dưới mặt nước kia chẳng có con cá nào. Nhưng chúng vẫn ở đó. Chỉ là chúng có chịu cắn câu hay không thôi.”

“Làm thế nào để biết chúng có cắn câu hay không ạ?” “Bằng cách quăng mồi câu xuống nước để xem liệu chúng có cắn câu không. Nếu có cách nào để biết trước khi chúng ta ra khỏi nhà, và nếu ta biết cách ấy, thì ta sẽ không phải chôn chân trong ngân hàng cả đời như vậy đâu. Ta sẽ viết thành bí kíp và bán cho dân chài lưới khắp thế giới. Nếu thế thì ta sẽ giàu sụ. Chà chà.”

Tôi chẳng biết ông vừa “chà chà” cái gì, cho tới khi ông giữ chặt cần câu và bắt đầu thu dây cước. Tôi biết ông đã bắt được cá, vì tôi thấy cần câu của ông cong trĩu xuống vì nặng. Tôi quan sát những động tác của ông để biết mình cần làm gì khi bắt được cá. Nếu tôi may mắn bắt được.

“Cháu chuẩn bị lưới đi”, ông nói. “Giúp ta bắt nó nào.” “Cháu cần làm gì ạ?”

“Cháu chỉ cần giơ lưới ra thôi. Ta sẽ làm nốt những việc còn lại.”

Tôi lấy chiếc lưới từ trên vai ông. Nó được ông cuốn lại bằng một sợi dây thừng màu xanh lá. Tôi dùng cả hai tay giơ lưới, còn cần câu thì kẹp chặt giữa hai đầu gối. Tôi thấy chú cá của ông trồi lên mặt nước những ba lần. Có vẻ nó nghĩ mình sắp bay được rồi. Nhưng thực ra thì không phải vậy.

Vài giây sau, nó đã nằm gọn trong lưới, và ông Paul gỡ lưỡi câu khỏi miệng nó. Ông còn chẳng cần móc thêm trứng cá hồi tươi vào lưỡi câu. Ông chỉ cần xếp lại mấy quả vẫn còn trên đó thôi.

Nó không phải giống cá vân. Người nó màu sẫm hơn, trên thân có lốm đốm nâu cùng một vệt sáng đỏ dài phía dưới bụng.

Tôi thấy ông Paul nắm phần miệng dưới của con cá để đưa nó vào chiếc giỏ câu đang ngập nước. Tôi thấy thương anh bạn này ghê. Chắc nó muốn được tự do lắm đấy. Nó vặn mình, ra sức quẫy, và cố gắng hết sức để thoát thân. Nhưng nó xong đời rồi.

“Tội nghiệp nó quá”, tôi nói.

“Ừ, nhưng tốt cho chúng ta mà.”

“Ông có bao giờ thấy tội nghiệp cho chúng không ạ?” “Có và không. Trong tự nhiên, chúng toàn bị ăn sống thôi. Ta cho chúng chết nhân đạo hơn mà.”

Tôi định trả lời ông, nhưng cái phao bên tôi động đậy.

Tôi chờ đợi. Cái phao giật thêm hai lần nữa. Nhưng lần này mạnh hơn. Con này còn giằng khỏe hơn con trước nữa.

Tôi giật thật mạnh. Con cá đó cũng giật lại.

“Cháu câu được một con này!” Tôi nói, quên luôn mình phải thì thầm.

“Từ từ thôi cháu. Đừng hấp tấp. Nhưng cũng đừng để dây chùng nhé.”

Trong lúc tôi kéo dây cước, tôi cảm thấy nó cũng kéo lại. Nó trồi lên mặt nước sớm hơn tôi tưởng. Nó còn cách bắp chân phải của tôi một foot. Và thậm chí còn to hơn con ông Paul vừa bắt. Đúng là cực phẩm.

Nhưng rồi tôi chẳng thấy gì nữa. Nó đã chuồn đi mất. “Chuyện gì vừa xảy ra thế ạ?” Tôi hỏi.

“Cá của cháu bơi mất rồi.”

“Làm sao nó thoát được lưỡi câu thế ạ?”

“Thì cháu ngừng kéo dây. Khi cháu buông lỏng dây, thì nó có thể lắc người để trốn thoát.”

“Nhưng lưỡi câu có ngạnh mà. Nó phải mắc vào miệng cá chứ ạ?”

“Thường là vậy. Đó là nếu cháu may mắn. Hầu hết con nào cũng thoát được nếu cháu thả lỏng dây, dù cháu dùng loại lưỡi câu nào. Cháu cứ coi như đang đánh cược với bọn cá đi. Cả hai bên đều có cơ hội. Hãy thấy mừng là cháu không phải đánh cược bằng mạng sống của mình.”

Tôi thấy hơi khó chịu khi ông so sánh chuyện này với đánh bạc. Vì tôi hay ‘mắc’ vào mấy thứ liên quan đến cờ bạc. Tôi thề, tôi không định chơi chữ đâu.

Tôi lại móc thêm bốn quả trứng cá hồi và quăng dây câu lần nữa.

Ông Paul nói, “Cháu có tiến bộ đấy”.

Một lát sau, tôi lại thấy đầu dây cước động đậy, và thử thu dây lần nữa.

“Cháu cứ tiếp tục thu dây tới khi cá trồi lên trên mặt nước, rồi xem có thả được nó vào lưới không nhé.”

Tôi nhìn con cá đó trồi lên khỏi mặt hồ, và giơ nó lên cao nữa, cố gắng đợi đến khi ông Paul giơ tấm lưới xuống phía dưới. Tôi thấy ánh mặt trời rọi vào chiếc bụng trơn đỏ thẫm của nó, và nó ra sức quẫy người và vùng vẫy khi bị tôi nhấc lên. Sau đó nó rơi vào chính giữa tấm lưới.

“Cháu vừa bắt được cá rồi này” ông Paul nói. “Woa.”

Tôi chăm chú nhìn nó khi ông Paul cho vào giỏ câu. Và tôi nghĩ, mình giết nó rồi. Mình sắp giết nó rồi. Nhưng tôi cần ăn. Và tôi nghĩ tới chuyện nếu mua cá phi-lê ở cửa hàng thì có người cũng phải làm thịt chúng chứ. Nhưng giờ thì chẳng có ai giết cá giúp tôi cả. Tôi phải trực tiếp làm điều đó thôi.

Tôi không chùn bước. Vì gia đình tôi cần thêm thức ăn. Ừ, đúng là khổ thân nó thật. Nó phải mất mạng vì chúng tôi, nhưng cuộc đời là vậy mà. Nếu một con sư tử hay sói cần thức ăn thì có lẽ tôi cũng mất mạng như con cá này. Tôi chỉ cần phải đối mặt với việc giết một con cá. Và nó thì… chẹp, nó cũng chẳng còn lựa chọn nào khác. Phải vậy không?

Trong tâm trí, tôi thầm nhủ với con cá rằng tôi xin lỗi. Và cũng nói rằng tôi sẽ không thả nó đâu.

“Vậy nếu cháu đến đây câu cá một mình thì sao ạ? Làm thế nào để cháu cho cá vào lưới ạ?”

“Ta thường làm thế này. Ta lội xuống hồ và vung dây câu xuống nước sâu, sau đó thả cước câu và kéo dây lên tận trên bờ. Và ta câu cá từ trên bờ, nếu cá cắn câu thì thu dây về rồi quăng nó ra xa bờ hết mức có thể. Nó có thể nhảy xung quanh tùy thích, nhưng không thể quay lại hồ được. Như vậy, ta vẫn giữ được nó kể cả khi nó không còn móc vào lưỡi câu nữa. Nhưng nếu nhảy được xuống hồ, thì nó sẽ được...”

Khi đó ông phải ngừng nói, vì ông lại câu được một con cá nữa.

Nhưng cũng không sao, vì tôi biết ông định nói gì. Tôi biết, nếu quay lại hồ thì nó sẽ được gì.

Sau đó tôi lại bắt được thêm một con cá nữa. Rồi ông Paul bắt con thứ ba.

Tôi thì chẳng có lần thứ ba.

Sau đó hai chiếc phao của chúng tôi chẳng còn động đậy nữa. Chẳng còn con cá nào cắn câu cả.

Chúng tôi cứ tiếp tục đứng câu thêm khoảng nửa tiếng. Tôi còn chẳng bận tâm về thời gian, vì tôi không thấy chán. Tôi chỉ đứng đó quan sát hình ảnh phản chiếu của mấy dãy núi trên mặt nước, và ngắm những hình ảnh phản chiếu đó lay động khi gió ào tới. Tôi quan sát những chú chim chân dài lội qua lội lại gần bờ.

Tôi đang được nghỉ hè. Và còn rất vui nữa.

Ông Paul nói, “Buồn cười thật, chuyện bọn cá không chịu cắn câu ấy. Sau đó đột nhiên chúng lại cắn câu. Và thình lình chúng lại chẳng cắn câu nữa. Có lẽ chúng ta nên về thôi”.

Khi chúng tôi lái xe về nhà, ông Paul hỏi, “Cháu muốn ta làm sạch ruột cá giúp cháu không?”.

“Cháu sẽ làm. Ý cháu là, cháu nghĩ mình làm được. Cháu muốn nói là cháu sẽ tự làm việc đó. Có lẽ ông chỉ cho cháu lần này, và cháu sẽ học ạ.”

“Cháu có thể lấy ba trong số năm con chúng ta vừa bắt.” “Như thế thì thật không công bằng ạ.”

“Không sao. Nhà cháu có những ba miệng ăn cơ mà. Ta vẫn còn thừa hai con từ sáng nay. Nên ta sẽ lấy hai con, và như thế Rigby và ta sẽ ăn được hai bữa.”

“Vâng ạ. Nếu ông muốn vậy.” “Ta muốn vậy mà” ông đáp.

Khi chúng tôi vào trong nhà, tôi nghe tiếng bíp bíp liên hồi.

Ông Paul ở trong bếp và trút đống cá vào trong bồn rửa bát bằng thép không gỉ. Có vẻ ông không nghe thấy tiếng bíp bíp.

“Cái gì đang bíp bíp vậy ạ?”

“Tiếng máy nhắn tin đấy. Để ta rửa tay rồi sẽ ra xem sao.” Tôi không ngồi mà đứng dựa vào bàn, vì quần soóc của tôi vẫn còn ướt. Tiếng máy nhắn tin khiến tôi lo lắng, dù không hiểu vì sao.

Một phút sau, ông bước ra khỏi bếp, lau khô tay vào khăn lau bát và nhấn một nút trên chiếc máy.

“Paul” một giọng nói vang lên. Một người phụ nữ. Giọng điệu có chút pha tạp. “Gọi lại cho tôi nhé. Được chứ?” Im lặng. “Gọi cho tôi nhé.”

Chúng tôi nhìn nhau.

“Đó là bà Rachel ạ?” Tôi mở lời.

“Ừ.” Ông im lặng hồi lâu. Sau đó ông nói tiếp, “Là do ta, hay giọng bà ấy giống như… có chuyện gì không ổn nhỉ?”.

“Cháu chắc chắn là có chuyện gì đó không ổn rồi.” “Ừ, ta phải gọi lại cho bà ấy đây.”

“Ông có muốn cháu về nhà không ạ?”

“Ta còn chưa đưa cá cho cháu mà. Ta phải chỉ cháu cách làm sạch ruột nữa chứ.”

“Cháu có thể ngồi đợi ở ngoài mà.”

“Không sao đâu. Ta không bận tâm chuyện đó. Cháu không phải đi đâu. Chỉ là ta phải gọi bà ấy ngay thôi.”

Ông nhấc điện thoại lên và vội vã bấm số điện thoại như đã nằm lòng từ lâu. Cũng có lý mà, vì đó là nhà cũ của ông, số điện thoại đó ông đã dùng hàng thập kỉ rồi.

Chắc bà Rachel đang đứng gần điện thoại, nên bà nhấc máy ngay.

“Rachel. Vâng. Chị ổn không? Nghe giọng chị có vẻ...” Sau đó bà Rachel trả lời, trong một khoảng thời gian rất dài.

Tôi quan sát ông Paul. Tôi chỉ đứng đó nhìn ông nghe điện thoại. Tôi còn làm được gì nữa? Càng đứng nghe, trông ông càng già khọm đi.

Sau một lúc, ông nói, “Tôi sẽ tới”. Và ông lại im lặng.

“Không, tôi có thể cho nó vào cũi chó mà.”

Im lặng.

“Không. Chị nói đúng. Tôi không thể đưa nó đi lâu như vậy được. Nhưng tôi có thể xoay xở mà. Tôi thậm chí có thể kiếm một cô trông chó nữa kìa. Ngay tại đây.”

Lại im lặng.

“Rachel, chị chắc chứ?”

Im lặng. Những hồi im lặng bắt đầu trở nên đau nhói. Cảm giác như có ai đó đang bóp nghẹt tim tôi. Và tôi thậm chí còn chẳng hề biết chuyện quái gì đang diễn ra ở đó nữa.

“Nhưng còn chị thì sao?”

Thêm đau đớn.

“Được rồi. Tôi chẳng biết nên nói gì nữa. Gọi lại cho tôi nếu chị đổi ý, được chứ? Nếu không thì, hãy gọi tôi khi chị biết thêm thông tin nhé.”

Một hồi im lặng ngắn.

“Được rồi. Tôi gọi chị hằng ngày được không?” Một hồi im lặng vừa vừa.

“Được rồi. Tôi sẽ gọi cho chị vào số di động. Tạm biệt. Giữ sức khỏe nhé?”

Ông ấn nút kết thúc cuộc gọi trên máy điện thoại, nhưng không đặt chiếc điện thoại trên tay mình xuống. Ông chỉ đứng đó bất động và chẳng nói năng gì. Ông không nhìn Rigby, hay tôi. Ông chỉ nhìn chăm chăm vào chiếc điện thoại, như thể ông vẫn muốn nghe thêm điều gì nữa. Mặc dù ở đầu bên kia chẳng còn ai cả.

Tôi muốn hỏi, “Sao vậy ạ? Có chuyện gì thế ông?”. Nhưng tôi không muốn lên tiếng trong thời điểm nhạy cảm thế này. Giống như việc bạn không bao giờ nên đánh thức một người mộng du ấy. Tôi cảm giác sẽ xảy ra điều gì không may nếu tôi hỏi vậy.

Tôi thì nghĩ, Hóa ra ông ấy cũng có tất cả những cảm xúc giống như những người bình thường khác. Khi ông tỏ ra mình lãnh đạm, đó là ông đang nói dối.

Ông nhìn tôi. Đôi mắt ông lộ rõ vẻ buồn rầu. “Có chuyện gì với bà Rachel ạ?” Tôi hỏi. “Không. Là Dan. Có chuyện với Dan.”

Ông không nói là chuyện gì. Ông không nói ngay. Nên tôi tiếp tục đợi.

Rất lâu sau đó, ông mới nói tiếp, “Dan bị ung thư dạ dày giai đoạn cuối”.

“Và bây giờ họ mới nói với ông sao?” “Họ cũng vừa mới biết.”

“Vậy ông ấy sẽ ra sao ạ?”

“Họ vẫn chưa chắc. Ngày kia ông ấy sẽ nhập viện phẫu thuật. Bác sĩ khá chắc chắn đó là ung thư di căn. Nhưng phải phẫu thuật thì họ mới biết thêm được. Ta muốn tới đó, nhưng bà ấy cứ khăng khăng rằng ta nên ở lại. Rằng ta nên ở lại đây tận hưởng thời gian nghỉ hưu của mình. Dù sao thì ta cũng nên tới đó.”

Chúng tôi lại chết lặng trong đau đớn như vậy thêm một lúc nữa. Tôi nghĩ là vài phút, nhưng có khi tôi bị cảm giác đánh lừa.

Rồi ông nói, “Thôi nào. Ta phải làm sạch cá cho cháu chứ nhỉ”.

Tôi đi theo ông vào bếp, chân tôi hơi run run một chút. “Cháu sẽ chăm sóc Rigby nếu ông muốn tới đó.”

“Ta biết. Ta đã cố nói vậy với bà ấy. Hôm nay ta không dạy cháu điều này được không? Cách làm sạch cá ấy? Cháu có buồn nếu ta không dạy cháu không?”

“Không sao ạ. Cháu không sao mà.”

Tôi ngồi bên bàn bếp và nhìn tấm lưng ông. Ông đang làm sạch lũ cá trong bồn, nên tôi không phải nhìn chút máu hay ruột gan phèo phổi nào của tụi nó.

“Cháu hỏi ông điều này được không ạ?” Tôi hỏi, gần như thì thào.

“Cháu hỏi đi” ông đáp. Ông không hề quay lưng lại. “Cháu biết ông không thích anh trai mình, nhưng… ông có thương ông ấy không ạ?”

Ông im lặng khá lâu. Lâu đến mức tôi đã nghĩ ông sẽ chẳng bao giờ trả lời câu hỏi đó.

Rồi ông đáp, “Có”.

Chỉ vậy thôi. Một chữ “có”. Chẳng cần thêm lời lẽ nào hoa mỹ hơn thế.

Sau đó căn bếp lại chìm vào yên lặng.

Một lúc sau, ông lại nói lớn. Ông nói rất lớn, khiến tôi giật nảy mình.

“Ta sẽ tới đó.”

Ông quệt tay vào chiếc khăn bếp màu trắng, để lại vệt máu cá đỏ tươi trên đó. Ông lao vội về phía phòng khách. Tôi cũng đứng dậy, tới chỗ cửa và quan sát ông bấm mạnh mấy phím điện thoại.

“Rachel, chị nghe tôi nói. Làm ơn. Chị nghe này. Tôi là người ruột thịt duy nhất của anh ấy. Và công việc chăm sóc sau phẫu thuật cũng rất vất vả. Hơn nữa hai người chẳng có họ hàng nào quanh đó hết. Làm ơn. Đừng tranh cãi nữa mà. Để tôi tới đó đi. Nếu chị không muốn tôi tới giúp chị, hay giúp Dan, thì hãy để tôi tới đó vì chính mình đi.”

Hồi im lặng đầu tiên của cuộc gọi thứ hai. Và tôi cảm giác đỡ đau đớn hơn cuộc gọi trước đó nhiều.

“Angie sẽ chăm sóc nó. Phải không, Angie?”

Ông nhìn về phía tôi, ánh mắt ông đã khác trước. Sâu hơn. Như kiểu đôi mắt ấy đột nhiên biến thành cái hang, để cho người khác bước vào.

“Vâng. Chắc chắn rồi ạ.”

“Bao lâu cũng được. Phải không, Angie?”

“Vâng ạ. Bao lâu cũng được. Nếu cần thì cả mùa hè cũng được ạ.”

“Cô bé có thể ở đây cùng Rig cả mùa hè nếu cần thiết.”

“Ơ, đợi đã”, tôi nói, và ra hiệu ông bịt ống thoại lại. “Rachel, chị đợi một phút nhé.” Ông lấy tay bịt ống thoại. “Có vấn đề gì thế cháu?”

“Cháu không đưa Rigby đến nhà cháu được. Họ không cho phép thú nuôi.”

“Cháu có thể ở lại đây.” “Vâng.”

Ông lại đưa điện thoại lên, và sau khi nghĩ thêm một chút, ông lại bịt ống thoại lần nữa. “Liệu mẹ có cho cháu ở đây một mình không đấy?”

“Cháu nghĩ vậy. Nhưng cháu không chắc lắm.”

“Cháu thấy ổn khi ở một mình không?”

“Ông đùa cháu ạ? Có khi nào cháu không ở một mình đâu? Và cháu còn phải trông nom em gái nữa chứ.”

“Ta sẽ trả công cho cháu.” “Ông không phải trả đâu ạ.”

“Tất nhiên ta phải trả công cho cháu rồi. Đừng ngốc thế.” “Ông Paul. Chúng ta là bạn bè mà. Ông không phải trả công cho cháu đâu.”

Ông nhìn chằm chằm vào cằm tôi vài giây và tôi chẳng biết ông đang nghĩ gì nữa.

“Chúng ta sẽ tìm ra cách nào đó”, ông nói. Rồi ông lại đưa điện thoại lên nghe. “Sáng mai tôi sẽ khởi hành”, ông nói với bà Rachel.

“Đúng vậy.”

“Hẹn gặp lại chị.” “Rachel?”

Im lặng. Tôi có linh cảm kì quặc rằng khi đó cả hai đầu dây đều nín thinh.

“Thôi đừng bận tâm. Hẹn gặp chị ngày mai nhé.” Ông nói.

Tôi quan sát Sophie ngấu nghiến nuốt phần cá hồi của em. Con bé vẫn ăn bốc như thường lệ.

“Mẹ kiểm tra kĩ và lọc hết xương dăm trong phần cá hồi của con bé chưa thế?” Tôi hỏi mẹ.

“Đừng chuyển chủ đề nữa. Nói tiếp nào. Tại sao con lại không được trả công chăm chó?”

“Ông ấy đã đề nghị trả công. Nhưng con từ chối. Giờ con xin phép ăn cá đây, không nó nguội mất.”

Chúng tôi cứ thế lẳng lặng ăn trong một lúc lâu. Thứ tiếng động duy nhất phát ra là từ tiếng nhai của Sophie. Con bé luôn mở miệng to khi ăn. Cũng hơi ghê, nhưng tôi nghĩ là do em chẳng kiểm soát nổi bản thân thôi. Nên tôi cố gắng không soi mói. Mẹ tôi thì đang bừng bừng giận giữ, còn tôi thì cố né đi. Tôi cũng cố không để cơn giận giữ của mẹ ảnh hưởng đến vị giác của mình, hay làm tôi thấy chán ăn. Đây là bữa ăn giàu đạm thứ hai của tôi trong ngày. Tôi thề, chắc tất cả lượng protein đó đã dồn hết lên não tôi rồi. Tôi cảm giác đầu óc mình hôm nay thông suốt hơn bao giờ hết.

Khi tôi nuốt miếng cuối cùng, mẹ đã phá lời hứa giữ im lặng.

“Rồi. Giờ con ăn xong rồi. Thế con nói đi, sao con lại chê tiền vậy?”

“Vì ông ấy là bạn con. Ta không thể đòi bạn trả tiền khi giúp đỡ người đó. Nhất là trong hoàn cảnh này.”

“Ta đòi tiền nếu ta cần tiền. Và nếu ông ta thực sự là bạn con, ông ta sẽ hiểu con cần tiền đến mức nào. Và nhất định ông ấy sẽ đòi trả bằng được.”

“Ông ấy đòi trả con rồi. Dù gì thì ông ấy cũng đã cố làm vậy, nhưng con đã từ chối. Ông ấy cho con nhiều thứ mà. Từ lúc mình chuyển đến đây, hầu như hôm nào con cũng ăn trưa ở đấy, cho tới khi Sophie và con được ăn trưa ở trường. Thế mẹ nghĩ lúc đó bọn con ăn gì? Thậm chí mẹ còn chẳng bao giờ để ý chuyện đó cơ. Ông ấy còn dạy con câu cá nữa. Ông ấy còn cho con mượn cần câu và đủ một bộ dụng cụ để đi câu. Thế nên con mới mang được bữa tối này về cho mẹ đấy. Ấy thế mà mẹ còn chẳng nói nổi một câu cảm ơn con. Dạo này mẹ xấu tính thật đấy, con còn chẳng biết nên cư xử với mẹ thế nào cho phải nữa.”

Căn phòng lại chìm trong im lặng vài phút. Chỉ có tiếng động phát ra từ miệng Sophie.

Mẹ tôi cắn một miếng cá. Lúc đó chắc suất cá của mẹ nguội ngắt ngơ rồi.

“Ngon lắm. Cảm ơn con. Chỉ là… chúng ta cần thêm tiền.” “Có lúc nào chúng ta không cần thêm tiền đâu. Và mẹ lúc nào cũng định nhờ con giải quyết vấn đề đó hộ mẹ. Mẹ biết đấy, nước mình có luật lao động trẻ em mà. Nếu chúng ta không đủ thức ăn thì mẹ phải kiếm một công việc tốt hơn hay đại loại thế. Hoặc kiếm thêm việc. Hoặc chuyển đến một chỗ trọ rẻ tiền hơn. Mẹ không được nhìn con như thể việc mua đồ ăn là nhiệm vụ của con. Con học câu cá để nhà ta có thêm thức ăn. Và mẹ thậm chí còn chẳng thấy cảm kích vì điều đó nữa.”

“Mẹ không thấy mối liên hệ nào giữa bọn cá và vấn đề của chúng ta.”

“Con thì có đấy! Chúng ta có thể ăn cá mà!”

Tôi bắt đầu nổi giận. Sophie càng phát ra tiếng động to hơn vì chúng tôi khiến em lo lắng. Con bé không thích thấy chúng tôi cãi nhau.

“Thế con không nghĩ một thời gian nữa mình sẽ chán cá à?”

“Thế còn gạo, đậu, hay nui? Hẳn là chúng ta không bao giờ chán mấy thứ đó ạ?”

“Đừng có lên giọng với mẹ.”

“Mẹ có muốn ăn suất cá đó không? Vì nếu mẹ không muốn, thì con rất sẵn lòng ăn hộ mẹ đấy.”

Đầu tiên mẹ tôi im lặng. Nhưng khi tôi nhào đến giằng lấy chiếc đĩa thì mẹ tôi giằng lại. Mẹ choàng hai cánh tay quanh đĩa để ngăn tôi lao tới.

“Nghe này, mẹ xin lỗi”, mẹ nói. “Có. Mẹ muốn ăn cá. Chỉ là mẹ đang lo về vấn đề tiền bạc thôi.”

“Đó là lí do gần đây mẹ cáu bẳn thế à?” “Mẹ cáu bẳn khi nào?”

Tôi khịt mũi một cái rõ to, dù không định làm thế.

“Phải rồi. Tất nhiên là vậy rồi. Con đi dạo đây.”

Mẹ tôi chẳng nói thêm lời nào. Mẹ thậm chí còn chẳng thèm cản tôi. Khi quay lại, tôi thấy mẹ đang ngấu nghiến ăn phần cá của mình. Tôi chỉ lắc đầu, rồi tiếp tục đi thẳng.

Ông Paul đã tắt đèn ngoài hiên, nên tôi cứ đứng trong bóng tối bên cửa chính tới khi ông ra mở cửa. Ông bật đèn, và ánh sáng rọi thẳng vào mắt tôi như hai lưỡi dao găm, nên tôi phải đưa tay che mắt lại.

Khi ông mở cửa, tôi lại đứng ngẩn người vài giây. Tôi không chắc mình nên nói gì.

“Cháu vừa cãi nhau với mẹ. Cháu vào được không ạ?” Ông tránh qua một bên, và tôi bước vào, nhoài người tới chỗ Rigby rồi cứ ôm nó mãi. Tôi đã thầm nghĩ, Mi đừng chết nhé, Rigby. Đừng chết nhé. Ý nghĩ đó, cộng thêm chuyện cãi nhau với mẹ tự nhiên khiến tôi muốn khóc, nên tôi lại ôm Rigby thêm một lúc lâu nữa tới khi đủ bình tĩnh trở lại.

Rồi tôi đứng lên, bối rối không biết nên nói với ông Paul điều gì.

Tôi đã định hỏi liệu mình có thể ngủ lại đó một đêm không. Nhưng tôi biết mình không thể. Tôi biết rằng giữa ông Paul và tôi chẳng có gì khuất tất cả, và ông cũng biết thế, nhưng có những chuyện bạn cần phải tôn trọng suy nghĩ của đối phương. Tôi không thể ở lại nhà ông tới tận lúc ông đi được.

Nên tôi nói, “Cháu xin phép ở lại đây cho tới khi cháu chắc chắn mẹ đã ngủ say ạ”.

“Được rồi.”

“Cháu ngủ trong phòng khách, nên trước khi mẹ ngủ thì cháu chẳng có chút riêng tư nào.”

“Vài tuần tới cháu sẽ được thoải mái một mình.” “Vâng, được thế thì tốt quá ạ.”

Tôi nhìn quanh căn nhà và bắt đầu suy nghĩ. Thật tuyệt khi được ở đây một mình cả ngày trong vài tuần tới. Điều đó càng khiến tôi không muốn về nhà hơn.

“Cháu hứa sẽ không làm phiền ông đâu ạ.”

“Cháu có bao giờ làm phiền ta đâu. Cháu biết chơi Phăng-teo32 không?”

32 Nguyên văn: Gin Rummy.

“Không ạ. Nhưng cháu có thể học mà. Nếu ông sẵn lòng dạy cháu.”

Chúng tôi chơi hơn hai mươi ván trước khi tôi về nhà. Tôi bắt đầu mê mẩn trò đó. Có vẻ mọi thứ liên quan đến mấy lá bài đều không tốt đối với tôi. Nhưng thực sự thì tôi nghĩ không phải do mấy lá bài đâu. Mà là do đánh cược cơ. Chúng tôi không cược tiền, nhưng tôi biết ranh giới đó thực sự rất mong manh.

Lỡ tôi cũng là một con bạc bẩm sinh thì sao? Hệt như ba tôi ấy?

Tôi phải cẩn trọng chuyện đó mới được.