• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mình về nhà thôi
  3. Trang 13

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 21
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 21
  • Sau

2Bởi vì

M

áy nghiền thức ăn ở trong ngăn tủ này nhé” ông Paul nói. Ông mở chạn bát và chỉ cho tôi một chiếc thùng nhựa gần to bằng thùng rác, nhưng nắp của nó chặt hơn. “Trong đó có một chiếc muỗng đong. Vậy là một muỗng đồ ăn khô này, sau đó thêm một hộp đồ ăn ướt nữa. Ta để mấy hộp đồ ăn ướt cạnh lò vi sóng nhé.”

“Thời gian cho ăn có cần chính xác không ạ?”

“Không cần chính xác từng giây từng phút đâu. Ta luôn cho nó ăn bữa sáng sau khi thức dậy, và một bữa nữa vào khoảng năm giờ chiều. Nó sẽ đòi được cho ăn khi đói. Nhưng sớm hay muộn hơn một giờ cũng không vấn đề gì.”

Tôi đếm số hộp đồ ăn cho chó trên kệ.

“Mỗi ngày hai hộp. Nhỡ ông đi lâu hơn mười tám ngày thì sao ạ?”

“Chà, ta không nghĩ vậy đâu. Nhưng để đề phòng thì…” ông rút ra từ trong túi một tờ hai mươi đô và nhét xuống dưới hộp đồ ăn cuối cùng trên giá. “Các cửa hàng trong thị trấn đều có bán loại này, nên cháu hãy giữ lại hộp cuối cùng để mua cho đúng hãng nhé.”

“Vâng. Vậy làm thế nào cháu biết được nó cần ra ngoài giải quyết nỗi buồn ạ?”

“Cháu không cần lo về chuyện đó đâu. Ta lắp cửa cho chó ở phía sau nhà rồi. Nó sẽ tự ra đó khi cần.”

“Ông có hàng rào bao quanh cả khu nhà không ạ?” “Không phải cả khu. Nhưng nó không bỏ đi đâu. Ta huấn luyện nó kĩ lắm rồi.”

“Ngộ nhỡ nó lo lắng khi ông không về thì sao?”

“Ta để nó ở nhà suốt mà. Nó sẽ đợi ta thôi. Nó là một cô chó ngoan. Cháu cứ tin tưởng nó đi.”

“Cháu tin Rigby mà.” Tôi đáp.

Nhưng đây đúng là trách nhiệm lớn lao thật.

“Đây là số điện thoại của bác sĩ thú y. Và số điện thoại của ta nữa. Nếu cháu có thắc mắc thì hãy gọi cho ta nhé.”

“Vâng.”

“Cháu chắc là không muốn nhận tiền công chứ?” “Cháu chắc ạ”.

Câu trả lời của tôi khiến ông phải im lặng một lúc. Tôi tự hỏi ông đang nghĩ gì. Tôi không thể hiểu được gì từ nét mặt đó.

“Cháu ăn hết thức ăn trong nhà đi nhé. Tới lúc ta về, ta không muốn còn sót lại thứ gì đâu đấy. Và đồ câu cá ta để trong ga-ra ấy. Cháu cứ lấy ra mà dùng. Có nhiều chỗ câu được cá lắm. Ta sẽ để lại bản đồ thị trấn cho cháu, và cháu sẽ biết mấy dòng suối chảy qua chỗ nào. Trừ khi cháu đã biết hết lúc mấy mẹ con chuyển tới đây sống rồi.”

“Không đâu ạ. Nếu ông có bản đồ thì tốt quá. Cháu có nên đưa Rigby theo không ạ?”

“Chắc chắn rồi. Nếu cháu muốn.”

“Nhỡ cháu đi xa quá, và nó đau chân thì sao ạ?”

“Cháu cứ dẫn nó theo đi. Nếu nó bắt đầu khập khiễng hay cứng chân, thì đó là dấu hiệu của vận động quá sức. Nếu thế thì cháu chỉ cần rút ngắn quãng đường lại thôi. Nếu cháu không chắc thì cứ gọi cho ta.”

“Vâng.”

“Cháu có lo lắng không?” “Hơi hơi ạ.”

“Đừng lo lắng. Cháu quý nó mà. Cháu chỉ cần từng ấy kĩ năng cho công việc này thôi.”

Rigby và tôi đứng ở hiên sau và nhìn theo bóng xe ông Paul. Tôi vẫy tay theo, nhưng có lẽ ông không thấy tôi.

“Ông sẽ quay lại thôi mà”, tôi nói với Rigby. “Và chị sẽ chăm sóc em trong khi ông đi vắng nhé.”

Tôi không biết tại sao mình lại bận tâm chuyện đó nữa. Trông nó chẳng có vẻ lo lắng chút nào. Trong hai đứa chúng tôi, thì chỉ có mình tôi đang lo thôi.

Tôi mở tủ lạnh. Vì, tất nhiên tôi chưa ăn sáng ở nhà. Trong đó có nước cam. Hai tá trứng. Thịt lợn hun khói. Phô- mai Cheddar và kem phô-mai. Còn có sữa này. Trong ngăn rau có cả các loại rau để làm món salad. Một gói cá hồi hun khói ăn dở. Một khay thịt bò nạc xay gói bằng màng bọc thực phẩm. Và sáu quả đào nữa.

“Ối mẹ ơi!” Tôi hét to.

Rigby chạy vào xem có gì ồn ào thế. Nó nhìn vào tủ lạnh. Như thể kì vọng sẽ có thứ gì bất thường nhảy ra từ trong đó vậy. Rồi nó nhìn tôi như muốn hỏi tôi đang phấn khích vì chuyện gì.

Tôi nghĩ có lẽ mấy thứ này đối với nó là bình thường. Tôi nghĩ nó đã biết thừa là nhiều người sống đủ đầy với chiếc tủ lạnh đầy ắp thức ăn thế này. Tôi quên béng mất.

Tôi nghĩ, Nếu trong tủ có kem phô-mai và cá hồi hun khói thì chắc chắn phải có bánh vòng ở đâu đó. Nên tôi tìm chúng trên kệ bếp và trong hộp trữ bánh mì.

Cuối cùng tôi thấy chúng trong ngăn đông lạnh.

Tôi nướng đều hai nửa chiếc bánh và quết thật nhiều kem phô-mai, sau đó lại kẹp hẳn nửa số cá hồi hun khói trong tủ lạnh. Suất ăn này có lẽ phải nhiều gấp đôi suất ăn của người bình thường.

Ông Paul đã nói, rằng ông không muốn thấy một chút thức ăn nào sót lại khi ông quay về. Và ông sẽ chẳng biết tôi ăn thứ gì khi nào. Chỉ có tôi biết điều đó thôi.

Khi đó ý tưởng ăn nhiều hơn nhu cầu cơ thể thật lạ lẫm đối với tôi.

Thế rồi tôi lại nghĩ mình cần phải để dành cho Sophie một nửa. Nhưng tôi lại nhớ ra trong tủ còn rất nhiều đồ nữa.

Rất, rất nhiều. Tôi hoàn toàn có thể làm cho con bé hẳn một chiếc bánh vòng kẹp cá hồi khác, giống như cái chuẩn bị trôi xuống dạ dày tôi đây.

Tôi cắn miếng đầu tiên và thở hắt ra một cái. Tôi ngồi bên bàn bếp của ông Paul, thậm chí còn không dám nhai thức ăn nữa. Tôi muốn cố gắng nếm vị thức ăn vừa được đưa vào miệng mình thật kĩ.

“Đây mới là sống chứ, Rig”, tôi thốt lên, trong miệng vẫn còn đầy thức ăn.

Tôi tìm thấy con đường nhỏ dẫn xuống một con lạch theo bản đồ của ông Paul. Rigby theo sát gót tôi tới nỗi, nếu tôi dừng lại, dù chỉ một giây thôi, thì mũi nó sẽ va ngay vào lưng tôi.

Mấy hàng cây dần hiện rõ trong tầm mắt, cần câu của tôi cứ bị mắc lên cành cây suốt. Tôi phải dừng lại mấy lần để kiểm tra xem dây cước có vướng vào đám cây thông không.

Khi đến con lạch, tôi nhìn ngay xuống dòng nước. Có lẽ nó chỉ sâu khoảng một foot, nước ở đây rất trong và tiếng nước chảy róc rách thật hay. Nhưng nếu trong đó có cá bơi thì tôi đã thấy rồi.

Tôi chẳng thấy con cá nào.

Tôi ước mình có thời gian học câu cá thêm một buổi nữa, trước khi ông Paul rời đi. Tôi muốn học câu cá trong mấy dòng suối ấy. Hôm trước tôi chỉ mới được học câu cá trong hồ thôi. Và mấy cái hồ đều xa quá, tôi và Rigby không thể đi bộ tới đó được.

Tôi nhìn xuống và thấy Rigby đang chăm chú nhìn tôi.

Tôi hiểu nó muốn hỏi tôi có vấn đề gì. Tại sao tôi lại không câu cá? Có lẽ bọn cá chỉ thích tụ tập ở một vài nơi thôi. Có khi Rigby cũng từng tới đây với ông Paul suốt. Tôi nghĩ, có thể nó biết ông Paul thường thích đi câu ở đâu.

“Lối nào nhỉ, Rigby?”

Có lẽ do tôi tưởng tượng, nhưng hình như nó đã rất vui khi tôi hỏi vậy. Nó xuất phát ngay về phía thượng nguồn. Tôi bám theo, vừa leo đồi vừa thở dốc. Tôi cố gắng để ý dưới chân để tránh mấy bụi cây gai mọc tua tủa bên đường. Và tôi cũng để ý phía trên để không móc cần câu vào cành cây. Tôi cứ ngước lên ngước xuống như vậy liên tục.

“Đợi chút, Rig ơi”, tôi kêu lên. Nó dừng lại thật.

Sau năm phút đi xuyên rừng như thế, chúng tôi tới một khoảng rừng thưa. Trên mặt đất lốm đốm những tia nắng rọi qua tán cây. Trước mặt là một chiếc hồ, rộng hơn suối khoảng năm lần. Tôi đặt hộp dụng cụ và cần câu xuống, sau đó trèo lên mấy tảng đá to và nhẵn nhụi. Tôi đếm có chừng bốn tảng như vậy. Ở đó có một thân cây mục đổ rạp ngập nước quá nửa, và tôi bám chắc vào một cành cây khi rướn người quan sát lòng hồ.

Phải có hơn một tá cá hồi vân bơi sát mặt nước, và chúng bị mấy gợn sóng lăn tăn trên mặt nước làm nhòe đi.

Tôi quay lại chỗ Rigby. “Giỏi lắm”, tôi nói.

Tôi mất khoảng mười phút chỉ để móc lưỡi câu vào dây cước vì quên cách thắt nút ông Paul dạy. Tôi cứ làm theo kiểu mình nghĩ là đúng, nhưng khi giật mạnh để kiểm tra thì lưỡi câu lại tuột khỏi dây.

Tôi nhìn về phía Rigby đang nằm nghỉ bên cạnh, hai chân trước của nó duỗi thẳng, còn đôi mắt thì lim dim dưới những đốm nắng. Lông mày của nó đã bắt đầu bạc đi, và lông mõm của nó giờ còn bạc hơn lúc trước.

Tôi lại thử thắt nút một lần nữa. “Ta phải luồn đầu dây qua…”

Trong một khoảnh khắc điên rồ, tôi thề, tôi đã giơ chiếc nút ra cho nó xem. Cứ như thể nó sẽ chỉ cho tôi nên luồn đầu dây vào đâu vậy. Cách nó tìm ra Sophie, cách nó tìm ra khu cắm trại. Cách nó chỉ cho tôi chỗ câu cá ông Paul thích nhất.

Tôi sực tỉnh và lấy tay tự đập vào trán mình. “Phải rồi”, tôi nói. “Em làm gì có phép thuật.”

Nhưng khi giơ chiếc nút buộc dở ra cho Rigby xem, thì tôi phát hiện ra chỗ bị chùng và tìm ra cách luồn dây.

“Đúng rồi. Giờ chị nhớ ra rồi. Đầu tiên mình phải xoắn nó vài lần. Rồi luồn qua đây. Rồi lại luồn qua vòng dây vừa nãy. Chị nghĩ là đúng rồi này, Rig!”

Tôi buộc thật chặt và kéo mạnh chiếc lưỡi câu. Cẩn thận để nó không đâm vào người. Tôi kéo đủ mạnh, cảm tưởng như đứt cả dây, nhưng chiếc nút vẫn nguyên vẹn.

Sau đó tôi kẹp hai miếng chì câu lên sợi cước như ông Paul đã chỉ, cắn thật chặt để chúng kẹp chắc vào sợi cước câu.

Tôi móc bốn quả trứng cá hồi vào lưỡi câu, rồi cẩn thận bước lên chỗ đá tảng trơn trượt. Tôi nâng cần về phía sau đầu, lấy đà chuẩn bị quăng dây thật xa, giống như tôi đã quăng ở hồ vậy. Nhưng sau khi quăng dây, tôi phát hiện nó bị kẹt. Tôi đã móc lưỡi câu của mình vào thứ gì đó, trước khi nó chạm được xuống nước.

Tôi lại trèo xuống dưới và mò theo sợi cước tới chỗ một cành cây. Tôi không đủ cao để gỡ nó xuống. Tôi cố kéo tán cây xuống thì sợi cước đứt phựt.

Tôi thở dài, rồi quay lại chỗ Rigby. Rồi ngồi phịch xuống. “Tuyệt thật”, tôi nói. “Chị làm mất lưỡi câu trước khi nó chạm xuống nước rồi.”

Tôi lại buộc một lưỡi câu nữa vào dây cước, rồi kẹp hai miếng chì, sau đó tiếp tục móc bốn quả trứng cá hồi nữa. Lọ cá hồi bé tí giờ chỉ còn non nửa. Nếu cứ mắc lỗi ngu xuẩn như thế thì chắc tôi sẽ phải tìm cách kiếm loại mồi khác thôi.

Tôi lại bò lên chỗ tảng đá mòn, nhìn xuống nước, cảm giác hơi phấn khích khi thấy hai chú cá hồi bơi sượt qua dưới chân. Tôi tự hỏi liệu tụi sư tử có cảm thấy thế khi nhìn thấy một đàn ngựa vằn phi nước kiệu trên đồng cỏ không.

Tôi thả dây câu và buông dây thẳng xuống dưới.

Đầu tiên thì chẳng có gì cả. Có bao nhiêu cá hồi như thế, mà chẳng con nào cắn câu. Một tia nắng rọi ngay tới chỗ tôi buông câu, và mấy quả trứng phát sáng như những chiếc bóng đèn màu đỏ tí hon ấy.

Tôi quay lại nhìn để chắc rằng Rigby không tự ý bỏ đi đâu hết. Mặc dù tôi biết nó sẽ không bao giờ bỏ đi.

Tôi nghe tiếng ông Paul nói, “Cháu cứ tin tưởng nó đi.”

Tôi hít một hơi thật sâu và thử tin tưởng.

Khi tôi mở mắt ra thì thấy một con cá vân đang ở cách mồi có vài inch. Nó giữ nguyên tư thế và nhìn mồi hệt như ánh mắt tôi đang nhìn nó. Rồi nó bắt đầu quẫy nước bơi gần tới. Nó dừng lại. Rồi chờ đợi.

Nó nhào đến kéo thử một quả trứng cá hồi, rồi giật mình bơi đi mất khi lưỡi câu động đậy. Tôi thề, tôi thậm chí còn không dám thở. Bắp chân tôi bị muỗi cắn mà tôi còn chẳng dám đập nữa kìa.

Con cá khi nãy quay lại nuốt trọn cả móc câu lẫn mồi. Tôi giật mạnh, và nó quẫy ra, bẻ cong cần câu của tôi.

Nó biến mất sau thân cây đổ. Cần câu vẫn cong, nhưng tôi không thấy nó giật nữa. Tôi cố thu dây về, nhưng dây câu bị kẹt. Chắc nó đã móc dây câu vào cành cây rồi.

Tôi kéo dây và chờ đợi.

Cuối cùng, tôi biết mình thất bại rồi, nên tôi đành bỏ cuộc và cắt đứt dây.

Tôi uể oải trèo xuống khỏi tảng đá và bắt đầu lại quy trình. Tôi liếc hũ trứng cá, và tôi biết mình cần tránh xa thân cây đổ kia. Rồi tôi buộc lại lưỡi câu, kẹp chì, móc mồi, rồi đóng và chốt hộp dụng cụ lại.

“Đi nào, Rigby. Tìm cách sang bờ bên kia của dòng suối này nào.”

Cũng không khó lắm. Đến cuối hồ thì dòng suối nông hơn. Có lẽ chỉ khoảng một hay hai foot thôi. Tôi lội qua đó luôn, và cố gắng không bước lên mấy hòn đá trơn. Rigby cũng lội bì bõm ngay sau tôi.

Chúng tôi lại đi bộ tới chỗ nước sâu, nhưng ở phía bờ đối diện. Bên này có mấy hòn đá nhẵn thoai thoải xuống dưới nước, nên tôi không thể trốn lũ cá như lúc trước. Nhưng tôi không muốn để dây cước của mình bị móc vào đâu nữa. Ở đây, nếu tôi câu được cá, thì chúng không thể kéo móc câu của tôi đi được.

Lần này tôi thử dùng một con giun giả. Và tôi cũng ngoái lại nhìn sau lưng mình trước khi quăng dây. Khoảng cách từ chỗ tôi đến cái cây gần nhất khá xa. Nên tôi lấy đà quăng lưỡi câu đi thật xa, đến đúng chính giữa vùng nước sâu.

Dây vẫn chùng. Tôi nhìn xuống Rigby. Nó đang ngồi trên một tảng đá nghiêng.

“Chị lại thấy có hy vọng rồi”, tôi nói.

Tôi tự nhắc mình phải đi tìm đèn pin trong nhà ông Paul, để lần sau chúng tôi có thể ra khỏi nhà sớm hơn. Tôi nghĩ ông là kiểu người sẽ có đèn pin trong nhà để đề phòng trường hợp mất điện. Có lẽ trong thùng xe ông cũng có đèn báo khẩn cấp nữa. Chứ không giống mấy người trong gia đình tôi. Chúng tôi chỉ ngồi hy vọng không có chuyện gì bất trắc xảy đến thôi, nhưng chẳng thực sự chuẩn bị gì cả.

Tôi nằm lên phiến đá, đầu ghé sát chỗ Rigby và cố gắng không ngủ gật. Có lẽ tôi đã ngủ gật một chút. Hoặc có lẽ khi ấy thời gian chẳng hề trôi đi chút nào.

Tôi không thấy đầu dây giật nhẹ như lần trước. Mà ngay từ đầu đó đã là một cuộc chiến thực thụ. Tôi nhổm dậy thật nhanh, và chiếc cần câu cong gần như sắp gập đôi vào. Tôi tự hỏi liệu một con cá có thể làm gãy cần câu không. Nhưng sau đó tôi nghĩ ra rằng dây cước sẽ đứt trước khi cần gãy.

Tôi nhớ tới lời ông Paul dặn. Đừng hấp tấp, nhưng hãy chắc chắn. Đừng để chùng dây. Tôi cứ tiếp tục kéo dây về tới khi con cá trồi lên mặt nước, rồi quăng nó lên một tảng đá cách bờ khoảng mười foot. Nó vẫn đang ngậm lưỡi câu.

Rigby quay đầu sang ngửi để áng chừng kích thước của con cá. Nhưng nó không hề chạm vào cá, hay cản đường tôi.

Tôi lại cầm miệng dưới của con cá giống như cách ông Paul đã làm. Nhưng không thể lôi lưỡi câu ra được. Và tôi thấy có lỗi vô cùng, kiểu như tôi vừa làm nó đau khi cố gắng giằng móc câu như thế. Tôi đành cầm lưỡi câu và cắt dây để nó không đau nữa, và thả nó vào chiếc giỏ câu xâm xấp nước. Lát nữa tôi có thể lấy lại lưỡi câu khi làm sạch cá. Khi đó nó sẽ không thấy đau.

Tôi lại dùng giun giả, vì con cá khi nãy chưa nuốt nó, và vung dây câu ra chỗ nước sâu. Nhưng lần này tôi ngồi thẳng, mặt hướng về phía trước và nhìn chăm chú. Tôi chuẩn bị sẵn sàng. Vì tôi tin lần này sẽ lại câu được cá.

Tôi thề, chỉ khoảng mười phút sau, tôi lại câu được thêm một con cá nữa.

Tôi nghĩ, Câu cá tuyệt thật đấy. Cứ như phép màu vậy. Chỉ cần thả lưỡi câu rồi kéo chúng lên. Cứ mười phút một con trong một buổi sáng như thế. Hoặc, tới khi tôi bắt được số cá tối đa trong ngày là năm con. Rồi tôi lại thấy buồn khi phải ngừng câu cá. Tôi không muốn dừng lại. Cảm giác hệt như lần xếp ngôi nhà thẻ bài ở nhà ông Paul, và tôi phải dừng lại ở lá thứ năm mươi hai vậy.

Tôi thở dài, Cái giới hạn đó đúng là chết tiệt mà. Không biết có ai ra kiểm tra không nhỉ. Không biết họ có để ý nếu tôi câu quá con số quy định không nhỉ. Dù tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ làm vậy.

Đáng lẽ tôi chẳng cần phải vật lộn với bản thân như thế làm gì. Dù sao thì cả sáng hôm đó tôi cũng chẳng bắt thêm được con cá nào nữa.

Tôi đang ngủ thì điện thoại reo.

Khi đó khoảng bốn rưỡi chiều. Tiếng điện thoại làm tôi tỉnh mộng, và khi đứng dậy thì tôi vẫn còn thở hổn hển. Tôi vẫn thấy sợ, mặc dù đã biết đó chỉ là tiếng điện thoại thôi. Tôi cố nhớ lại giấc mơ ban nãy, nhưng không thể.

Tôi không biết liệu mình có nên nhấc điện thoại không. Tôi quên không hỏi ông Paul về chuyện điện thoại.

Tôi tiến lại gần, và giật mình bởi mỗi hồi chuông điện thoại.

Đến hồi thứ tư thì tôi nhấc máy.

“A-lô? Đây là… nhà ông Inverness.” “Là ta, Paul đây.”

Tôi thở hắt một hơi dài, dù chẳng để ý mình đã nín thở lâu đến vậy.

“Ôi, lạy Chúa. Cháu không biết mình có được phép trả lời điện thoại của ông không.”

“Không sao mà”, ông đáp. “Cháu nói như vừa nãy là được rồi.”

“Anh trai ông thế nào rồi ạ? Bác sĩ đã phẫu thuật cho ông ấy chưa ạ?”

“Rồi. Ông ấy phẫu thuật xong rồi. Giờ ông ấy đang nằm phòng hồi sức.”

“Tình hình thế nào ạ?”

Ông không trả lời ngay. Thực ra, ông đã im lặng một lúc khá lâu. Nên tôi hiểu ra.

Cuối cùng thì ông cũng đáp, “Tệ lắm”. Nhưng thực sự ông chẳng cần nói ra điều đó. “Cháu rất tiếc.”

Cả hai đầu dây đều im lặng một hồi.

Sau đó ông tiếp tục, “Cháu còn nhớ cháu đã nói có thể ở lại trông Rigby cả mùa hè nếu ta cần không?”.

“Vâng. Cháu vẫn làm được ạ.”

“Tốt. Vì ta muốn ở lại đây. Cho đến khi…”

Nhưng ông không muốn nói nốt là cho đến khi nào. Dù sao thì tôi cũng hiểu. Câu nói bỏ lửng đó chỉ có một ý nghĩa duy nhất thôi.

“Ông nghĩ là bao lâu ạ? Cháu thì không phiền đâu. Cháu thích ở đây lắm ạ. Cháu chỉ thắc mắc thôi. Ông biết đấy. Mẹ cháu sẽ hỏi. Vậy… ờm… cháu muốn biết để còn nói với mẹ cháu ạ.”

“Họ nói là hai đến bốn tháng. Có lẽ nhiều hơn hai, nhưng chưa đến bốn đâu. Ta sẽ về nhà vài lần để Rigby khỏi lo bị ta bỏ rơi. Và, nghe này… Ta biết nó vẫn ổn. Ý ta là nó vẫn khỏe mạnh. Giờ nó bảy tuổi rưỡi rồi, nhưng nó vẫn khỏe mạnh. Nhưng nếu có chuyện gì không ổn, cháu hãy gọi ta ngay nhé. Ta sẽ trở lại ngay. Nếu cháu cần đưa nó đi bác sĩ thú y, hay nó có hành động gì kì lạ, thì cháu hãy gọi ngay để ta quay lại kịp. Ta mong được ở bên cô chó của mình vào ngày cuối cùng của đời nó.”

Tôi thấy khó chịu khi ông nói vậy. Ý tôi là, tôi hiểu lí do ông nói điều đó, và tôi biết ông cần nói ra. Tôi chỉ mong mọi chuyện không phải vậy. Tôi mong mọi chuyện sẽ không xảy ra như lời ông nói.

“Nó ổn mà ông. Nó vẫn khỏe mạnh lắm ạ.”

“Ta biết nó khỏe. Chỉ là giờ ta hơi sợ thôi. Cuộc sống này có vẻ ngắn ngủi quá.”

“Nó ổn ạ.”

Ông lại đổi giọng, như thể vừa tỉnh mộng. “Cháu phải nhận tiền công thôi. Có lẽ ta sẽ phải đi vài tháng đấy.”

“Không. Không đời nào. Ông đừng nhắc lại chuyện này nữa. Ông và cháu là bạn bè mà.” Ông lại im lặng hồi lâu. Rồi tôi tiếp tục, “Cháu rất tiếc khi ông phải trải qua những chuyện này”.

“Cảm ơn cháu.”

“Ông có thể gọi cho cháu. Ông biết đấy. Nếu lúc nào đó ông muốn nói… chuyện.”

Ông Paul lại lặng thinh.

“Cháu biết đấy, có lẽ ta sẽ chấp nhận lời đề nghị vừa rồi của cháu. Nghe thật chẳng giống ta chút nào, nhưng cũng không phải là không thể. Ta sẽ cập nhật tình hình cho cháu.

Ta sẽ gọi lại sớm.”

Tôi nghĩ ông Paul vừa trút hết gánh nặng kìm nén bấy lâu. Nên chúng tôi nhanh chóng kết thúc cuộc chuyện trò rồi gác máy.

Tôi nhìn quanh nhà ông. Tự nhiên có cảm giác nhẹ nhõm khi không phải rời khỏi nơi này sớm. Tôi đã bắt đầu quen thuộc với ngôi nhà này.

Tôi lôi hai chú cá trong tủ lạnh ra, rồi đặt chúng vào chiếc giỏ câu. Sau đó, tôi quyết định bỏ thêm chút đá để giữ chúng lạnh suốt quãng đường.

Tôi xỏ chân vào giày, dù đôi giày vẫn ướt nhẹp.

“Đi nào, Rigby”, tôi gọi. “Đi mang bữa tối cho Sophie và mẹ nào.”

Điện thoại lại đổ chuông.

Lần này tôi nhấc máy nhanh hơn. “A-lô?”

Rồi tôi sực nhớ mình quên không trả lời đúng cách như lần trước. Trả lời kiểu lịch sự ấy.

“Lại là ta đây.” “Vâng.”

“Ta vừa nghĩ.”

Giọng ông có vẻ nghiêm túc. Và tôi thấy sợ. Tôi nghĩ mình sắp ngã khuỵu xuống lần nữa.

“Về chuyện gì ạ?”

“Ta vừa nghĩ cả nhà cháu nên chuyển tới căn phòng phía trên ga-ra trong thời gian ta vắng nhà.”

Tôi không trả lời. Vì tôi không thể. Miệng tôi như kiểu không còn hoạt động nữa vậy.

“Ta muốn nói là, không chỉ trong thời gian ta vắng nhà thôi đâu. Nhưng ta vẫn phải nói thật lòng, rằng ta không hứa sẽ cho mấy mẹ con ở đây mãi mãi được. Khi ta trở lại, ta nghĩ chúng ta nên thống nhất một vài nguyên tắc cơ bản về quyền riêng tư. Nếu mọi người có thể làm theo những nguyên tắc đó thì tốt. Còn nếu không, thì mẹ con cháu có thể ở tạm đó cho tới khi tìm được nơi ở mới. Nhưng kể cả nếu chuyện này không thành thì mẹ con cháu vẫn tiết kiệm được vài tháng tiền thuê trọ mà, phải không?”

“Vâng. Chúng cháu tiết kiệm được cả đống tiền đấy ạ. Chúng cháu sẽ tuân thủ quy tắc.”

“Ta biết cháu sẽ giữ lời hứa mà. Chúng ta sẽ xem xét tình hình, được chứ? Ta không hứa trước gì đâu nhé.”

“Vâng ạ.”

“Chỉ mình cháu được ở trong nhà chính thôi nhé. Làm ơn, kể cả khi ta vắng nhà. Chỉ mình cháu ở đó thôi, được không? Kể cả khi ta chẳng bao giờ biết.”

“Ông biết cháu sẽ luôn kể cho ông sự thật mà. Ngay cả khi ông không bao giờ biết.”

“Ta biết. Có chứ. Ta biết cháu sẽ làm thế. Điều này sẽ thực sự giúp ích cho cháu chứ? Hay ta chỉ đang tưởng tượng ra rằng nó có ích?”

“Nó thực sự có ích đó ạ. Rất nhiều luôn ạ.”

Im lặng.

Rồi tôi quyết định hỏi điều mình đang dồn nén từ nãy. “Tại sao ạ? Tại sao ông lại đột ngột quyết định như thế?”

“Ta tưởng đó là chuyện hiển nhiên chứ” ông đáp. “Cháu xin lỗi”, tôi nói.

“Vì chúng ta là bạn.”

“Ồ. Phải rồi. Vì chúng ta là bạn.”

Tôi bước xuống lối cầu thang phía sau nhà lên chỗ con đường đất, vẫn nghe rõ tiếng chân Rigby đằng sau. Tôi chưa bao giờ ra chỗ ga-ra nhà ông Paul. Nó to hơn so với khi tôi nhìn từ phía nhà chính nhiều. Nó rộng và sâu hơn những ga- ra thông thường, và đủ chỗ chứa hai chiếc ô tô. Trong đó còn có một nơi để dụng cụ và một khu trữ gỗ đốt lò sưởi. Tôi leo lên cầu thang và thử mở cửa, nhưng cửa ở đó bị khóa.

Tôi đã nghĩ mình lại phải đi cả quãng đường quay lại nhà chính rồi tới đây, nhưng khi sờ túi quần soóc, tôi phát hiện mình đem theo chùm chìa khóa nhà ông Paul. May thật đấy. Không phải vì tôi ngại đi bộ thêm vài thước đâu. Mà vì tôi quá nóng lòng muốn được xem căn phòng đó.

Tôi mở cửa và hít mạnh tới nỗi khiến Rigby giật nảy người. Chắc chỗ đó phải to gấp đôi chỗ trọ của mẹ con tôi hiện giờ. Và cách bài trí trong đó cũng giống ở nhà chính, với sàn gỗ cứng, cửa gỗ và những cánh cửa chớp bên trong. Khoảng hai phần ba diện tích sàn được phủ bằng chiếc thảm Ba Tư kiểu cổ màu xanh nền nã tuyệt đẹp, và một bức tường dành hẳn cho giá sách.

Nhưng trong đó không có phòng ngủ. Mọi thứ đều tập trung trong một căn phòng lớn. Nhưng tôi thấy một tấm màn, trông giống tấm vách ngăn xung quanh chiếc giường. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ cần thêm một chiếc giường nữa, nếu chiếc tràng kỷ Thụy Điển lớn màu nâu kia không nới rộng ra được. Nhưng lúc đó tôi thấy mình chưa cần lo lắng về điều này. Một góc phòng được bài trí hệt như một căn bếp nhỏ, với một chiếc bếp hai ổ, bồn rửa bát và một chiếc tủ lạnh, giống mấy chiếc trong những ngôi nhà di động. Trong đó còn có một bàn bếp tròn và hai chiếc ghế nữa. Vậy là chúng tôi cần thêm một chiếc ghế. Nhưng đây cũng chưa phải vấn đề cần giải quyết ngay.

Phía sau căn phòng, đối diện với những dãy núi phủ tuyết trắng xóa, hầu hết diện tích tường được thay bằng cánh cửa kính lùa trượt mở ra phía hiên nhà. Bạn có thể đi tới đó, nhìn ra cảnh quan bên ngoài, và cảm giác như đang thực sự đứng ngoài đó vậy. Không giống như khi bạn ngắm cảnh từ trong nhà đâu. Hoặc bạn có thể mở cửa và đứng ra hiên nhà gỗ có lan can. Tôi đã thử ra ngoài đó một phút. Tôi chỉ muốn thử xem cảm giác ngoài đó ra sao. Ở đó có mấy chiếc ghế gỗ để mọi người ngồi ngắm cảnh, nhưng tôi không ngồi, vì vẫn chưa khám phá xong.

Nhưng thậm chí đó vẫn chưa phải phần tuyệt nhất của căn phòng.

Căn phòng được xây theo kiểu khung chữ A, tôi đoán là để cho đồng bộ với căn nhà chính. Tôi không nghĩ nó được xây như vậy ngay từ đầu, nhưng trần nhà khá cao và dốc, nên cảm tưởng phần giữa trần cứ cao lên mãi. Nó có nhiều xà ngang, nên có thể treo giỏ và hoa khô ở đó. Mỗi bên mặt dốc của mái nhà đều có một cửa sổ nữa.

Hóa ra từ trước đến giờ tôi mắc chứng sợ không gian hẹp bởi những nơi tôi từng sống đều chật hẹp quá. Đột nhiên tôi lại khỏi bệnh như chưa từng mắc phải.

Tôi đi lại vài vòng xung quanh phòng một lúc, như thể đang bước trong mơ. Tôi nghĩ mình thực sự có cảm giác đó. Tôi lướt tay qua gờ giá sách. Tôi thử nhảy một lần lên tràng kỷ để xem cảm giác ra sao.

Cảm giác đúng như tôi tưởng tượng giàu có. Kiểu như tôi đột nhiên trở nên giàu có ấy.

Tôi đi quanh phòng như vậy một lúc, vì không thể nghĩ ra việc khác để làm. Rồi tôi ngồi xuống giữa tấm thảm và òa khóc. Rigby ngồi xuống bên tôi.

Đầu tiên, tôi đã cố giải thích với nó rằng không phải tôi khóc vì buồn. Thực ra là vì trước đây tôi đã buồn quá nhiều thì đúng hơn. Rằng mọi chuyện trước đó thật tồi tệ, và tôi đã chẳng dám khóc cho tới khi chúng kết thúc.

Nhưng có lẽ tôi đang tự giải thích cho chính mình thì đúng hơn. Vì Rigby đâu có hiểu những điều tôi nói.

Tôi chỉ biết mình đã khóc rất lâu.

Tôi cho thêm đá lạnh lên mấy con cá trước khi chúng tôi rời đi, và trong lúc chúng tôi tản bộ thì đá bắt đầu tan và nhỏ giọt lên cẳng chân tôi. Hơi có mùi tanh một chút. Tôi cứ nghĩ sẽ có một bầy mèo theo đuôi chúng tôi, hay đại loại thế cơ. Ở trong hoạt hình là vậy mà.

Nhưng điều đó chẳng hề xảy ra.

“Hy vọng em không thấy buồn” tôi nói với Rigby. “Chị biết khi ông Paul bắt được hai con cá, thì em sẽ được chén một con. Nhưng mình phải nhường hai con cá đầu tiên này cho Sophie và mẹ chị, vì họ không được ăn đủ chất như chúng ta. Nếu lần sau chị bắt được bốn con, thì em sẽ được một con. Mà thôi, thế này nhé. Nếu chị bắt được hai con cho mẹ và Sophie, rồi lại bắt được thêm một con nữa, thì chị sẽ chia đôi nó với Rigby nhé.”

Tới lúc đó, chúng tôi đã đi tới đường lái xe vào nhà trọ cũ. Thật buồn cười khi suy nghĩ của tôi thay đổi chóng vánh đến vậy. Chắc chắn tôi chẳng phải tốn công suy nghĩ gì nhiều khi quẳng nơi ở chật chội, đắt đỏ đó đi luôn như thế. Tôi kiểm tra giỏ câu xem đá đã tan hết chưa, nhưng trong đó vẫn còn đủ đá để giữ cá lạnh. Còn những hơn nửa số đá ban đầu cơ.

Chắc mẹ đã nhìn thấy tôi và Rigby qua cửa sổ, vì mẹ đã mở toang cửa.

“Con không đem nó vào đây được đâu. Ông bà Magnusson sẽ đuổi chúng ta mất.”

Ông bà Magnusson là những người sống ở nhà chính. Họ là chủ nhà của chúng tôi.

“Được rồi. Mẹ ra đây đi.”

Sophie nghe thấy tiếng tôi liền lao ngay ra ngoài và hét lớn “Chu, Chu, Chu!”.

Tôi đưa giỏ câu cho mẹ.

“Hôm nay con bắt được hai con cá. Nhưng con cần lấy lại chiếc giỏ.”

“Được rồi. Mẹ sẽ bỏ cá vào tủ rồi đem trả cho con.”

“Đợi đã. Con có tin mới này.”

“Chỉ mất một phút thôi.” Mẹ quay vào nhà.

“Mẹ phải làm sạch ruột cá đấy”, tôi gọi với theo. “Mẹ có biết làm cá không đấy?”

“Mẹ sẽ xoay xở”, mẹ nói vọng ra.

“Thế lần sau mẹ dạy con nhé? Và mẹ đừng vứt lưỡi câu trong miệng nó đi đấy. Con phải tiết kiệm số lưỡi câu còn lại.”

Nhưng tôi không biết liệu mẹ có nghe thấy câu đó hay không.

Tôi nhìn xuống Sophie. Em đang ngồi cạnh Rig trên nền đất. Tôi tự hỏi không biết con bé có nghĩ chúng tôi sắp đi dạo không. Tôi cũng thấy hơi ngạc nhiên khi nhận ra mình nhớ con bé nhường nào. Mặc dù chỉ mới xa em chưa tới hai ngày.

Mẹ trở ra và trả tôi chiếc giỏ câu rỗng. “Con có chuyện gì thế? Tốt hay xấu?” “Tốt ạ.”

“Ôi, ơn Chúa. Thế con nói luôn đi.”

“Chắc ông Paul sẽ vắng nhà lâu hơn dự định...” “Bao lâu?”

“Chắc phải mấy tháng ạ.”

“Ờ, tốt”, mẹ đáp. Như kiểu chuyện đó chẳng hề tốt đẹp tẹo nào. “Vậy chắc ông ta phải trả nhiều tiền cho con lắm. Vì chẳng có chuyện gì tốt hơn thế nữa. Con tới đây nói với mẹ rằng mẹ phải tự đi làm, kiếm tiền trả hóa đơn và trông nom Sophie hàng mấy tháng trời, và con nói đó là tin vui. Vậy chắc hẳn tin vui đó phải đem lại nhiều tiền lắm. Hãy nói vậy với mẹ đi.”

“Không phải chuyện tiền nong. Con sẽ không nhận tiền của ông ấy đâu.”

“Vậy con nói đến phần vui vẻ đi, Angie, và nói nhanh lên, vì đầu mẹ sắp nổ tung rồi đây. Nếu con nghĩ mẹ sẽ...”

“Ông Paul cho chúng ta chuyển đến sống ở căn phòng phía trên ga-ra nhà ông ấy.”

Mắt mẹ giãn ra một chút. “Nó rộng cỡ nào?”

“To hơn chỗ này ạ.” “Có đẹp không?”

“Đỉnh lắm. Đẹp hơn tất cả những nơi mẹ con mình từng sống luôn.”

“Thế thì chúng ta không đủ tiền trả đâu.” “Thế mà vẫn được đấy mẹ ạ.”

“Thế ông ta muốn gì?” “Không gì cả ạ.”

Chúng tôi chỉ đứng lặng im dưới ánh mặt trời ấm áp, trong khi mẹ tôi cố tiếp nhận tin tức mới. Rigby đang hít hà tóc Sophie.

“Ông ấy cho chúng ta đến ở miễn phí á?” “Vâng.”

“Tại sao?”

“Vì con không chịu nhận tiền chăm sóc chó giúp ông ấy. Cái ý tưởng mẹ cho là tồi tệ ấy.”

Mẹ cứ đứng đó chớp chớp mắt thêm một lúc nữa. Tôi biết mẹ vẫn chưa kịp hiểu hết vấn đề.

“Chỉ trong lúc ông ấy đi vắng thôi à?”

“Cũng không hẳn ạ. Ông nói khi ông quay về, chúng ta sẽ phải thống nhất một vài quy tắc cơ bản về quyền riêng tư. Nếu mẹ và Sophie tuân thủ được, thì chúng ta có thể ở lại. Còn nếu không thì chúng ta có thể ở đó tạm cho đến khi tìm được nơi ở mới.”

Tôi chờ đợi. Nhưng mẹ chỉ tiếp tục chớp chớp mắt. “Con đang đợi mẹ hiểu ra và bắt đầu thấy vui vẻ”, tôi nói. Câu đó cứ như thể vé số độc đắc. Nét mặt mẹ thay đổi, như kiểu có ai vừa ngưng dùng gậy kích điện chọc gia súc mà chọc mẹ ấy. Mẹ chạy vội đến ôm chầm lấy tôi.

“Ôi, Chúa ơi”, mẹ la lên. “Miễn phí thuê nhà á?” “Miễn phí thuê nhà.”

“Vậy thì số tiền mẹ kiếm được…”

“Chúng ta có thể dùng số tiền đó mua đồ ăn. Và mua cả xăng xe nữa. Đại loại vậy.”

“Ôi Chúa ơi, chúng ta sẽ có rất nhiều tiền!” Giọng mẹ gần như rít lên ở chữ tiền, khiến tôi thấy nhức lỗ nhĩ. Nhưng tôi chẳng quan tâm. Mẹ đặt tôi xuống và thả tay ra. Hai tay mẹ giữ chặt vai tôi. “Chúng ta tới đó xem được không?”

“Được chứ. Xe còn xăng không mẹ?”

“Chẳng còn tẹo nào. Mẹ không chắc nó còn khởi động được không nữa. Mình phải đi bộ thôi.”

“Cũng được ạ. Thế mình đi bộ vậy.”

Khi bốn chúng tôi cùng nhau đi xuống đường, mẹ vuốt nhẹ tóc tôi và nói, “Con yêu, mẹ xin lỗi vì gần đây mẹ đúng là xấu tính thật. Mẹ biết con ở gần mẹ thật không dễ chịu gì. Mẹ đang phải chịu nhiều áp lực lắm, và mẹ thấy sợ hãi”.

“Con biết”, tôi đáp. “Con biết mà.”

Nhưng trước đây, mỗi khi tôi nói ra điều đó thì mẹ đều chối bay chối biến. Nên thật tốt khi được nghe chính miệng mẹ thốt ra. Không phải tôi muốn mình luôn luôn đúng đâu. Tôi thấy cảm giác này nhẹ nhõm như khi người khác công nhận mình không hoang tưởng, hoặc không bị điên ấy.

“Ôi. Chúa. Ơi!” Mẹ tôi thốt lên.

Mẹ đang ngước lên nhìn trần nhà khi thốt lên câu đó. Mẹ nhìn mấy thanh xà ngang, với những chiếc giỏ và hoa khô. Và cả khoảng không giữa chúng tôi và trần nhà. Cả căn phòng đó. Cảm giác giống như được tự do vậy. Giống như chúng tôi không phải co khuỷu tay vào mà sống, dù tôi biết so sánh như vậy thì không đúng cho lắm, vì câu đó là tính về chiều rộng, còn ở đây tính theo chiều cao cơ mà. Nhưng tôi thực sự đã có cảm giác ấy.

“Trong này nhìn to hơn so với bên ngoài nhiều. Con nói là chúng ta có thể ở đây mãi mãi mà không cần trả tiền thuê hả? Mẹ vẫn chưa hiểu lắm.”

“Nói là mãi mãi thì hơi lâu quá đấy ạ” tôi đáp. “Nhưng nếu mọi chuyện ổn thỏa, thì chúng ta sẽ không phải chuyển đi nơi khác khi ông Paul quay lại.”

“Mẹ sẽ tuân thủ quy tắc. Mẹ hứa.” “Con đã bảo đó là tin vui mà.”

“Ừ, thật tuyệt.”

Rigby đang nằm duỗi người trên tấm thảm hệt như tượng nhân sư. Hồi còn ở phía bên kia hàng rào nhà Dì Vi, em cũng thường nằm cái dáng ấy. Sophie cũng đang nằm ngay cạnh Rigby, và bắt chước y hệt dáng nằm đó.

“Anh trai ông ấy sao rồi?” “Ông ấy sắp qua đời ạ. Đó là lí do ông không thể về ngay.” “Ồ, mẹ rất tiếc. Chắc chuyện đó khó chấp nhận lắm.

Anh trai ông ấy tên gì thế?”

“Mẹ hỏi tên anh trai ông ấy làm gì?”

“Mẹ chỉ hỏi thôi. Mẹ muốn biết tên người khác thì có gì sai chứ?”

“Là Dan”, tôi đáp.

Đầu tiên thì mẹ chẳng nói năng gì. Rồi mẹ nói, “Úi”. Rồi một phút sau mẹ hỏi tiếp, “Chiếc tràng kỷ này có mở rộng ra được không?”.

“Con không biết. Con chưa thử.” “Thế giờ mình thử xem nào.”

Mẹ lôi hết đống gối trên tràng kỷ ra rồi ném bừa lên tấm thảm. Tôi định bảo mẹ nên nhẹ nhàng thôi, dù tôi không nghĩ mấy chiếc gối sẽ thấy đau khi bị ném lên thảm như vậy.

“Được này”, mẹ nói. “Hình như còn có ga trải đệm nữa chứ. Chà. Vải flanen cơ đấy. Mẹ và Sophie sẽ ở đây, còn con ngủ ở góc sau tấm vách ngăn nhé? Vì con muốn được riêng tư mà.”

“Vâng, để sau này ạ. Sau khi ông Paul trở về. Từ giờ tới lúc đó, con sẽ ngủ trong nhà chính, còn Sophie và mẹ được dùng chỗ này thỏa thích.”

Mẹ không trả lời ngay. Thay vào đó, mẹ lại đến bên cửa kính ngắm mấy dãy núi. Tôi bước tới bên mẹ và cũng nhìn về hướng đó.

“Nếu một, hay hai năm trước con nói với mẹ rằng chúng ta sẽ tới đây”, mẹ nói, “Thì mẹ sẽ bảo con là đồ điên. Hồi đó chúng ta chỉ có đủ tiền để thuê một căn hộ trong khu dân cư tồi tàn trong thành phố thôi. Và giờ chúng ta đang ở đây, trong căn hộ tuyệt đẹp ở thị trấn nhỏ xíu này, trường học thật tốt và không khí cũng trong lành…”.

“Và Sophie cũng yên lặng nữa.”

“Đổi lại, mẹ sẽ có chút thời gian cho riêng mình, vì chắc Sophie sẽ muốn được ở nhà chính cùng con chó.”

“Không”, tôi quả quyết, và mẹ nhìn tôi bằng ánh mắt hiếu kì. “Chỉ mình con được ở nhà chính thôi. Cả Sophie hay mẹ đều không được. Con đã hứa với ông Paul rồi.”

“Ông ấy không bao giờ biết được điều khác biệt đâu.” “Ôi Chúa ơi! Con không thể tin mẹ được! Vừa mới hai phút trước mẹ còn đứng đó hứa hẹn sẽ tuân thủ quy tắc cơ mà. Mẹ có muốn được ở lại đây hay không vậy?”

Mẹ lảng mắt nhìn chỗ khác, hệt như những lần trước bị tôi bắt bài vậy. Sau vài giây như thế, thì mẹ quay lại chỗ tràng kỷ và ngồi phịch xuống thở dài. Mẹ giống hệt như quả bóng xì hơi ấy.

Tôi giả vờ không quan tâm đến mẹ một lúc. Sau đó, tôi đến ngồi cạnh mẹ. Cả hai chúng tôi chẳng nói với nhau câu nào. Sự im lặng ấy càng thêm nặng nề và kì quặc.

Nên tôi hỏi, “Mẹ đang nghĩ gì thế?”.

Mẹ cũng thường hỏi vậy khi tôi còn bé. Nhất là sau khi ba tôi qua đời. Đây là lần đầu tiên tôi nói như thế với mẹ. Thông thường tôi sẽ thấy vui khi không phải biết mẹ đang nghĩ gì.

“Mẹ đang nghĩ về chuyện con giúp chúng ta có được nơi này để sống. Còn mẹ thì cứ thúc giục con phải bắt ông ấy trả tiền cho công việc chăm chó. Đáng lẽ mẹ phải dạy con mấy thứ kiểu như ‘Gieo nhân nào, gặp quả nấy’. Chứ không phải để con dạy mẹ.”

“Vâng, ưm, mẹ cũng đừng tin tưởng nhiều vào việc con làm người dạy nhé” tôi đáp, cố gắng thu bé lại làm đứa con của mẹ. “Đa phần là con không biết mình làm gì đâu.”

“Lúc nào mẹ cũng như vậy hết”, mẹ đáp.

Câu đó nhắc tôi rằng tôi có thể làm trọn vai trò người con lúc nào cũng được, nhưng muốn mẹ đảm nhiệm vai trò của chính mẹ, lại là chuyện hoàn toàn khác.

Ông Paul gọi lại vào lúc mười một giờ đêm hôm sau. Tiếng chuông điện thoại khiến tôi choàng tỉnh. Khi đó tôi đang mơ, và thật kì lạ là hình như Nellie cũng ở trong giấc mơ đó. Nhưng chị ấy đã tan biến ngay sau hồi chuông thứ nhất.

Thật may là cạnh giường có một chiếc điện thoại.

Tôi trả lời điện thoại. Tôi bật đèn, nhưng cũng không biết vì sao mình phải làm thế. Hôm nay trăng tròn, nên tôi vẫn nhìn thấy điện thoại dù không có đèn. Ánh đèn điện rọi tới làm lóa mắt, và tôi phải lập tức nheo mắt lại.

“Ta biết mình đã đánh thức cháu” ông mở lời. “Ta biết mình sẽ đánh thức cháu. Ta xin lỗi. Nhưng cháu đã nói ta có thể gọi điện tới.”

Tôi lại tắt đèn. Mọi thứ lại tối om, cho tới khi mắt tôi thích nghi trở lại với ánh trăng và bóng tối.

“Không sao đâu ạ. Cháu đang nghỉ hè mà. Cháu có thể ngủ nướng đến giữa trưa nếu muốn ấy chứ.”

“Ta cứ nghĩ về chuyện cháu nói chúng ta là bạn. Và ta cũng nói chúng ta là bạn. Và nếu là bạn bè thì chúng ta có thể gọi điện và nói chuyện với nhau vào những lúc thế này. Và… ờm… Ta ghét phải thú nhận điều này. Vì nó khá thê thảm. Nhưng thực sự ta không thể nghĩ ra ai khác ta có thể nói chuyện được.”

Tôi muốn nói với ông rằng tôi thấy rất vinh dự... không, thực ra tôi thấy cảm động từ tận đáy lòng... rằng ông chủ động gọi điện tìm tôi nói chuyện. Tôi cứ nghĩ ông sẽ không bao giờ gọi cho tôi chứ. Đột nhiên tôi thấy mình quan trọng. Giống như có người công nhận bạn giỏi chuyện gì đó, ngoài việc trông nom em gái vậy.

Ông vẫn không nói thêm gì cả, còn tôi thì không biết mình nên nói gì. Rigby đang ngủ cùng tôi trên giường. Nó nằm nghiêng về một bên, lưng chạm vào hông tôi, còn chân thì giơ ra ngoài khoảng không. Tôi gãi nhẹ sau tai nó, sau đó nó duỗi người.

“Ở đây chẳng ai nói chuyện với ta cả” ông nói. “Kì lạ lắm.” “Ông không nói chuyện được với bà Rachel ạ?”

“Có và không. Chúng ta cũng nói với nhau vài điều. Nhưng ta cảm giác chẳng có gì là thật lòng cả. Ta nghĩ cả ta và bà ấy đều bị sốc. Nên chúng ta đi lại xung quanh như thể mỗi người đều trùm một chiếc chăn bông. Chúng ta nói với nhau đôi điều, nhưng chẳng giống bình thường chút nào. Những lời chúng ta nói dường như chẳng có ý nghĩa gì. Chẳng giống thật gì cả.”

Tôi đợi một lát để chắc chắn ông đã nói xong phần mình. “Cháu cứ hy vọng ông sẽ nói chuyện nhiều hơn với ông Dan cơ. Ông biết điều mọi người thường nói ấy… đôi khi… chà, cháu không biết nữa. Cháu không chắc, nên có lẽ cháu không nên nói ra điều này. Nhưng mọi người nói những người đang cận kề cái chết thường cư xử khác lắm, và thi thoảng những mối hận thù xưa cũ và đại loại… thực ra, cháu không biết chính xác họ cư xử ra sao. Cháu chỉ hy vọng hai ông có thể nói chuyện với nhau thôi.”

“Ông ấy mất trí rồi” ông Paul nói. Rồi ông đột nhiên im lặng. Sau đó ông tiếp tục, “Ý ta không phải vậy đâu. Ta không định xúc phạm anh trai mình đâu. Thực sự là ông ấy mất trí rồi. Dan phải uống quá nhiều thuốc giảm đau các loại, nên giờ ông ấy trở thành một người khác hoàn toàn. Phân nửa thời gian, ông ấy không biết mình là ai, đang ở đâu, hay chuyện gì đang diễn ra. Ông cứ đòi ta phải đưa một tập giấy để ghi lại mọi thứ”.

Dường như ông không định nói tiếp, nên tôi đành hỏi “Ghi lại cái gì cơ ạ?”.

“Chỉ là những thứ ông ấy nghĩ mình sẽ quên thôi. Dan vẫn nghĩ mình còn chuyện phải làm. Ta phải mất năm hay mười phút để trấn an ông ấy. Ta phải thuyết phục rằng ông ấy không cần phải chịu trách nhiệm về điều gì nữa. Khi đó Dan sẽ đặt tập giấy xuống và ngủ lịm đi, nhưng khi tỉnh dậy thì mọi thứ lại bắt đầu như cũ. Chỉ vài phút trước thôi, ta vừa mới mua một tập giấy mới toanh cho ông ấy vì tập giấy cũ đã hết. Ta chỉ vừa mới lôi nó ra khỏi bọc ni-lông thôi. Thế mà một phút sau ông ấy gọi ta vào và nói tờ giấy nào cũng có chữ viết cả rồi. Vừa mới mua về cơ mà. Ta vào xem thử, và cả cuốn tập vẫn còn trắng nguyên. ‘Dan à,’ ta nói, ‘giấy trắng mà’. Bọn ta xem cuốn tập cùng nhau, từng trang một, và khi lật đến mỗi trang ta đều nói, ‘Có gì đâu. Trên này chẳng có gì hết’. Và tới mỗi trang, ông ấy đều nói, ‘Chú đùa anh à’.”

Khi đó mắt tôi đã hoàn toàn thích nghi với ánh trăng, và tôi cảm thấy thoải mái hơn với màn đêm tranh tối tranh sáng trong phòng. Ở một mình cùng Rig, nhưng tôi lại không cảm thấy cô đơn. Tôi thấy gió uốn cong ngọn cây ngoài cửa sổ phòng ngủ. Tôi thấy cả những bóng đang nhảy múa bên ngoài, và trên một mảng tường, tôi thấy lờ mờ những bóng cây dập dìu trong ánh trăng.

“Tệ thật đấy ạ”, tôi nói.

“Đó chưa phải đoạn khó khăn nhất đâu.”

“Phải rồi. Cháu nghĩ vậy.”

“Ta thậm chí còn không biết diễn tả phần khó khăn thế nào. Nhưng có lẽ cháu biết đấy.”

“Cháu nghĩ vậy. Cháu nghĩ là vì bà Rachel, bà ấy sắp trở thành phụ nữ độc thân. Nhưng ông không muốn thấy bà ấy rơi vào cảnh góa phụ. Chắc ông đang tự hỏi liệu mình có cơ hội nào không. Nhưng có lẽ ông cũng cảm thấy tệ vì đã thắc mắc như vậy. Và cháu biết ông không thể nào tâm sự với bà ấy, khi chồng bà sắp…”

Tôi ngừng nói, vì tôi nghe thấy một tiếng động nhỏ ở đầu dây bên kia. Chỉ là một tiếng khịt mũi. Chắc ông bị dị ứng với thứ gì đó. Hoặc ông bị cảm. Nhưng có thể không phải vậy. Bởi nếu thế thì tôi phải nghe thấy ngay từ đầu chứ.

“Ông ổn không ạ?” Tôi hỏi. “Ừ.”

Và dù chỉ nói mỗi một từ đó thôi, tôi vẫn biết ông đã bật khóc. Hoặc có điều gì đó trong cuộc nói chuyện của chúng tôi đã khiến ông bật khóc. Tôi đoán đó là cuộc đời. Tôi không nghĩ một người như ông Paul sẽ khóc. Tôi nghĩ người như tôi mới khóc chứ. Tôi cứ nghĩ những người như ông Paul sẽ luôn giải quyết được vấn đề cơ.

“Ừm. Ta không ổn lắm. Nhưng ta không sao đâu. Ý ta là, chuyện này thật tệ. Nhưng ta không gục ngã đâu. Ta sẽ ổn thôi.”

“Cháu xin lỗi nếu đó là điều cháu không nên nói.”

“Không, thật tốt khi cháu nói ra điều đó. Vì ta sẽ không cần phải nói nữa.”

Cả hai chúng tôi đều im lặng một lúc lâu. Nhưng tôi không hề thấy sự im lặng đó khó chịu.

Rồi ông Paul hỏi, “Nhà cháu chuyển đến chưa?”. “Chưa ạ.”

“Ta nghĩ gì vậy nhỉ? Ta mới nói điều đó hôm qua thôi mà. Chúa ơi. Ta cứ nghĩ phải một tuần trôi qua rồi ấy. Ta thấy những ngày này dài lê thê.”

“Mẹ và em cháu đã đến xem căn phòng. Ba ngày nữa mẹ cháu mới có lương. Bây giờ thì mẹ không có tiền đổ xăng xe để chuyển đồ đạc của chúng cháu đến đây. Nên ba ngày nữa nhà cháu mới chuyển tới được. Vì mẹ cháu sẽ không phải để dành lương trả tiền thuê nhà tháng sau nữa. Giờ nhà cháu có tiền để mua đồ rồi. À, ý cháu là… chúng cháu sắp có. Trong ba ngày nữa.”

“Ta tưởng mẹ cháu có tiền boa?”

“À, không ạ. Mẹ cháu bỏ việc ở nhà hàng lâu rồi. Giờ mẹ làm việc ở hiệu thuốc khi Sophie đi học.”

“Cháu lấy tờ hai mươi đô ta kẹp dưới hộp đồ ăn cho chó ấy. Cháu có thể trả lại khi mẹ cháu nhận lương.”

“Ồ. Vâng ạ. Nếu ông cho cháu mượn số tiền đó.”

“Tất nhiên rồi. Ta đang ngạc nhiên là cháu không nghĩ đến đấy.”

“À. Cháu vẫn biết là có tờ tiền ở đó mà. Nhưng đó là tiền của ông. Tiền đó để mua đồ ăn cho Rigby mà.”

“Dù ta sẽ chẳng bao giờ biết. Cháu nghe này. Ta đã gọi cho cửa hàng tạp hóa và bảo họ cho cháu mua chịu bằng tên của ta. Nên nếu cháu cần mua thêm đồ ăn cho chó thì cứ tới đó nhé. Kể cả nếu cháu cần mua thêm đồ ăn thì cứ mua chịu ở đấy, nhưng làm ơn đừng mua đồ cho cả nhà cháu, được chứ?”

“Cháu sẽ không mua gì ngoài đồ ăn cho Rigby ở đó đâu. Nhà cháu giờ có đủ tiền mua thức ăn rồi ạ. Nhờ có ông đấy.”

“Ta nên để cháu ngủ tiếp thôi.”

“Ông biết đấy, ông có thể gọi cháu bất cứ lúc nào nếu có chuyện không ổn.”

“Ừ”, ông nói. “Ta biết rồi.”

Sau khi chúng tôi dập máy, tôi thắc mắc không biết khi đó ông đang ở đâu. Có lẽ ông đang ở nhà cũ, ngay phía bên kia hàng rào nhà Dì Vi.

Đáng lẽ tôi nên nhờ ông nói với Dì về tình hình của chúng tôi, rằng chúng tôi rất ổn khi ở đây. Có lẽ Dì sẽ cảm thấy có lỗi, vì đã đuổi chúng tôi khỏi nhà như thế. Chắc Dì sẽ thắc mắc tình hình của chúng tôi hiện giờ ra sao, hay chúng tôi đang ở đâu. Tôi tự hỏi liệu mẹ có báo cho Dì không nhỉ.

Rồi tôi cười khịt một tiếng to, khiến Rigby giật mình tỉnh dậy và ngóc đầu lên nhìn tôi.

“Không có gì đâu”, tôi nói. “Ổn mà, cô gái. Ngủ tiếp đi nào.”

Nó lại ngủ tiếp.

Tôi tự nhắc bản thân rằng lần tới nói chuyện tôi sẽ nhờ ông Paul chuyển lời hộ. Vì tôi không thể trông cậy chuyện đó ở mẹ mình được.