C
ăn phòng gần như chẳng thay đổi mấy dù chúng tôi đã chuyển đồ đến. Sau một hồi dịch chuyển, giường, bàn ghế, và những đồ vật nặng đã đổi sang vị trí khác. Tôi cố nhớ lại xem mẹ con tôi đã chuyển chúng đi những đâu, nhưng lại chẳng tài nào nhớ được. Khoảng thời gian giữa lúc chúng tôi bị đuổi khỏi căn nhà thứ nhất - nơi chúng tôi sống cùng ba - và căn phòng này, nói chung khá mờ mịt. Cứ như mọi chuyện vừa xảy ra trong giấc mơ của tôi vậy.
Giờ chúng tôi chỉ có vài thứ, như ga trải giường, dao dĩa bỏ vào ngăn kéo, khăn treo trong nhà tắm, và quần áo treo vào tủ đồ. Vậy thôi.
Nếu chúng tôi cất hết đồ đạc của mình đi thì căn phòng lại được trả về nguyên trạng như trước khi chúng tôi chuyển đến.
Hay nói cách khác, trông chỗ đó vẫn rất tuyệt.
Mẹ tôi đang ở trong nhà tắm, và tôi nghe thấy mẹ ré lên. Tôi cứ nghĩ là mẹ thấy có chuột hay gián trong đó, hoặc đại loại thế. Nhưng tôi quá sung sướng với nơi ở mới này, chẳng có gì trong đó phá hỏng tâm trạng của tôi được. Nên tôi chỉ tặc lưỡi, sao cũng được. Chúng tôi sẽ mua bẫy chuột hoặc thuốc xịt côn trùng, và mọi người sẽ lại vui vẻ thôi.
Nhưng mẹ lại cười ngoác khi thò đầu ra ngoài. “Có bồn tắm đấy!”
“Nhà tắm nào chẳng có.”
“Nhưng nhà tắm ở nhà Magnusson làm gì có. Và nhà tắm ở nhà trọ chúng ta ở trước đó cũng không. Mẹ chán tắm vòi hoa sen lắm rồi. Mấy năm rồi mẹ không được tắm trong bồn tắm nóng rồi ấy. Và bồn tắm ở đây to đùng. Còn sâu nữa chứ. Có khi mẹ sẽ ngâm cả người xuống nước chứ chẳng cần thở nữa đâu.”
“Thế thì tối nay mẹ được thỏa ước nguyện rồi đấy.” “Mẹ nghĩ chúng ta nên đặt pizza” mẹ nói.
“Chúng ta đủ tiền để mua pizza cơ á?” “Tất nhiên rồi. Chúng ta…”
Tôi chuẩn bị tinh thần nghe tiếng hét của mẹ. Tôi co rúm người lại.
“… KHÔNG PHẢI TRẢ TIỀN THUÊ NHÀ MÀ!”
Mẹ chẳng bao giờ nói ra hai từ đó bằng giọng bình thường cả. Mẹ luôn luôn hét thật to. Nên khi đó tôi cũng khá quen rồi.
“Mẹ muốn ăn gì thì cứ nói với con”, tôi nói, “con sẽ gọi bằng điện thoại ở nhà chính”.
“Mẹ nghĩ chúng ta nên ăn pizza pepperoni với nấm và thêm gấp đôi phô-mai. Chúng ta phải ăn mừng thật lớn chứ.”
“Nghe có vẻ ổn đấy ạ. Đi thôi, Rig.”
Tôi đi tới chỗ cửa và mở ra rồi bước ra hiên, rồi đợi Rigby đi cùng. Nhưng nó không đi. Tôi quay lại thì thấy nó vẫn nằm cạnh Sophie và nhìn tôi có vẻ hối lỗi. Chắc nó muốn ở lại với Sophie vì Sophie cần vậy, và có lẽ tôi sẽ hiểu cho nó.
“Thôi bỏ đi”, tôi nói. “Chị đi một mình vậy.”
Khi tôi quay lại chỗ căn hộ, mẹ đang dang tay chờ sẵn để ôm tôi. Và không phải mẹ chỉ ôm tôi vài giây đâu. Mẹ cứ ôm tôi như thế mãi mà chẳng chịu bỏ tay ra.
Tôi thấy khá khó chịu.
“Con thực sự đã cứu cả nhà mình đấy”, mẹ nói. Tôi còn thấy khó chịu hơn nữa.
Tôi cố giãy để thoát khỏi cái ôm của mẹ. “Mẹ đừng nói thế.”
“Sao lại không được nói? Mẹ đang công nhận một điều xứng đáng được công nhận thôi mà.”
“Con không biết. Điều đó làm con thấy không thoải mái. Con cũng không biết tại sao nữa.”
Mẹ thở dài.
Nhưng thực ra tôi biết lí do đấy. Vì mỗi lần tôi giải quyết rắc rối mà đáng lẽ là của mẹ, thì tôi nhận ra rằng lần tới mẹ sẽ lại đổ trách nhiệm lên đầu tôi. Giống như khi ta cho tụi mèo hoang ăn ấy. Tôi thì rất muốn đuổi con mèo đó đi, nhưng cho nó ăn một bữa cá và sữa thịnh soạn thì không thể giúp tôi đuổi nó đi được.
Nhưng cũng phải nói rằng tôi không bao giờ giải quyết mọi việc triệt để. Và điều đó chỉ càng khiến mọi thứ tiếp tục vướng mắc hơn thôi.
“Không thể tin là mẹ con mình ăn được hết cái pizza đó đấy” mẹ tôi nói.
“Có gì khó tin đâu.”
“Sophie ăn những hai miếng kìa. Chuyện đó mới đúng là khó tin.”
“Tụi con đói suốt mà. Chẳng qua Sophie không nói ra thôi.”
Câu nói đó khiến mẹ im bặt.
Thực ra dạo gần đây tôi không đói lắm. Tôi đã ngốn biết bao nhiêu đồ ăn trong tủ lạnh nhà ông Paul cơ mà. Nhưng tôi vẫn chưa quen với việc được ăn nhiều lắm. Tôi vẫn đang ăn bù cho dạo trước thôi. Nên câu trên của tôi vẫn có giá trị.
“Chắc Rigby và con về nhà chính đây. Mẹ đi tắm nước nóng như mẹ muốn đi. Ngày mai con sẽ gặp mẹ sau.”
Tôi đứng dậy và đi ra cửa, đột nhiên tôi thắc mắc liệu Rigby có cố nán lại chỗ Sophie nữa không. Tôi ngoái lại nhìn. Rigby vẫn giữ nguyên tư thế trên chiếc thảm đó, rồi lại nhìn về phía tôi với ánh mắt y hệt khi nãy.
Tôi lại phải tự nhắc mình phải mang cái ổ nằm độn bông của nó sang phòng chúng tôi. Có lẽ nằm trên sàn gỗ cứng như thế sẽ không tốt cho bệnh thấp khớp của nó. Và đằng nào nó cũng có bao giờ nằm ổ ở nhà chính đâu. Lúc nào nó cũng nằm cùng tôi trên giường của ông Paul mà.
“Rigby. Lần này chị nghiêm túc đấy. Chúng ta phải về ngủ ở nhà chính. Chúng ta phải đi thôi.”
Nó nhấc người dậy, tôi cảm giác chân nó hơi cứng nhắc. Tôi tự hỏi mình có nên báo cho ông Paul không. Có lẽ tôi sẽ giảm bớt quãng đường đi của nó mỗi ngày để xem liệu nó có đỡ đi không.
Nó thong thả bước đến bên tôi trong khoảng bốn bước. Tôi mở cửa.
Sophie bắt đầu mở miệng, và gào lên.
Đó là lần đầu tiên chúng tôi phải nghe tiếng hét của Sophie, kể từ khi rời thành phố về đây. Kể từ đêm con bé hét đến lạc cả giọng trên đường.
Tôi nhìn về phía mẹ, và mẹ cũng nhìn tôi.
“Tại sao con bé lại làm thế?” Tôi hoảng hốt hỏi mẹ và phải cố hét to để mẹ nghe rõ.
“Làm sao mẹ biết được!”
“Con bé không thể làm vậy ở đây! Chúng ta không ở xa khu dân cư đến thế đâu!”
Mẹ tôi chỉ nhún vai. Dường như đó là câu trả lời duy nhất mẹ tôi có.
Tôi lại bước tới chỗ Sophie ngồi, và Rigby cũng đi theo tôi. Và tất nhiên là Sophie im bặt.
Tôi nhíu mày và ngồi khoanh chân cạnh hai đứa. Tôi cố gắng không nhìn vào mắt mẹ.
Vậy là tôi lại vừa cho một con mèo hoang nữa ăn, dù tôi không bao giờ muốn chú mèo này quay lại quấy rầy tôi thêm nữa. Nhưng tôi vừa dạy Sophie rằng nếu tôi đưa Rigby đi, và con bé hét lên, thì tôi sẽ quay lại chỗ em cùng Rigby. Nhưng tôi còn làm được gì nữa đây? Tôi không thể để mấy người hàng xóm của ông Paul gọi điện báo cảnh sát được.
Tôi ngồi đó một lúc, cố nén cảm giác nặng nề, khó chịu này vào lòng. Trong vài tiếng trước, tôi đã cực kì thoải mái và nghĩ rằng mọi thứ sẽ ổn. Và rõ ràng giờ đây mọi thứ không hề ổn tẹo nào.
Tôi tự hỏi có phải mình đã sai khi hy vọng như vậy không.
Cuối cùng tôi cũng can đảm nhìn mẹ. Trông mẹ như thể bị khó tiêu do đống pizza vừa nãy vậy.
Nhưng lời mẹ nói càng khiến tôi cảm thấy khó chịu hơn. “Đây có lẽ là kì nghỉ ngắn nhất trong lịch sử thế giới đấy nhỉ.”
“Con tưởng mẹ định đi tắm bồn.”
“Có lẽ con sẽ phải ở đây cùng con chó thôi. Hai đứa không thể về nhà chính được đâu.”
Nhưng tôi không nói điều mình thực sự nghĩ.
Điều tôi muốn nói là “Đó là ý tưởng ngu ngốc và thiển cận nhất mẹ từng nghĩ ra đấy. Mẹ cứ làm như ý tưởng đó ổn lắm ấy nhỉ. Vì khi ông Paul trở lại và muốn đón con chó của mình, những chuyện này sẽ kết thúc. Chúng ta sẽ lại bị đuổi ra ngoài đường, và lại phải tìm nơi ở mới”.
Nhưng điều tôi đã nói là: “Con không thể. Nhỡ ông Paul gọi và không thấy con ở đó thì sao? Hoặc nếu ông biết Rigby không ở đó thì sao?”.
Có lẽ tôi phải dạy lại Sophie cách chờ đợi kiên nhẫn cho tới lần sau được gặp Rigby. Giống như những gì con bé vẫn làm. Nhưng tôi không biết tại sao con bé lại làm được thế trong một thời gian dài. Hoặc tại sao con bé lại không làm nữa. Nên tôi chẳng biết phải bắt đầu từ đâu.
“Thế chúng ta phải làm gì đây?” Mẹ tôi hỏi. Có gì đó trong tôi như… suy sụp.
“Lại thế nữa rồi”, tôi nói. Giọng tôi có vẻ nặng nề. Đến tôi mà cũng có lúc nặng nề cơ đấy.
“Thế là sao?”
“Mỗi khi có vấn đề, mẹ đều hỏi con rằng chúng ta sẽ làm gì. Kiểu như… nếu mẹ không hiểu ý con, thì con đang muốn bàn về ý nghĩa của câu mẹ vừa nói ấy. Mẹ không biết phải làm gì, nên mẹ hy vọng con biết.” May là tôi không lên giọng. Tôi không biết mình có tiếp tục nói như vậy được không. “Con không chịu nổi áp lực này nữa. Mẹ nghĩ lại tất cả mọi chuyện con đã làm để giải quyết rắc rối giúp mẹ đi. Mỗi khi Sophie có vấn đề, mẹ lại đổ hết trách nhiệm lên đầu con. Con cũng hiểu rằng đôi khi mẹ nghĩ con xử lí rắc rối tốt hơn mẹ, nhưng ít nhất mẹ hãy thử được không? Mẹ có thể… con không biết nữa… tập được không? Hay đại loại thế?”
Mẹ im lặng rất lâu, và tôi thì không dám nhìn vào mắt mẹ.
Cuối cùng tôi cũng ngước lên.
Khi đó mẹ đang dựa hẳn người vào cửa kính. Hai tay thì khoanh trước ngực, mẹ không nhìn tôi, mà nhìn xuống sàn gỗ cứng ngoài rìa chiếc thảm lớn. Mặt mẹ trông nặng nề và xám xịt, giống hệt một đám mây bão trước khi sấm chớp giáng xuống ấy. Nhưng chẳng có tiếng sấm hay ánh chớp nào cả. Mẹ chỉ đứng đó suy ngẫm thôi.
“Mẹ đi tắm đi”, tôi nói. “Con sẽ ở lại tới lúc Sophie ngủ hẳn.”
Mẹ chỉ đứng im như tượng một lúc ở đó. Như thể mẹ chẳng hề nghe thấy tôi nói gì. Rồi đột nhiên mẹ vỡ òa và đi vào phòng tắm. Rồi mẹ sập cửa rất mạnh.
Tôi nhảy dựng lên. Cả ba đứa chúng tôi đều giật mình nhảy dựng lên.
Tôi nhìn về phía Rigby và Sophie. Rigby nhìn tôi. “Chà, đúng là tai họa rồi”, tôi nói với Rigby.
Nó rướn người lên ngửi tai tôi. Tôi thấy nhột, nên phá lên cười. Cười được trong hoàn cảnh đó thật nhẹ nhõm, nhưng cũng thật kì quặc. Có lẽ khi đó tôi đã nghĩ mình sẽ không bao giờ cười được nữa.
Mãi sau mười giờ tôi mới về được nhà chính. Máy nhắn tin bíp bíp liên hồi.
Tôi vẫn chưa biết cách mở tin nhắn thoại như thế nào. Tôi cứ đứng đó nhìn mấy chiếc nút một lúc lâu. Chắc là ông Paul nhắn thôi, nhưng tôi sợ mình lỡ tay xóa mất, và ngộ nhỡ tin nhắn đó lại là từ một người quan trọng khác của ông Paul thì sao. Nên thay vì mở tin nhắn, tôi đi tìm số của ông Paul trên tủ lạnh để gọi trực tiếp cho ông.
“Ông gọi cháu phải không ạ?” Tôi hỏi.
“Ừ” ông đáp.
“Cháu xin lỗi. Lúc nãy cháu ở bên căn phòng trên ga-ra với mẹ và Sophie.”
“Cháu không phải xin lỗi đâu.”
“Cháu nghĩ có lẽ ông sẽ lo lắng nếu cháu không ở đây vào buổi đêm.”
“Ta đã nghĩ rằng cháu ở bên gia đình mình.” “Ông có ổn không ạ?”
Ông im lặng hồi lâu.
“Có lẽ ta không nên gọi điện cho cháu để kể lể về mấy vấn đề của mình thế này” ông nói.
“Cháu thực sự không thấy phiền đâu mà.”
Tôi đem điện thoại tới ngồi xuống tràng kỷ. Rigby cũng nằm sát tôi, nó còn gác bàn chân lên chân tôi nữa chứ.
“Nhưng cháu có cuộc sống riêng, và có những vấn đề riêng mà.”
“Thế thì sao ạ? Ai cũng có cuộc sống riêng. Và cả những rắc rối của riêng họ. Nhưng họ cũng có bạn bè, và thi thoảng họ sẽ dành thời gian để lắng nghe những vấn đề của bạn bè mình. Chuyện đó bình thường mà ông. À mà. Sao cháu lại nói như thể cháu biết rõ bình thường là thế nào nhỉ. Cháu không nói cháu đã làm chuyện đó cả đời hay đại loại thế đâu ạ. Nhưng cháu khá chắc là có rất nhiều người làm vậy.”
Đầu dây bên kia phát ra một tiếng động nhỏ, có lẽ ông cười, hoặc đó chỉ là tiếng thở thôi.
“Ở đó có chuyện gì vậy ạ?” Tôi hỏi. “Mọi thứ diễn ra nhanh quá.”
Đột nhiên trong lồng ngực tôi có gì đó nghèn nghẹn khi nghĩ tới việc mình không còn nhiều thời gian để giải quyết chuyện của Sophie nữa. Sau đó tôi lại thấy tội lỗi khi chỉ nghĩ đến mình. Nhưng thực sự cũng không phải tôi chủ động nghĩ về chuyện đó. Là linh tính mách bảo đó.
“Nhanh thế nào ạ?”
“Cũng hơi khó nói cháu ạ. Không thể biết rõ thuốc giảm đau tác dụng tới đâu. Có lẽ một phần là vì Dan vẫn chưa hoàn toàn bình phục sau khi phẫu thuật.”
“Ông ấy được ra viện rồi ạ?”
“Ừ. Ông ấy về nhà rồi. Mấy người hộ lý cũng tới giúp đỡ chúng ta nữa.”
Có lẽ hơi kì quặc, nhưng tôi thắc mắc không biết trong lòng ông cảm thấy sao khi dùng từ chúng ta để nói về mình và bà Rachel. Nhưng thời điểm đó không phù hợp để hỏi ông điều đó cho lắm.
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và ngắm ánh đèn từ những ngôi nhà dưới chân núi. Tôi thấy khá dễ chịu. Kiểu như ở ngoài đó, cuộc đời vẫn luôn tiếp diễn. Dù có chuyện gì đi nữa.
Tôi hỏi, “Cháu có thể nhờ ông một chuyện được không ạ?”. “Được. Ta nghĩ vậy.”
“Ông đang ở cạnh nhà Dì Vi của cháu phải không ạ?”
“Ừ. Nơi chúng ta gặp nhau ấy.”
“Khi nào ông có thời gian, ông có thể nói với Dì rằng mẹ con cháu đang ở đây, và chúng cháu vẫn ổn được không ạ?”
“Ừ. Ta có thể giúp cháu chuyện đó.”
“Cháu nghĩ có thể Dì thấy tội lỗi vì đã đuổi mẹ con cháu khỏi nhà.”
“Có thể lắm.”
“À… Cháu xin lỗi. Ông đang nói về ông Dan. Và tự nhiên cháu lại chuyển chủ đề thế này. Ông đang nói rằng mọi thứ đang diễn ra quá nhanh chóng.”
Đầu tiên ông chẳng nói gì.
Sau đó ông đáp, “Ta cứ nghĩ về một hay hai tuần trước đó. Khi Dan vẫn chưa đi khám, và chẳng ai biết ông ấy có bệnh. À, nói thế cũng không đúng lắm. Chắc ông ấy đã có cảm giác gì đó, không thì đã chẳng tới gặp bác sĩ. Ta nghĩ Dan có vấn đề từ lâu rồi, nhưng có lẽ ông ấy nghĩ đó chỉ là thừa dịch vị dạ dày, hay u lành tính thôi. Đại loại thế. Và rồi ông ấy biết chuyện. Bụp. Rồi phải vào phẫu thuật, và giờ mọi chuyện bung bét hết cả. Căn bệnh tiến triển nhanh quá. Vả lại, khi họ phát hiện thì khối u đã ở giai đoạn cuối và di căn tới tận phổi rồi. Nhưng dù sao ta vẫn mong mọi thứ chậm lại. Ta chỉ thấy không quen với việc mọi thứ bung bét hết thế này. Khó hiểu lắm”.
Im lặng. Tôi nhìn vào những đốm sáng nhỏ phía ngoài cửa sổ. “Vậy bà Rachel thì sao ạ?”
Khoảng mười giây sau đó, tôi chỉ nghe thấy tiếng ông thở. Thật lạ khi tôi có thể nghe thấy tiếng thở rõ ràng đến vậy. Như thể ông đang cố điều khiển nhịp thở cho thật chậm.
“Bà ấy không kiềm chế nổi buồn đau” ông đáp. Rồi ông lại im lặng một hồi lâu. Sau đó ông nói tiếp, “Và điều đó rất khó khăn. Cháu biết đấy. Việc…”.
Tôi chờ đợi một hồi lâu, thắc mắc liệu mình có thể nghe ông nói nốt câu đó không. Đó không phải điều tôi có thể đoán được.
“Ta phải chứng kiến bà ấy yêu thương ông ấy nhiều đến vậy.”
Giọng ông run run khi nói đến cuối câu. Nhưng cũng không hẳn giống như sắp khóc. Ông chỉ có vẻ hơi suy sụp thôi.
Một lúc lâu sau đó, ông chẳng nói thêm gì cả, và tôi cũng vậy. Tôi không biết mình nên đáp lời ông ra sao, và có lẽ ông cũng chẳng muốn nói tiếp nữa.
“Hồi trước khi ta chỉ gặp họ vài giờ mỗi tháng, hoặc hai tháng một lần thì mọi chuyện có vẻ dễ dàng hơn nhiều. Ta nghĩ khi đó mình đã luôn phủ nhận sự thật một cách điên rồ. Kiểu như, ừ, thì đúng là hai người họ lấy nhau mấy chục năm trời rồi, nhưng chuyện cũng không nghiêm túc đến mức đấy. Kiểu như họ chỉ cùng sống trong một căn nhà thôi, nhưng… ta không biết. Ta không biết mình đang nói gì nữa. Ta đã nghĩ gì khi quay về đây vậy? Để chứng kiến hai người họ bên nhau ngày qua ngày? Và chứng kiến việc bà ấy suy sụp ra sao khi Dan sắp ra đi? Ta đã nghĩ gì vậy?”
“Cháu nghĩ ông muốn tới đó vì cả hai người họ. Cháu nghĩ ông biết mọi chuyện sẽ khó khăn, nhưng ông cũng biết rằng mình sẽ hối hận nếu không làm vậy.”
“Ta không hề biết chuyện sẽ khó khăn nhường này.”
Tự nhiên tim tôi cũng cảm thấy đau đớn. Tôi nghĩ, trong một chớp nhoáng, tôi đã đặt trái tim của mình gần trái tim ông. Và tôi cũng cảm thấy nỗi đau của ông. Thật kì quặc. Chuyện này không hề giống với những gì tôi từng trải qua trước đây. Nhưng thật ra trước đây tôi luôn giữ khoảng cách thật xa với mọi người mà.
Tôi chẳng biết nên trả lời ông thế nào. “Ta nên cúp máy đây”, ông nói.
“Ông không cần làm thế đâu ạ.”
“Ta vừa nói hơn rất nhiều so với dự định rồi.”
“Dạ, không sao ạ. Ý cháu là cháu không thấy phiền đâu ạ.”
“Ta nghĩ mình cần ngồi xuống tĩnh tâm suy nghĩ về tất cả chuyện này.”
“Ông có thể gọi lại mà.”
“Ta nghĩ mình phải suy nghĩ ngay đây. Cảm xúc của ta hiện giờ giống như khi cháu cố nén nước mắt, nhưng lại bật khóc ấy. Ta phải tìm cách ngừng khóc chứ.”
“Ông gọi lại cho cháu lúc nào cũng được ạ.” “Ngủ ngon nhé, Angie.”
“Ông cũng ngủ ngon ạ.”
Tôi quay về giường, nhưng không ngủ được cho đến tận rạng sáng. Và kể cả sau đó thì tôi cũng không ngủ được nhiều lắm.
Tôi tỉnh giấc khi nghe tiếng cánh cửa của Rigby bật mở, rồi lại sập xuống. Tôi nghĩ là Rigby ra ngoài đi tè. Nên tôi trở mình ngủ tiếp. Nhưng tôi đụng trúng người Rigby. Nó vẫn nằm trên giường cùng tôi. Nó đã ngóc đầu dậy, và hướng mắt ra phía sau nhà. Nó cũng nghe thấy tiếng cửa mở như tôi.
Tôi tự nhủ mình phải dậy kiểm tra xem đó là gì. Nhưng người tôi cứng đờ vì sợ. Tôi tự hỏi liệu bọn thú hoang có thể chui qua cánh cửa đó không. Đó là một cánh cửa cho chó khá to. Chắc chắn vậy. Nếu không thì Rigby làm sao chui lọt được. Hôm đầu tới đây, tôi cũng thấy lo lắng về điều đó. Nhưng tôi nghĩ Rigby sẽ bảo vệ căn nhà.
Sau đó tôi tự hỏi việc mình bắt nó bảo vệ căn nhà có đúng không.
Trước khi tôi kịp nghĩ ra cách gì tốt hơn thì Sophie đã ló đầu vào phòng ngủ.
“Chu!” Con bé hét lên.
Tôi nhảy phóc khỏi giường trước khi kịp định thần. “Sophie! Không! Em không được vào đây!”
Tôi tóm lấy con bé khi chưa nghĩ ngợi gì, nên bị đá vào đùi một cú đau điếng. Tôi buông Sophie xuống đất, túm lấy tay em rồi cố kéo em về phía cửa sau. Con bé bắt đầu hồi thét ré inh ỏi của mình khi bị kéo lê trên sàn gỗ trên đôi chân trần vòng kiềng.
“Rigby!”. Tôi hét lên. “Đi nào. Ra ngoài thôi.”
Rigby nhảy khỏi giường, và cả ba chúng tôi cùng nhau ra ngoài cửa sau. Sophie im lặng ngay, rồi theo sát chúng tôi.
Tất nhiên rồi. Tất nhiên Sophie sẽ ngừng hét nếu tôi cho con bé điều em muốn. Đó là có được con chó. Và tôi vừa làm điều đó lần thứ hai rồi đấy.
Tôi vẫn thấy ngái ngủ, và não vẫn chưa hoạt động được. Tôi biết mình có vấn đề, và tôi chỉ đang khiến nó thêm tồi tệ thôi. Nhưng tôi không thể nghĩ ra điều gì rõ ràng hơn thế nữa. Tôi không biết mình nên làm thế nào để giải quyết ổn thỏa mọi chuyện mà không khiến con bé phải hét đến khi mất giọng. Tôi không thể để chuyện đó xảy ra khi chúng tôi đang ở nhà ông Paul.
Con bé vẫn rất ngoan và kiên nhẫn khi chờ đợi được gặp lại Rigby. Tôi không biết sự kiên nhẫn đó biến đi đâu mất rồi. Hay tại sao. Hay tôi phải làm gì để xử lý nữa.
Chúng tôi đi tới chân cầu thang ga-ra, và khi tôi ngước lên thì thấy cánh cửa mở toang.
“Đi nào”, tôi nói. Với cả hai đứa. “Đi nói chuyện với mẹ nào.”
Mẹ tôi vẫn say ngủ trên chiếc ghế gập.
“Chuyện là sao vậy ạ?” Tôi hỏi. To và rõ. Mẹ không có quyền được ngủ tiếp sau khi gây ra chuyện lớn như vậy.
Mẹ ngồi dậy. Nhìn quanh, rồi lại nhìn tôi. Rồi mẹ dụi mắt. “Đóng cửa lại đi”, mẹ nói. “Trời lạnh mà.”
Tôi thấy mình mắt chữ A miệng chữ O luôn.
“Đóng cửa ạ? Đóng cửa á?”
“Thế con không hiểu chỗ nào trong câu ‘Đóng cửa lại’ vậy?”
“Con không mở cửa. Là mẹ mở mà. Con vừa tỉnh dậy khi phát hiện Sophie lẻn vào nhà chính đấy. Con bé không được vào đó. Có phải con bé làm ồn khi tỉnh giấc nên mẹ quyết định bắt con chịu trách nhiệm không?”
“Nhóc, con vừa đánh thức mẹ dậy mà. Mẹ ngủ li bì cả đêm qua.”
“Nếu thế thì ai mở cửa cho Sophie?” “Mẹ chịu thôi.”
Tôi không thể tin mẹ được. Tôi không thể. Có lẽ mẹ không hề ngủ say như mẹ nói.
“Không biết liệu Sophie có học được cách mở cửa không nhỉ?” Mẹ nói.
“Không thể nào.”
Nhưng cũng không phải là không thể. Đó chính là vấn đề. Sophie không bị thiểu năng. Con bé chỉ khác biệt thôi. Nhưng sự khác biệt của con bé không liên quan đến thiểu năng trí tuệ. Tôi rất muốn nghĩ con bé không mở cửa được. Đó là lí do tôi nói vậy. Nhưng không có nghĩa là em không có khả năng đó.
“Kể cả con bé làm được thế” mẹ tôi tiếp tục, “thì làm sao con bé vào được nhà chính chứ? Con không khóa cửa khi đi ngủ à?”.
“Con bé vào qua lối dành cho chó.” “Ồ.”
“Giờ con không biết mình nên làm gì nữa. Con muốn quay lại nhà chính, nhưng giờ con bé đã tỉnh. Nên con bé sẽ rền rĩ đấy.”
“Con để con chó ở đây đi.”
“Con không thể cứ làm vậy mãi được. Như thế sẽ tạo phản xạ cho con bé la hét mất.”
“Được rồi. Thì con đừng làm vậy mãi. Chỉ bây giờ thôi. Lát nữa xe đón học sinh sẽ tới, và con bé sẽ phải tới trường. Và lần tới khi con bé gặp con chó, sẽ là trong một tình huống khác. Ví dụ con tới đón con bé, rồi đưa hai đứa đi dạo này. Giống như hồi trước ấy. Và con có thể nói với con bé rằng ngày mai con bé sẽ được gặp lại Rigby. Hệt như hồi trước. Và sau đó có khi chúng ta lại trở về nhịp sinh hoạt như cũ chăng?”
Tôi không chắc chắn về tính khả thi của kế hoạch đó chút nào. Nhưng tôi thấy vui khi nghe một kế hoạch từ chính miệng mẹ tôi. Dù đó là kế hoạch tốt hay không tốt, thì ít nhất mẹ cũng đang cố gắng học hỏi.
Nên tôi nói, “Rigby, em ở đây cùng Sophie nhé?”.
Rồi tôi bước ra ngoài và để ba người đó ở lại. Sau đó tôi lại bước lên cầu thang rồi chui vào chăn.
Nhưng tôi quá lo lắng, nên không ngủ tiếp được.
Sophie về nhà lúc gần bốn giờ mười lăm. Tôi đã chuẩn bị tinh thần cho tất cả mọi chuyện. Nhưng tôi không nghĩ mình sẽ nghe thấy tiếng mẹ hét vọng lại từ trên lối vào nhà.
“Sophie, đợi đã! Sophie, quay lại đây nào!”
Tôi co rúm người khi nghĩ tới mấy người hàng xóm của ông Paul. Tôi tự hỏi phải mất bao nhiêu thời gian nữa thì họ sẽ gọi ông phàn nàn. Và nếu họ phàn nàn thật, thì ông sẽ xử lý tôi ra sao.
Rồi mẹ chuyển sang gọi tôi.
“Angie, coi chừng! Chặn cửa cho chó hay gì đó lại đi con!”
Tôi đang ngồi bên bàn bếp, và tôi nhìn xuống Rigby. Nó đã ngước nhìn tôi sẵn. Như thể nó đang đợi xem tôi có định giải thích hay chỉ dẫn gì không.
“Em muốn đi dạo không?” Tôi hỏi Rig.
Nó nhổm người dậy và bắt đầu vẫy đuôi. Tất nhiên rồi. Nó còn làm được gì nữa chứ? Đối với tụi chó thì đó không phải là câu hỏi có-hoặc-không. Đó là câu hỏi luôn-luôn-có.
Tôi cố tránh chiếc đuôi chết người kia trên đường trở về phòng ngủ. Tôi với lấy dây dắt chó treo trên chiếc móc cạnh cửa ra vào. Chúng tôi ra ngoài đúng lúc Sophie cũng chạy tới chân cầu thang.
“Em chờ ở đó đi”, tôi nói với Sophie. “Bọn chị xuống ngay đây. Bọn chị cũng đang định đi dạo.”
Con bé không đứng đợi mà bắt đầu leo lên.
Tôi không thích nghĩ về chuyện mình có bao nhiêu lợi thế, nếu cố nói lý lẽ với con bé, nên thay vào đó tôi chỉ dẫn Rigby xuống dưới cầu thang, và khi Sophie chạm mặt chúng tôi, thì con bé chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc cùng đi với chúng tôi xuống dưới tầng.
Cả ba chúng tôi đi xuống đường, ngang qua chỗ mẹ tôi.
Trông mẹ giống một chiếc bánh bao ngâm nước vậy.
“Tụi con không sao”, tôi nói. “Tụi con đi dạo đây.”
Mẹ thở hắt ra nhưng chẳng đáp. Trông mẹ cũng chẳng nhẹ nhõm hay vui sướng hơn chút nào.
Đó là vấn đề khi phải làm người-giải-quyết-mọi chuyện. Tôi cố gắng gánh nỗi phiền muộn giúp mẹ, nhưng sau đó dường như cả hai chúng tôi đều phiền muộn như nhau.
Đôi khi tôi không rõ liệu mình có giải quyết được gì không nữa.
Chúng tôi đi bộ cả quãng đường vào thị trấn. Tôi cứ hy vọng rằng vận động nhiều như vậy sẽ khiến Sophie mệt lử. Tôi hy vọng chuyện này không khiến Rigby bị cứng chân hay đau khớp. Chuyện này giống như người ta đứng trên dây thăng bằng ấy. Và cả cuộc đời tôi lúc nào cũng giống như đang trượt trên mặt hồ đóng băng, ngay trước khi mùa xuân tới làm băng tan vậy.
Có vẻ ai cũng biết chúng tôi.
Đúng là bất ngờ thật. Nhưng ngày hôm đó tôi còn phát hiện ra nhiều điều… hơn thế nữa, và điều đó khiến tôi ngạc nhiên. Thị trấn này nhỏ xíu. Thực ra chỉ là một ngôi làng, và chúng tôi đã đi qua những con đường này cả năm rồi. Và chẳng ai không để ý tới một cô gái tuổi teen dắt theo một con chó to bằng con ngựa con, và một đứa trẻ tự kỉ.
Tôi hầu như chỉ nhận ra khuôn mặt mọi người. Đôi khi tôi nhớ được mình từng gặp người đó ở đâu, ví dụ như người phụ nữ ở bưu điện, hay người đàn ông làm ở quầy thu ngân trong siêu thị. Tôi gặp ba đứa con gái cùng trường. Hai đứa giả vờ không nhìn thấy tôi. Hoặc có lẽ tụi nó không thấy thật. Nói chung, tôi không phân biệt được.
Tôi đi qua một người phụ nữ, và cô ấy cười với chúng tôi. Sau đó cô nói, “Chào cháu, Sophie”.
Tôi dừng bước. “Sao cô biết tên Sophie ạ?” Tôi hỏi.
“Con gái cô cũng học chương trình giáo dục đặc biệt mà” cô đáp. “Khi Bác Maribal tới đón con cô thì Sophie đã ngồi sẵn trên xe rồi.”
“Ồ. Cháu rất vui khi được gặp cô ạ.”
Sau đó chúng tôi cứ đi tiếp. Nhưng cảm giác đó khá kì quặc. Và tôi cũng phải mất một lúc lâu mới hiểu được tại sao họ nhận ra chúng tôi. Họ biết mặt chúng tôi, và họ biết chúng tôi sống gần đây. Nghĩa là, nếu chúng tôi định chuyển đi nơi khác thì ai đó sẽ để ý. Tôi chưa từng biết đến kiểu tồn tại này trước đó.
Tôi vừa thích, vừa thấy không thích. Cùng một lúc, trong tôi tồn tại cả hai thái cực như vậy đó.
Khi về nhà, Rigby và tôi cùng đưa Sophie lên phòng. Chúng tôi mở cửa.
“Sophie về rồi”, tôi nói với mẹ. “Nên mẹ hãy để ý cửa ra vào một lúc nhé. Sophie”. Tôi nói và nhìn em. Tất nhiên con bé không nhìn lại. “Ngày mai em sẽ gặp lại Rigby nhé, được không? Như mọi khi ấy.”
Tôi trao con bé cho mẹ, và cùng Rigby đi xuống cầu thang. Chúng tôi không hề quay lại nhìn.
Chúng tôi đi được nửa đường qua lối lái xe trải sỏi về nhà chính, thì tôi nghe thấy tiếng Sophie. Tiếng rền rĩ điển hình của Sophie. Tôi đứng sững lại và nhắm tịt mắt. Rồi lại đưa mắt xuống nhìn Rigby. Nó đang đợi tôi đưa ra chỉ dẫn.
“Đừng nhìn chị thế, Rigby. Chúng ta không có lựa chọn nào khác đâu.”
Nhưng thực sự thì ánh mắt của nó chẳng thay đổi gì cả. Có lẽ tôi đang tự chỉ trích bản thân mình. Nhưng nếu có cách tốt hơn để giải quyết mọi việc thì tôi cũng không dùng được. Tôi chẳng thấy điều gì khả quan cả.
“Vậy là cách này không được rồi” tôi nói với mẹ. “Con đã nghĩ là sẽ được cơ đấy.”
Chúng tôi đứng trên ban công sau căn phòng, và ngắm nhìn dãy núi. Các đỉnh núi vẫn phủ trắng tuyết dù khi ấy là giữa tháng Sáu. Sophie đang ở trong phòng cùng Rigby. Thực ra đó chỉ là một cái cớ để mẹ và tôi ra ngoài nói chuyện nghiêm túc thôi.
“Mẹ nghĩ là vì con chó đang ở cùng con”, mẹ nói. “Nên con bé nghĩ mình nên được ở cùng hai đứa. Con biết đấy, lúc trước cũng vậy mà. Khi con chó ở cùng người lạ, con bé không cảm thấy thế đâu.”
“Mẹ nghĩ nếu ông Paul quay về thì sao?” “Mẹ chịu.”
“Ngộ nhỡ con bé lại chui vào nhà qua cửa dành cho chó, kể cả khi ông Paul đã về nhà?”
“Chúng ta có thể khóa cửa phòng từ phía trong hay gì đó mà.”
“Thế thì con bé sẽ la lên.”
Mẹ chẳng nói gì. Cả hai chúng tôi đều im lặng hồi lâu. Một lúc sau, tôi đành ngồi xuống một trong những chiếc ghế gỗ ở ngoài đó. Mẹ tôi gọi chúng là ghế Adirondack, nhưng tôi không rõ vì sao mẹ lại gọi chúng như vậy. Mẹ đứng bên tay vịn ban công thêm vài phút nữa. Rồi mẹ ngồi xuống bên tôi.
Mẹ ngoái đầu nhìn qua cửa kính. Nên tôi cũng bắt chước mẹ. Nhưng ở đó chẳng có điều gì mới mẻ cả. Vẫn chỉ là Sophie và Rigby đang nằm trên thảm thôi.
“Mẹ sắp nói vài điều”, mẹ mở lời. “Và mẹ sẽ rất cảm kích nếu con không hét vào mặt mẹ khi nghe những điều đó. Chí ít thì hãy để mẹ nói hết trước khi con bắt đầu hét nhé.”
Tôi hít một hơi thật sâu. Rồi lại thở hắt ra. Tôi nghĩ đó là cách tôi chuẩn bị tinh thần.
“Dù sao thì con cũng không nghĩ mình còn đủ năng lượng để hét đâu.”
“Tốt.”
Mẹ lại im lặng hồi lâu.
Nên tôi nói tiếp, “Thế nên mẹ cứ nói cho xong đi”.
“Mẹ nghĩ chúng ta đang cố gắng thực hiện một điều không tưởng.”
Tôi ngồi một lúc, để hiểu được câu nói đó của mẹ. Tôi không có ý định hét lên. Dù tôi ghét điều đó, nhưng tôi không hề muốn bác bỏ ý kiến của mẹ. Thật vậy, một phần trong tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi thú nhận rằng điều đó đúng. Nhưng đó không hẳn là vui sướng. Chỉ là nhẹ nhõm. Khi có điều gì đúng đắn, thì cần rất nhiều nỗ lực để giả vờ rằng điều đó không phải như vậy. Việc giả vờ đó gần như tốn hết năng lượng của cả một đời người, nên chúng ta chẳng thể làm những chuyện khác. Sau nhiều năm như thế, thì bạn sẽ thấy kiệt sức. Mọi chuyện sẽ ổn thỏa, nếu như bạn được nghỉ ngơi.
“Con không nói gì à?” Mẹ hỏi. “Con đang suy nghĩ mà.”
“Mẹ nghĩ mẹ con mình có tiến bộ đấy.”
“Con vẫn không muốn mình phải kết thúc mọi chuyện như thế.”
“Như vậy không phải kết thúc đâu, Angie. Chúng ta vẫn có thể đến gặp con bé bất cứ khi nào ta muốn mà.”
Tôi chỉ thở dài, mà chẳng đáp lời mẹ.
“Mẹ không muốn phải rời khỏi nơi này”, mẹ nói. “Mẹ cần được nghỉ ngơi trong yên bình. Mẹ cần. Không phải muốn. Mẹ cần được nghỉ ngơi. Mẹ không thể chịu đựng nổi nếu bị đá ra khỏi đường lần nữa cùng với hai đứa con gái, một trong hai đứa còn là trẻ tự kỉ nữa chứ. Căn phòng này cho mẹ cảm giác giống một tổ ấm, và chúng ta cần nó. Sophie cũng cần một tổ ấm nữa. Để con bé sống trong lều và chạy vào rừng thì không hay chút nào.”
Tôi cứ trầm ngâm một hồi lâu.
Chúng tôi lại ngoái đầu lại. Phía trong căn phòng vẫn chẳng có gì thay đổi. Vẫn là Sophie và Rigby nằm kế bên nhau trên tấm thảm. Sophie đúng là một thiên sứ, miễn là tôi cho em thứ em muốn, một thứ còn chẳng thuộc về tôi.
“Con nói gì đi” mẹ nói.
“Con đang nghĩ mẹ nói giống một người chịu trách nhiệm.”
“Như thế là tốt hay xấu?”
“Ưm, cả hai ạ. Vì con không thích điều mẹ nói cho lắm. Nhưng con thấy nhẹ nhõm khi mẹ cư xử giống một bà mẹ. Như thế thì con mới có thể làm một đứa con vô tư được.”
Chúng tôi lại im lặng một lúc. Có lẽ trong ba hay bốn phút gì đó. Hoặc hơn. Mới khoảng bảy giờ tối, nhưng ánh nắng chiều đã xiên một vệt dài và chuẩn bị lặn xuống núi, cho dù đó là một trong những tháng có ngày dài nhất năm. Tôi thấy mặt trời trốn ra sau mấy dãy núi một lúc lâu trước khi chính thức khuất dạng dưới chân trời. Đặc biệt là khi mấy dãy núi rất cao và rất gần chúng tôi như vậy.
“Nếu mẹ cho con bé đến trung tâm, thì mình có đón con bé về được nữa không? Mẹ biết đấy. Nếu như chúng ta tiếp tục ở đây, và tiết kiệm được đủ tiền mua nhà? Có thể là một nơi nào đó thật xa so với khu dân cư? Con có thể đi làm thêm cuối tuần để kiếm tiền giúp mẹ mà.”
“Ồ, giờ con còn muốn đi kiếm tiền giúp mẹ hả.” “Nếu việc đó có thể giúp chúng ta đón Sophie về.” “Con bé đã đi đâu hả nhóc.”
“Mẹ đã trả lời câu hỏi của con đâu.”
“Vì mẹ không biết. Mẹ cũng nghĩ như con. Nhưng mẹ không biết. Có thể mẹ sẽ xem xét một vài lựa chọn khác. Hay chúng ta cứ thực hiện từng bước xem sao? Đầu tiên phải xem khi ông ấy quay lại thì sẽ có chuyện gì xảy ra đã.”
“Phải rồi” tôi đáp. “Con nghĩ là bao giờ?”
“Chắc là sớm thôi. Ông Paul nói mọi chuyện diễn biến rất nhanh.”
“Con đã nói chuyện với ông ấy hả?”
“Vâng. Ông gọi điện cho con.” Và tôi thấy hơi lạ khi mẹ không phản ứng gì, nên nói thêm, “Mẹ biết đấy, để kiểm tra tình hình của Rigby ấy mà. Và để cập nhật cho con về tình hình ở đó và thời gian ông sẽ trở lại. Ý con là, theo suy đoán của ông ấy”.
“Vậy… con đoán là?”
“Con không biết. Có thể là hai, hay ba tuần gì đó.”
“Tuần á? Con nói ông ấy sẽ đi mấy tháng cơ mà!”
Chúng tôi ngoái đầu lại, để xem liệu Sophie hay Rigby có nghe thấy không. Nhưng cả hai đứa vẫn đang nằm trên thảm, và trông cả hai đều có vẻ buồn ngủ.
“Con chỉ nói ông Paul sẽ đi tới lúc anh trai ông ấy qua đời thôi. Và bác sĩ thì nói chắc là khoảng hai tới bốn tháng nữa. Ông Paul luôn nghĩ rằng có lẽ chỉ được hai tháng thôi. Nhưng giờ ông nói mọi chuyện diễn biến quá nhanh.”
“Chắc mẹ phải bắt đầu tìm nơi ở mới thôi.”
Đột nhiên tôi thấy mình không thể ở đó nữa. Nên tôi đứng dậy và đi vào phía trong. Tôi không chào mẹ. Tôi chẳng nói năng gì nữa.
Sophie đã ngủ gật trên thảm cạnh Rigby thật. Nhưng con bé không hề chạm vào người Rig. Tôi đặt tay lên đầu Rigby, nó nhỏm dậy, rồi nhìn vào mắt tôi chờ chỉ dẫn.
“Mình về nhà thôi” tôi bảo nó. Sau đó chúng tôi cùng về.
Đêm đó là đêm thứ hai liên tiếp tôi trằn trọc khó ngủ, nên khi Sophie chui qua cửa dành cho chó lúc tờ mờ sáng, đầu óc tôi vẫn đang khá chệnh choạng.
Tôi ngóc đầu dậy, và Rigby cũng thế. Nhưng lần này chúng tôi đều biết mình sẽ phải chờ đón ai.
Khi tôi gặp con bé ở cửa, tôi nói, “Trò chơi kết thúc rồi, Sophie ạ. Và chúng ta đều thua cả rồi”.
Tôi không biết tại sao mình lại nói vậy với con bé. Tôi chỉ buột miệng nói ra thôi.
Rồi tôi đứng dậy, dẫn Rigby và Sophie về phía cửa sau và đi về phòng trên ga-ra. Con bé chẳng còn nhiều lựa chọn. Cánh cửa sắp đóng lại. Và tôi còn chẳng thể nói chuyện với con bé. Chẳng thể nói với em điều tôi kì vọng ở em. Hoặc những chuyện sắp sửa diễn ra.
Tôi trở về giường.
Nhưng tôi chẳng ngủ tiếp được.
Tôi chỉ nằm đó nghĩ mãi, rằng thật kì lạ khi chúng tôi sắp không còn là một gia đình nữa. Nếu chỉ có mẹ và tôi, thì cảm giác chẳng giống một gia đình tẹo nào. Tôi lại nghĩ về mẹ và tôi. Chúng tôi chỉ là hai con người thi thoảng lắm mới hòa hợp với nhau, còn những lúc khác thì như chó với mèo vậy. Chúng tôi là hai con người không liên quan mấy, dù chung huyết thống. Chính Sophie là người đã kết nối mẹ và tôi, và khiến tôi có cảm giác như một gia đình.
Ít ra con bé còn một vài tuần nữa để tiếp tục kết nối chúng tôi như vậy.
Đêm đó ông Paul gọi điện cho tôi khá muộn. Lúc đó đã gần nửa đêm.
Tôi vừa ngủ một chặp, và thật khó để tỉnh táo lại. Nhưng tôi vẫn thấy vui khi nghe thấy giọng ông.
“Ta phải kể cho cháu chuyện này” ông nói. “Dan và ta vừa có khoảnh khắc đó. Khoảnh khắc cháu nói tới hôm trước ấy.”
“Khoảnh khắc cháu nói tới hôm trước ạ?”
“Khoảnh khắc cháu mong chúng ta sẽ có ấy. Cháu nói khi một người cận kề cái chết, đôi khi chúng ta có thể gần gũi với họ theo một cách khác thường.”
“À. Vâng. Cái đó. Cháu nhớ chuyện đó. Chuyện gì đã xảy ra vậy ông?”
“Có một khoảnh khắc này. Hầu như ông ấy lúc nào cũng mê man, cả đêm lẫn ngày. Nhưng đột nhiên, vài phút trước, ông ấy lại tỉnh táo lạ. Bất thình lình, Dan mở to mắt nhìn thẳng vào ta. Và ông ấy nói…” Ông ngập ngừng một chút, có vẻ ông thấy ngại. “Dan nói… ‘Anh xin lỗi vì bọn anh đã khiến chú đau khổ’.” “Woa.”
“Chính ta cũng đã woa như cháu đấy. Trước đây ông ấy không bao giờ nói vậy với ta đâu. Không. Bao. Giờ. Dan không bao giờ thừa nhận điều đó, tới mức chính ta còn không chắc liệu ông ấy có biết chuyện không nữa.”
“Ông đã cảm thấy vậy từ khi nào ạ? Ông biết đấy. Ý cháu là… ông có cảm giác với bà ấy từ khi nào?”
Thế rồi tôi đột nhiên cảm thấy sai sai khi đã hỏi câu đó. Có lẽ ông sẽ nói điều gì đó thật gay gắt. Kiểu như, “Này này. Ta không nói là đồng ý chơi trò Hai mươi Câu hỏi đâu nhé”.
Nhưng ông không nói vậy.
Ông chỉ đáp, “Bốn mươi chín năm rồi. Từ khi ta mới mười bảy tuổi”.
“Ông biết bà ấy từ năm mười bảy tuổi cơ ạ?”
“Ừ. Trước cả khi bà ấy gặp Dan cơ. Bà ấy là một học sinh trao đổi. Nhưng vấn đề là khi đó bà ấy đã mười chín tuổi rưỡi. Bà ấy lớn hơn ta hai tuổi rưỡi lận. Ta biết thời nay khoảng cách đó chẳng nhằm nhò gì. Nhưng khi đó bà ấy đang học Đại học rồi. Bà ấy học năm hai, còn ta mới học lớp mười một. Lúc đó khoảng cách tuổi tác đó thật lớn. Giống như bà là một người phụ nữ trưởng thành, còn ta vẫn là một đứa trẻ vậy. Ta đã làm bạn với bà ấy trước cả khi bà ấy gặp Dan cơ. Hóa ra bà ấy muốn được ta giới thiệu cho Dan. Và ta thì hy vọng bà ấy thấy nhiều hơn là khoảng cách tuổi tác giữa bọn ta.”
Tôi im lặng một lúc, tập trung ngắm những chiếc bóng đang nhảy múa trên tường phòng ngủ. Tôi khá choáng khi ông kể cho tôi nhiều đến vậy. Nhưng tôi sợ nếu mình nói ra điều đó thì ông sẽ ngừng lại.
Nên tôi chỉ nói, “Trời ạ”.
“Ta không muốn cháu hiểu lầm đâu nhé. Không phải bà ấy cố tình làm quen với ta để tiếp cận anh trai ta đâu. Bà ấy không phải người như vậy. Bà ấy là một người bạn tốt. Luôn luôn là như thế. Chỉ là bà ấy có tình cảm đặc biệt với Dan thôi.”
Tôi định nói với ông rằng, “Có lẽ tình hình bây giờ sẽ khác trước. Hoặc một lúc nào đó, khi bà vượt qua được sự mất mát to lớn này”.
Nhưng tôi không nói vậy. Tôi vẫn nghĩ rằng mình không nên can dự vào cuộc đời ông. Nếu ông muốn kể với tôi chuyện đó thì chẳng sao cả. Vì đó là chuyện của ông. Nhưng tôi không nghĩ mình có quyền được bình luận nhiều về chuyện đó.
Nên tôi nói, “Cháu mừng là ông đã có khoảnh khắc trải lòng cùng anh trai mình”.
“Ừ”, ông đáp. “Cũng khá khó khăn. Nhưng ta nghĩ chuyện đó cũng tốt.”
“Ông đã nói gì ạ? Khi ông Dan nói ra điều đó ấy?” “Chẳng có gì nhiều nhặn đâu. Ta chỉ nói điều ta vẫn nói khoảng một tỉ lần mỗi ngày thôi. Rằng ông ấy không cần phải lo lắng vì bất cứ chuyện gì nữa.”
Chúng tôi lại im lặng khá lâu, nhưng lần này cả hai đều cảm thấy thoải mái. Tôi biết ông đã nói hết những điều mình cần nói. Và tôi không biết mình nên nói gì nữa.
Một lúc sau, vì ông vẫn chưa gác máy, nên tôi nói, “Cháu có thể kể cho ông một vấn đề của cháu được không?”.
“Được chứ. Ta muốn nghe mà.”
“Cháu không chắc làm vậy có đúng không nữa. Khi ông đang ở đó, và đối mặt với đủ thứ chuyện khó khăn…”
“Cháu kể đi. Ta nghĩ về chuyện khác một lúc cũng tốt mà.”
“Cháu nghĩ chắc mẹ và cháu phải đưa Sophie tới nơi khác.”
Ông lại im lặng. Tôi tự hỏi không biết ông Paul hay tôi đang thấy sốc hơn vì những điều tôi vừa nói nhỉ.
“Trời ơi. Thế thì tệ quá. Ta cứ nghĩ nếu ta để mấy mẹ con chuyển tới căn hộ trên ga-ra thì sẽ giải quyết được mọi vấn đề của nhà cháu chứ.”
“Vâng, chúng cháu cũng nghĩ vậy. Cháu không biết có gì sai nữa. Giống như con bé biết Rigby đang ở cùng cháu, nên con bé nghĩ mình được phép ở cùng chúng cháu mọi lúc. Vậy nên hoặc là cháu và Rigby phải ở trong căn phòng đó, hoặc cháu để lại Rigby ở đó tới khi Sophie đến trường, trừ khi em ấy ngủ gật. Và mỗi sáng, Sophie đều tự mở cửa phòng, rồi đi sang nhà chính và chui qua cửa ra vào cho chó. Tất nhiên cháu không để con bé ở lại trong nhà. Cháu sẽ dẫn con bé ra ngoài ngay. Nhưng con bé đã chui được vào nhà chính những hai lần, mỗi lần khoảng độ một phút. À không, thực ra cũng chưa đến một phút đâu ạ. Chỉ vài giây thôi ạ. Nhưng dù sớm hay muộn, thì cháu cũng phải kể cho ông thôi.”
“Kể cả khi ta chẳng bao giờ biết được điều đó.” “Kể cả khi ông chẳng bao giờ biết được.”
“Có thể khi ta quay lại, mọi thứ sẽ trở lại như khi chúng ta ở hai bên hàng rào.”
“Có lẽ thế ạ. Tất nhiên đó cũng là điều mẹ và cháu dự đoán. Nhưng mẹ cháu đã quyết tâm không muốn rời khỏi căn phòng này. Cháu cũng chẳng thể trách mẹ vì nghĩ thế được. Vì trước đây dù chúng cháu chuyển đến đâu thì rốt cuộc cũng bị người ta đuổi ra đường. Việc trở thành người vô gia cư thực sự rất đáng sợ.”
“Có lẽ việc để Sophie đi là lựa chọn tốt nhất cho tất cả mọi người. Kể cả cho Sophie nữa.”
“Cháu không biết nữa. Không phải sẽ khó khăn khi một đứa trẻ bảy tuổi phải rời xa mọi thứ nó từng biết sao ạ?”
“Ta nghĩ vậy.”
“Và Sophie còn khó thích nghi với thay đổi hơn hầu hết mọi đứa trẻ khác.”
“Ta nghĩ ta nên xin lỗi cháu vì đã nói như vậy.”
“Ông không cần phải xin lỗi cháu đâu ạ. Có lẽ đó đúng là giải pháp tốt nhất. Không chỉ vì nó tốt cho ai cả. Mà vì những giải pháp khác có khi còn tồi tệ hơn thế. Cháu không biết nữa. Cháu chỉ hy vọng chúng cháu có thể đợi đến khi em đủ lớn để việc rời xa gia đình là bình thường. Và cháu cứ có cảm giác rằng nếu con bé không ở cùng cháu và mẹ thì cũng chẳng còn gia đình gì nữa. Chỉ có cháu và mẹ thôi. Cảm giác có hai người thì chẳng giống gia đình cho lắm. Chúng cháu sẽ chỉ giống như hai người sống cùng nhà thôi.”
Chúng tôi lặng im hồi lâu. Tôi nhận ra mình đã nói hết chuyện. Tôi đã nói ra tất cả suy nghĩ trong đầu mình. Tôi cũng có cảm giác hệt như vậy khi ông nói hết phần mình. Tôi lặng nhìn mấy chiếc bóng trên tường và tìm cách kết thúc cuộc nói chuyện.
“Chà, nếu không còn gì nữa”, ông nói, “thì cháu vừa nhắc ta nhớ rằng ta không phải là người duy nhất gặp khó khăn lúc này”.
Tôi không nói gì cả. Tôi chẳng biết phải nói gì.
“Cháu biết rằng ta sẽ cố gắng giúp đỡ cháu hết sức có thể khi ta quay lại đó.”
“Cháu biết ạ. Cháu biết điều đó chứ. Nhưng cháu cũng biết đó là cuộc sống riêng của ông. Là thời gian nghỉ hưu của ông. Và ông đã phải làm việc chăm chỉ cả đời để có được sự tự do này. Nên ông có quyền được tận hưởng điều đó chứ. Ông có quyền được sống theo ý mình mà.”
Đầu tiên ông chẳng nói gì.
Sau đó ông đáp, “Có lẽ ta đã sai lầm về tất cả mọi chuyện. Ban đầu ta không định để mọi thứ thành ra như vậy đâu”.
“Cháu vẫn thấy hay mà. Ngoài ra, ông còn muốn được giản đơn. Ông vẫn muốn sống đơn giản, phải không ạ?”
“Ta đang khá phân vân về điều đó đây. Những người khác luôn mang đến rắc rối và phức tạp. Đó là bản chất tự nhiên của mối quan hệ giữa người với người. Cháu không thể tách con người ra khỏi những vấn đề của họ. Sống giản đơn và sống cô độc có vẻ không giống nhau cho lắm. Ta không biết nữa. Ta vẫn đang suy nghĩ về điều đó. Và suy nghĩ của ta hiện giờ hình như hơi nghiêng ngả đôi chút rồi. Ta nên để cháu đi ngủ thôi. Cả hai chúng ta đều nên đi ngủ rồi. Có thể sáng mai tình hình sẽ khá hơn.”
“Có lẽ thế ạ”, tôi đáp.
Nhưng thực lòng thì tôi không nghĩ vậy.
“Ta rất tiếc vì cháu đang gặp chuyện khó khăn” ông nói. “Cháu rất tiếc vì ông đang gặp chuyện khó khăn” tôi đáp. “Ngủ ngon nhé”, ông nói.
“Ông cũng ngủ ngon ạ”, tôi đáp.
Sau đó tôi cúp máy và hầu như chẳng chợp mắt được chút nào.
Sau vài giờ trằn trọc không ngủ, tôi kéo chiếc rương của mình ra khỏi gầm giường của ông Paul rồi mở nó ra. Khi đó tôi đã lồng chiếc chìa khóa của mình vào chùm khóa nhà ông Paul. Tôi cẩn trọng tránh nhìn vào lá thư của chị Nellie, hay cuốn Cổ thư Tây Tạng về những Người Quá cố, hay tờ một trăm đô-la. Hay đồng hồ đeo tay của ba, ví tiền, và chiếc nhẫn cưới nữa. Tất nhiên tôi không thể tránh nhìn vào những thứ đó, nhưng tôi cố gắng không nhìn chúng quá lâu.
Tôi lấy cuốn sách về Tây Tạng của mình rồi khóa rương lại, đẩy nó vào trong gầm giường. Tôi tựa người vào đống gối phía đầu giường, rồi đi “du lịch” tới Tây Tạng và Nepal trong vài giờ sau đó. Tôi đã không tới đó từ rất lâu rồi.
Chỉ có một vấn đề nhỏ xíu này thôi. Thật khó để không nghĩ về Nellie. Bằng cách nào đó, chị ấy cứ lẻn vào tâm trí tôi thông qua lối cửa sau nhà. Tôi cứ cố đẩy chị ra và khóa cửa lại. Nhưng hình như tôi khóa cửa không chặt, vì lúc nào chị cũng tìm được cách lẻn vào trong.
Nhưng có một điều tôi chắc chắn. Rằng đêm đó chị không tới Tây Tạng cùng tôi. Hôm ấy tôi du lịch một mình. Giống như tôi của ngày xưa.
Tới khi mắt tôi nhòe đi và nhức mỏi thì tôi gập cuốn sách lại. Rigby đang nằm nghiêng người, lưng nó tựa vào hông tôi, còn bốn chân thì đung đưa bên mép giường. Tôi vuốt ve nó, và nó tỉnh giấc, sau đó duỗi bốn chiếc chân dài ra xa hơn nữa.
“Chị ước chị có thể du lịch cùng em” tôi nói. “Em là người bạn đồng hành tuyệt vời nhất. Mỗi tội không phải người. Ờm, về một số điểm thì em cũng giống con người lắm đấy.”
Tôi đặt cuốn sách lên chiếc bàn cạnh giường. Vì ở nhà ông Paul tôi có thể làm vậy. Tôi không biết mình sẽ được sống thế này bao lâu nữa. Tôi chỉ tin rằng, dù có chuyện gì xảy ra, thì một ngày nào đó tôi sẽ lại được sống cuộc sống này. Một ngày nào đó, tôi sẽ được sống ở một nơi mà tôi có thể bày mọi thứ ra ngoài. Tôi chỉ cần tìm cách tới được nơi đó thôi.
Tôi chỉ không biết “nơi đó” là đâu. Hay phải đợi trong bao lâu nữa.
Nhiều tuần sau đó ông Paul không hề gọi lại cho tôi. Và tôi cũng chẳng gặp chuyện gì đáng kể lại cho ông cả. Chỉ có một vài chuyến đi câu, và khoảnh khắc nhỏ xíu này thôi.
Lúc đó khoảng hơn sáu giờ tối, và tất cả chúng tôi đang ngồi trong căn phòng ga-ra. Rigby đang nằm trên tấm thảm cùng Sophie. Ánh nắng chiều rọi qua cửa kính phủ lên người hai đứa, trông giống như chiếc máng cỏ Giáng Sinh ấy. Luồng ánh sáng kì lạ và siêu thực. Ánh hào quang tỏa ra xung quanh hai đứa.
Mẹ đang chăm chú nhìn chúng.
Một lát sau, mẹ hỏi, “Con chó đó bao nhiêu tuổi rồi”. Thật ra tôi cũng đã tự hỏi đến bao giờ mẹ mới thắc mắc điều đó.
“Già rồi ạ” tôi đáp.
Và chúng tôi không nói gì thêm nữa. Chủ đề đó cũng không bao giờ được nhắc tới lần nữa.