P
hải gần ba tuần sau, ông Paul mới gọi lại cho tôi. Và cuộc gọi đó cũng không giống khung giờ như mọi khi. Không muộn như mọi khi. Ông không gọi cho tôi để kể về những điều khiến ông đau lòng. Ông có vẻ thu mình. Và xa cách. Ý tôi không phải giọng ông nghe giống như vang vọng từ nơi nào đó xa xôi đâu. Ông vẫn nói bằng âm lượng như mọi khi. Nhưng giọng ông nghe xa xăm lắm.
“Ngày mai ta sẽ về” ông nói.
Tôi cứ hy vọng ông sẽ nói là về thăm nhà. Để Rigby nghĩ rằng ông chưa quên nó ấy. Tôi muốn ông báo trước cho tôi thật lâu trước khi ông về hẳn cơ. Không phải vì điều đó thực sự cần thiết đối với tôi. Thực ra tôi chẳng thể chuẩn bị gì nhiều đâu. Nhưng tôi cảm thấy tôi có thể chuẩn bị về mặt tinh thần. Nhưng có thể đó chỉ là điều tôi tự thuyết phục bản thân thôi.
“Ông về thăm nhà ạ? Hay ông Dan...”
“Dan qua đời rồi”, ông đáp. Chỉ vỏn vẹn mấy chữ đó thôi. Ông nói một cách dứt khoát.
Câu nói của ông gợi cho tôi nhớ về điều gì đó. Hoặc ai đó. Nhưng tôi không có đủ thời gian để nghĩ về thứ đó. Hoặc người đó.
“Ôi. Cháu rất tiếc. Chuyện đó xảy ra từ khi nào ạ?”
“Đêm qua, khi tất cả chúng ta đang ngủ say.”
“Ôi. Vậy còn bà Rachel thì sao ạ? Không phải lúc này bà ấy cần ai đó bên cạnh ạ?”
“Có vẻ không phải vậy. Bà ấy nói cần thời gian ở một mình.”
Tôi định mở miệng nói, “Oái.” Nhưng cuối cùng tôi nói, “Ồ”.
Không phải vì điều đó buồn cười đâu. Ý tôi là, anh trai ông ấy còn vừa mới qua đời nữa chứ. Nhưng tôi biết, nếu ai đó nói điều gì làm tổn thương tôi, thì tôi không bao giờ muốn người khác chỉ ra điều hiển nhiên ấy. Kiểu như “Chắc bạn đau lòng lắm”. Nên tôi không đả động tới chuyện đó.
“Rigby sẽ rất mừng khi được gặp lại ông” tôi nói.
“Ừ. Vậy thì tốt.” Giọng ông dịu xuống một chút. “Có lẽ ta sẽ về tới nhà lúc chiều muộn. Cháu có muốn ta gọi cháu trên đường về nhà không? Để thông báo cho cháu ta sắp về tới nơi ấy?”
“Không, không cần đâu ạ. Cháu rất vui khi được đón ông về nhà, dù là lúc nào đi nữa.”
Ông im lặng, nên tôi đoán là ông thấy ngạc nhiên khi tôi nói vậy. Nhưng tôi không chắc nữa. Cứ như thể tình bạn của chúng tôi đã phai nhạt bớt khi ông ở đó vậy.
“Vậy hẹn gặp cháu ngày mai nhé”, ông nói.
Chúng tôi tạm biệt nhau, sau đó tôi cúp máy. Và tôi chợt hiểu ra ông khiến tôi nhớ đến ai. Tôi nhớ đến ông Paul hồi trước. Hồi chúng tôi còn ở nhà cũ.
Ông Paul ở phía bên kia hàng rào ấy.
Khi tôi nghe tiếng bánh xe ông lướt trên con đường trải sỏi lạo xạo, tôi chạy sang phòng ga-ra đưa Rigby và Sophie xuống đón ông. Tôi biết ông sẽ không muốn gặp mẹ tôi. Và tôi biết ông cũng không muốn về nhà trong tiếng la hét của Sophie. Nếu tôi thực sự để Sophie trên nhà thì chắc chắn con bé đã hét toáng lên rồi.
Đuôi Rigby quật vào người tôi mấy lần, dù tôi đã cố tránh đi. Vì nó không thể đứng yên được. Nó cứ nhảy chồm chồm khỏi mặt đất suốt. Dù tôi đã biết nó khá lâu, nhưng vẫn thấy kinh ngạc vì chiều cao của nó.
Sophie nhảy lên nhảy xuống như thể đang đứng trên cây cà kheo, vì con bé lúc nào cũng bắt chước cảm xúc của Rigby. Tôi chợt hiểu ra điều gì đó. Không phải lần đầu tiên, nhưng là theo một cách khác. Một cấp độ khác. Đó là lý do tại sao con bé luôn luôn điềm tĩnh khi ở bên Rigby. Con bé bắt chước phần điềm tĩnh trong nội tâm Rigby.
Ông Paul bước ra ngoài ga-ra. Trông ông có vẻ tiều tụy và mệt mỏi lắm, và hình như hôm đó ông không cạo râu. Trông như thể cả tuần vừa rồi ông chẳng ngủ được chút nào. Ông xách theo hai túi đồ.
Mặt ông tươi tỉnh hơn một chút khi nhìn thấy Rigby. Nó ngồi trước mặt ông, nhưng không thể ngồi yên được.
Trông nó như sắp nhảy múa đến nơi ấy.
“Chà, trông mi tuyệt đấy”, ông nói với nó. “Có vẻ người trông chó của chúng ta đã chăm sóc mi rất cẩn thận đấy nhỉ.”
Tôi thắc mắc liệu mõm và lông mày của nó có bạc hơn so với lần cuối cùng ông nhìn thấy nó không. Thật khó để nhận ra sự khác biệt khi ta gặp ai đó hằng ngày.
Rồi ông nhìn tôi và Sophie.
“Chào cháu, Angie”, ông nói. “Chào cháu, Sophie.” “Cháu hy vọng ông không thấy phiền khi con bé tới đây”, tôi nói. “Cháu muốn con bé tới gặp ông và tận mắt thấy ông đưa Rigby về nhà. Cháu nghĩ cách này sẽ hiệu quả.”
“Còn nếu không thì sao? Cháu có kế hoạch khác không?” “À thì… Mẹ và cháu đã dán mấy hộp trứng lên tủ để cách âm. Dù chúng không ngăn được toàn bộ tiếng ồn, nhưng ít ra chúng có thể giảm bớt phần nào. Và cháu vẫn còn một vài đôi nút tai chưa dùng tới nữa.”
“Sophie à”, ông Paul nhìn thẳng vào con bé. Nhưng con bé không nhìn lại ông. “Rigby phải vào nhà cùng ta đây. Cháu đợi đến mai nhé, ngày mai chị Angie sẽ lại đưa hai đứa đi dạo. Được không nào?”
Sau đó ông chờ đợi một chút, nhưng tôi không biết ông trông đợi điều gì. Tôi tự hỏi liệu ông có biết không. Hay đó chỉ là việc người ta làm khi không thể suy nghĩ mọi chuyện thông suốt.
“Cháu đưa em lên tầng đây ạ”, tôi nói. “Vì nếu cháu không đi cùng, thì sẽ có rắc rối to nếu con bé nghĩ cháu ở cùng Rigby. Nhưng sau khi em ngủ, cháu có thể qua nhà thăm ông.”
“Cháu đừng hiểu nhầm nhé”, ông nói. Nhưng tôi biết mình đã hiểu lầm thật. “Giờ ta biết Rachel nghĩ gì rồi. Ta chỉ cần chút thời gian một mình. Chỉ một mình ta và Rigby thôi.”
“Vâng. Cháu hiểu ạ.”
Tôi hiểu. Và điều đó khiến tôi đau lòng. Trong lòng tôi lẫn lộn cả hai cảm xúc, cảm thông và đau đớn. Tôi thắc mắc không biết ông Paul kia đâu rồi. Ông Paul từng gọi điện tâm sự với tôi lúc nửa đêm ấy. Liệu tôi có còn được gặp ông nữa không. Tại sao tôi cứ nghĩ ông sẽ thay đổi mãi mãi cơ chứ.
Tôi trả ông chùm chìa khóa nhà. Tôi nhìn theo bóng lưng ông đi lên cầu thang sau nhà, còn Rigby thì vẫy đuôi tới tấp đằng sau.
Và tôi chợt nhận ra hai điều này.
Một là, tôi đã quên béng không rút chiếc chìa khóa rương từ chùm chìa khóa của ông rồi. Nhưng cái đó thì sau này lấy lại cũng chẳng sao.
Điều quan trọng hơn là, Rigby là người bạn duy nhất tôi từng có mà chưa từng thốt ra điều gì khiến tôi thấy tổn thương.
Tôi nhìn Sophie.
“Mình lên tầng thôi, Sophie à. Mai chúng mình sẽ được gặp lại Rigby.”
Chúng tôi cùng nhau đi lên tầng, con bé theo tôi vào phòng. Và tôi đóng cửa lại.
Tôi nhìn mẹ đang ngồi trên tràng kỷ, mẹ cũng nhìn lại tôi. Tôi dùng cả hai tay làm dấu hy vọng, và giơ lên với mẹ. Thế là mẹ cũng làm theo. Xong mẹ còn dùng cả chân. Rồi cả mắt nữa, thế là tôi cười phá lên. Có lẽ tôi cười to và lâu hơn bình thường, bởi lúc đó tôi lo lắng quá.
Sophie lại nằm thế nhân sư trước cửa, giống như hồi bên hàng rào nhà Dì Vi. Mẹ và tôi quan sát con bé một lúc. Sau đó thì chúng tôi chẳng bận tâm nữa.
Con bé cứ nằm thế một lúc trước khi ngủ gật. Mẹ mở rộng ghế tràng kỷ và bế em lên đó.
“Mẹ nghĩ mình có thể thở phào được rồi” mẹ nói.
Sáng hôm sau, tôi tỉnh giấc khá sớm, có lẽ lúc đó mới sáu giờ. Trời đã sáng, và trong phòng rất lạnh. Lại còn có gió lùa vào nữa. Nhưng tôi không rõ tại sao lại thế.
Khi đó tôi đang nằm trên chiếc giường sau tấm vách ngăn.
Đó là lần đầu tiên tôi ngủ trong căn phòng này, nên trong trạng thái nửa tỉnh nửa mơ, tôi chỉ đồ rằng sáng nào phòng cũng lạnh và có gió lùa như vậy.
Trong phòng có lò sưởi ga, nhưng dùng lò sưởi vào giữa mùa hè thế này thì kì quá. Nhưng tôi lạnh run người nên chẳng thèm quan tâm chuyện nó có kì hay không nữa.
Tôi tỉnh giấc, rồi đi vòng ra phía ngoài tấm vách ngăn. Mẹ tôi vẫn ngủ say sưa trên chiếc tràng kỷ. Cửa thì mở toang.
Tôi cố gắng mặc quần áo thật nhanh. Xỏ chân vào quần bò, áo nỉ và chạy chân trần xuống dưới nhà. Tôi cố nhón chân lên cầu thang thật khẽ. Nhưng chẳng biết mình nên làm gì tiếp theo nữa.
Nếu tôi gõ cửa, thì tôi sẽ đánh thức ông Paul. Có lẽ ông đang ngủ và không biết rằng Sophie đã lẻn vào nhà. Tôi ngồi trên chiếu nghỉ một lúc, cố gắng nghĩ cách đưa con bé ra ngoài để ông Paul không biết. Nhưng tôi vẫn đang ngái ngủ, nên đầu óc tôi chưa minh mẫn lắm.
Tôi chỉ có thể nghĩ ra cách mở cửa ra vào cho chó và gọi Rigby. Nếu Rigby ra ngoài thì Sophie cũng sẽ đi theo. “Rigby ơi”, tôi khẽ huýt.
Tôi không chắc mình nên nói to cỡ nào. Phải đủ to để con bé nghe thấy, nhưng cũng không được to quá để ông Paul không thức giấc. Tôi nhớ ông từng nói rằng Rigby có thể nghe thấy tốt hơn con người những mười lần. Tôi nghĩ hôm nay là lúc thích hợp để tận dụng ưu điểm đó. Nhưng tôi cứ đợi mãi mà chẳng có gì xảy ra cả.
“Rigby ơi”, tôi gọi tiếp, lần này tôi gọi to hơn một chút. “Cháu không cần thì thầm đâu” ông Paul nói vọng ra.
“Ta tỉnh rồi.”
“Ôi. Cháu xin lỗi ạ.”
Tôi cứ ngồi đó thêm một lúc nữa, vì tôi không biết mình nên làm gì. Sau đó cửa mở, và ông Paul xuất hiện trong bộ quần áo ngủ và áo choàng đỏ rượu đẹp đẽ giống như hồi ở nhà cũ.
“Ta đoán cháu đang đi tìm em gái phải không.” “Vâng ạ.”
“Con bé đang ở trong này.”
“Vâng. Cháu xin lỗi vì chuyện đó.”
“Chà. Con bé rất ngoan và yên lặng đấy chứ. Con bé chỉ muốn được nằm cạnh Rig thôi. Thế cháu ăn sáng chưa?”
“Dạ chưa ạ.” “Cháu vào đi.”
Tôi vào nhà, gạt nỗi kinh ngạc của mình sang một bên, và làm đúng theo những gì ông nói. Sophie đang nằm trên sàn bếp cạnh Rigby. Tôi ngồi vào bàn.
“Cháu có uống cà phê không?” Ông Paul hỏi. “Vâng. Cháu uống được ạ.”
“Với kem sữa và đường nhỉ?” “Sao ông biết ạ?”
“Những người mới bắt đầu tập uống cà phê thường pha như thế mà. Cháu nghe này, ta xin lỗi vì hôm qua ta hơi cáu kỉnh.”
“Dạ, không sao ạ. Ông không cáu kỉnh đâu ạ. Ông chỉ muốn được ở một mình. Cháu hiểu mà.”
“Ta định ăn bánh vòng với cá hồi hun khói và kem phô mai đấy.”
“Ôi Chúa ơi, nghe như món ăn trên Thiên đường ấy.” Tôi quan sát ông lục tủ lạnh.
“Vẫn còn dư chút thức ăn trong nhà nhỉ. Trong tủ đông cũng có này. Và còn một vài món đồ hộp nữa. Cháu còn nhớ ta đã nói gì với cháu không?”
“Cháu đã cố hết sức rồi ạ.”
“Không sao mà. Dù sao ta cũng không đi lâu như dự định ban đầu. Kia có phải chìa khóa của cháu không? Ta thấy nó trong chùm chìa khóa nhà.”
“À, vâng ạ. Cháu cảm ơn”, tôi vừa nói, tay vừa lượm chiếc chìa khóa nhét vào túi quần.
Sau đó chúng tôi im lặng trong khi ông pha cà phê và nướng bánh vòng. Ông đặt hộp kem phô mai lên bàn, rồi tới con dao, lấy cá hồi ra đĩa, chắc chỗ đó phải đủ cho bốn người ăn. Mà bốn người đó ăn nhiều như tôi hôm trước ấy.
Rồi ông ngồi vào bàn, và chúng tôi lẳng lặng ăn phần mình. Chúng tôi không nói gì với nhau. Tôi nhớ khi đó mình đã nghĩ rằng, có lẽ chúng tôi có nói gì thì cũng sẽ ảnh hưởng đến tình bạn của hai người, nên chỉ tập trung ăn thôi.
Sau khoảng năm phút im lặng như thế, ông mở lời. “Không phải ta thấy tiếc vì đã tâm sự với cháu trong những cuộc điện thoại buổi đêm đó đâu”, ông nói.
Ông không nói tiếp ngay. Còn tôi thì chẳng biết nên đáp lại thế nào. Vì khi ấy cảm xúc của tôi lộn xộn quá, nên chẳng nghĩ được thông suốt. Tôi chẳng nói gì cả.
Một lúc sau, ông nói tiếp, “Có lẽ hôm qua ta bị mệt thì đúng hơn. Ta thấy tâm trí mình trơn nhẵn hết cả. Cứ như bị đánh giấy ráp ấy. Nên ta phải thu mình lại để bản thân được nghỉ ngơi”.
“Điều đó nghe có lí đấy ạ.”
Chúng tôi lại lẳng lặng ăn thêm vài phút nữa.
Đột nhiên, tôi giật mình khi thấy mình buột miệng, “Có phải ông…”.
Nhưng tôi không thể nói hết câu được. Đáng lẽ tôi không nên nói ra câu đó, và tôi không thể nói tiếp được nữa.
“Có phải ta làm sao?”
“Không có gì đâu ạ. Đó không phải việc cháu nên bận tâm.” “Không. Ta không nói chuyện với bà ấy. Sao ta làm thế được? Trong tình cảnh rối ren như vậy ư?”
“Vâng, cháu nghĩ cháu hiểu ý ông rồi ạ.”
Chúng tôi lẳng lặng ăn tiếp, cho tới khi hết sạch thức ăn. Tôi nhìn xuống Sophie và tự hỏi không biết mình phải đưa em về nhà để thay đồ và chuẩn bị đến trường kiểu gì đây.
“Sophie”, tôi nói. “Xe sắp đến rồi. Chúng ta về nhà thay quần áo nhé. Khi nào em đi học về, chị sẽ đưa em và Rigby đi dạo. Nhưng bây giờ thì Rigby cần ở lại cùng ông Paul. Cháu cảm ơn ông vì bữa sáng nhé, ông Paul.”
Tôi đứng dậy, không biết mình có nên túm lấy bộ phận nào trên người em gái mình không. Tôi quyết định thử đi ra phía cửa sau đã. Tôi khá chắc chắn rằng con bé sẽ theo mình.
Con bé đi theo tôi thật. Em hoàn toàn im lặng. Và điềm tĩnh.
Khi chúng tôi lên phòng thì mẹ đã tỉnh. Mẹ đang ngồi lo lắng.
“Ôi, Chúa ơi”, mẹ nói. “Lạy Chúa. Tình hình có tồi tệ lắm không con?”
“Thật lạ là… không ạ.”
“Tại sao thế? Tại sao tình hình lại không tệ? Tại sao hả con?” “Con chịu. Nhưng đúng là như vậy. Con sẽ không cố tìm hiểu lí do đâu. Vì con đang rất mừng là mọi chuyện ổn thỏa. Và con nghĩ từ giờ mẹ nên làm theo cách của con.”
Tôi là người xuống đón Sophie từ trên xe sau giờ học. Chúng tôi đứng trên con đường trải sỏi vài phút để vẫy tay chào khi bác Maribal lái xe đi. À, thực ra thì chỉ có tôi đứng vẫy thôi. Sau đó chúng tôi quay gót về nhà, nhưng khi ấy Sophie bắt đầu hấp tấp chạy về phía cầu thang sau nhà ông Paul.
Lần này tôi thử xử lí bằng cách khác.
Tôi đuổi theo em và bổ nhào tới. Tôi ngã lên người em, và nghe thấy con bé thở hộc ra. Cú ngã đó khiến quần bò tôi rách một lỗ trên đầu gối, và hai bàn tay thì xước sát. Tôi cũng biết rằng vết xước trên cằm con bé sẽ rướm máu. Nhưng thà đau đớn một chút như vậy còn hơn là em phải đến sống trong trại.
“Giờ em nghe chị nói đây”, tôi rít vào tai con bé. “Em muốn gặp lại Chu không? Thế thì hợp tác với chị đi. Em phải làm theo quy tắc của chị. Em mà không tuân thủ thì em sẽ thua đấy. Tất cả chúng ta đều thua. Em mà cứ đòi phải có bằng được mọi thứ, thì tất cả sẽ hỏng bét. Chị không biết em hiểu được bao nhiêu lời chị nói, nhưng nếu em chỉ hiểu được một điều, thì hãy hiểu điều đó đi. Chị sẽ cho em gặp Rigby khi nào ông Paul cho phép. Nên em phải làm theo chị. Giờ chúng ta sẽ đi lên cầu thang thật ngoan ngoãn và bình tĩnh nhé. Nếu không thì em đừng hòng có được thứ mình muốn.”
Tôi xốc nách Sophie ngồi dậy và nhìn em cố gắng hít thở. Tôi thấy mình thật tệ. Nhưng tôi phải nhắc nhở bản thân rằng mọi chuyện có thể còn tệ hơn thế.
“Em ổn chứ? Em sẵn sàng đi gặp Rigby chưa?”
Tôi chìa tay ra, nhưng con bé chẳng hề nắm lấy. Tôi không chắc tại sao mình nghĩ em sẽ phản ứng lại nữa. Tôi nắm hai khuỷu tay con bé, rồi giúp em đứng dậy. Một ít máu trên cằm nhỏ lên áo phông của em.
Tôi nhớ lại hồi chúng tôi mới chuyển tới và tự hỏi, liệu mình có sắp phải quay lại những lúc giằng co kịch liệt với Sophie như trước không. Nhưng nghĩ lại chuyện quá khứ cũng chẳng giải quyết được gì.
Chúng tôi đi nốt quãng đường chầm chậm và từ tốn. Rồi chúng tôi bước lên cầu thang. Rõ ràng tôi không điên khi nghĩ rằng em hiểu mình và thực sự làm theo những điều tôi nói. Nhưng cũng có thể tôi vừa khiến con bé sợ hết hồn, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Tôi gõ cửa sau. Rigby đáp, “Gâu”. Sau hai lần gâu, thì cánh cửa bật mở, và ông Paul đứng đó nhìn hai đứa tôi từ đầu xuống chân, còn Rigby thì đứng vẫy đuôi sau lưng ông.
“Trời ơi. Hai đứa làm sao thế?”
“Bọn cháu vấp ngã trên đường ấy mà.” “Cả hai đứa á?”
“Chuyện dài lắm ạ.”
“Ta lấy cho cháu băng cá nhân nhé? Và nước rửa sát trùng vết thương ở cằm con bé nữa nhé?”
“Vậy thì tốt quá ạ. Cháu cảm ơn ông.”
Chúng tôi vào nhà, và Sophie lại bắt chước Rigby khi ông Paul lấy ra một chiếc chai nhựa đựng dung dịch gì đó để xịt lên cằm con bé. Chắc là thuốc sát trùng vết thương.
“Chắc là không đau lắm đâu. Còn tay cháu thì sao? Có cần băng lại không?”
Tôi nhìn mấy vết xước. Tôi giơ hẳn ra phía trước để ông và tôi cùng nhìn rõ.
“Không sao đâu ạ. Chúng còn chẳng chảy máu mà ông.” “Dù sao thì cháu cũng nên đi rửa tay đi. Có vẻ cháu bị dính ít đất rồi kìa.”
Trong khi vào nhà tắm rửa tay thì tôi để ý đầu gối mình có hơi tươm máu. Nhưng quần bò của tôi đã che vết thương lại. Nên tôi hy vọng ông Paul sẽ không để ý. Tôi không muốn làm mọi chuyện phức tạp thêm. Tôi chỉ muốn dẫn Rigby và Sophie đi dạo thôi.
Ông Paul đứng bên ngoài đợi tôi, trên tay cầm một ít bông, thuốc sát trùng và băng cá nhân. Tôi thấy vô cùng cảm kích khi ông biết mình không nên động đến người Sophie.
Dù sao thì em cũng chẳng quấy nhiễu gì. Em đang nằm trên ổ chó cùng Rigby trong phòng ngủ của ông Paul. Trông Rigby rất thoải mái, nên con bé cũng vậy.
Tôi lau sạch cằm con bé rồi băng lại, sau đó ông Paul chìa tay đỡ gói giấy, bông và lọ thuốc sát trùng từ tay tôi.
“Sáng mai cháu muốn đi câu cá không?” Ông hỏi tôi. “Cháu rất muốn ạ”, tôi đáp.
Sau đó tôi lấy dây xích của Rigby từ trên móc treo bên cửa, và chúng tôi bắt đầu xuất phát. Khi đó tôi nghĩ, sau tất cả những gì xảy ra, thì việc đi câu cá buổi sáng sẽ khá phức tạp, vì nếu ông Paul, Rig, và tôi đi câu cá trước khi xe van của trường tới, thì chắc Sophie sẽ hét dữ lắm.
Nhưng tất nhiên, thời điểm thích hợp nhất để đi câu luôn là trước khi xe van của trường tới.
Chúng tôi không đi được hết quãng đường vào thị trấn vì Rigby bị đau chân. Nó bắt đầu nhón chân phải. Tôi dừng lại, và nó ngồi xuống, sau đó Sophie cũng ngồi xuống theo. Tôi nhấc bàn chân của nó lên xem có gì găm vào gan bàn chân không. Nhưng chẳng có gì cả. Khi đó có lẽ chúng tôi mới đi được có một phần tư dặm thôi. Tôi không chắc liệu mình có nên đi tiếp không nữa.
Chúng tôi đi thêm khoảng một phút nữa về phía thị trấn, nhưng chân Rigby bắt đầu khập khiễng thấy rõ.
Một người phụ nữ chạy bộ ngược chiều chúng tôi nhìn xuống Rigby, và nở nụ cười buồn bã. “Khổ thân chú chó già” bác ấy nói.
“Là cô chó ạ.” “Ồ.”
Tôi không biết vì sao mình lại nói thế nữa. Tôi không biết tại sao giới tính của Rigby lại quan trọng lúc này. Thực sự thì Rigby là cái hay đực cũng chẳng sao. Vấn đề là nó đang già đi.
Chúng tôi cứ đứng, rồi lại ngồi ở đó một lúc. Có lẽ là một phút. Sau đó tôi quyết định rằng chúng tôi nên quay về.
“Cháu đã quyết định đúng đắn khi quay về nhà đấy” ông Paul nói. “Lại đây nào. Cháu dẫn nó về phía ta xem sao.”
Tôi dẫn Rigby ra phía cuối phòng trong khi ông Paul chăm chú quan sát. Sophie thong thả đi sau chúng tôi.
"Bàn chân nó không có vấn đề gì đâu. Là vai nó đấy.Khớp vai bên phải của nó đang đau.”
“Ông có nghĩ chuyện này có liên quan tới việc nó nhảy cẫng lên vì sung sướng khi thấy ông về không ạ?”
“Có thể lắm. Chắc chắn là có liên quan đến bệnh thấp khớp của nó.”
“Nhưng nó uống thuốc rồi mà.”
“Thuốc không chữa được bệnh đó đâu. Chỉ giúp nó cầm cự được thôi.”
“Ồ. Vậy cháu nghĩ tụi cháu nên về nhà để ông ở lại bên Rigby. Sophie ơi. Mình về phòng với mẹ nhé. Mai chúng mình sẽ gặp lại Rigby. À, ông Paul ơi. Về chuyện câu cá ấy. Cháu đang thắc mắc ông và cháu sẽ ra khỏi nhà lúc rạng sáng kiểu gì mà không đưa Sophie đi theo.”
“Trong hoàn cảnh này”, ông nói, “ta nghĩ tốt hơn hết là chúng ta để Rigby ở lại. Ta không biết nó có chịu được khi phải nằm trên nền đất cứng lâu khi vai đang đau như thế không.”
“Vậy Rigby ở trong phòng cháu cùng Sophie khi ông và cháu đi câu được không ạ?”
“Được chứ. Vậy cũng được. Nếu chúng ta mang ổ nằm của nó lên đó thì được. Ta sẽ lên đó gõ cửa khi chuẩn bị tới giờ xuất phát. Sẽ sớm đấy.”
“Cháu không ngại đâu ạ.” “Khi đó trời vẫn tối đấy.”
“Cháu không ngại mà ông. Cháu mong được đi câu lắm rồi.”
Sau đó tôi và Sophie ra khỏi nhà ông. Con bé đi theo tôi, ngoan ngoãn và im lặng.
Sáng hôm sau, tiếng gõ cửa của ông Paul khiến tôi choàng tỉnh. Trời vẫn tối, hệt như lời ông nói với tôi hôm qua. Tôi ngó ra ngoài tấm vách ngăn thì thấy ông đang đứng ngoài, gõ nhẹ trên cánh cửa mở toang.
Tôi bước đến cửa, hơi ngượng ngập một chút vì bộ quần áo ngủ của mình không được tươm tất lắm. Nhưng tôi không muốn nói vọng ra từ phía trong, vì sợ sẽ khiến mẹ tỉnh giấc.
“Cháu chuẩn bị hết quần áo rồi”, tôi thì thầm. “Cháu chỉ cần một phút thay quần áo thôi. Sophie đâu ạ?”
“Con bé đang ở trong nhà chính cùng Rig.”
“Cháu tưởng ông và cháu sẽ xuất phát trước khi con bé tỉnh dậy sáng nay chứ ạ. Con bé ở đó từ khi nào vậy ông?”
“Khoảng hai giờ sáng, khi ta dậy đi vệ sinh thì đã thấy con bé ở đó rồi. Ta chỉ biết chắc từ lúc đó thôi.”
Trời vẫn tối om khi ông Paul đưa tôi một chiếc cần câu từ hòm dụng cụ. Tôi nhìn thật gần để áng chừng độ dài của nó. Nó có vẻ ngắn, nhưng sau đó tôi mới thấy, hóa ra nó có tận hai khúc.
“Đây là gì vậy ạ?”
“Cần câu của cháu đấy.”
“Nó không giống những chiếc cần cháu từng dùng.”
“Vì hôm nay chúng ta không đi câu cá hồi.”
“Thế chúng ta đi câu gì vậy ạ?”
Ông rọi đèn quanh hòm để chắc chắn chúng tôi đã có đủ đồ, rồi ông đóng nắp hòm và đóng chặt cốp xe.
“Không biết ta nên nói ngay cho cháu, hay để cháu ngạc nhiên nhỉ.”
Chúng tôi bắt đầu xuất phát theo tia sáng đèn pin trên đường đất. Tôi nghe thấy tiếng nước chảy ở rất gần. Nước ở đây có vẻ nhiều và mạnh hơn những nơi tôi từng đến nhiều.
“Nếu chúng to hơn những con chúng ta từng bắt thì có lẽ ông nên nói với cháu luôn đi ạ.”
“Chúng to hơn thật đấy.” “Thế ông nói đi ạ.”
“Cá nheo33.”
33 Nguyên văn: channel cats. “Cat” nghĩa là mèo nên Angie hiểu lầm rằng đang đi câu mèo.
Tôi cứng đờ người, rồi đứng sững lại trong bóng tối, trong khi ông vẫn tiếp tục đi.
“Mèo ạ? Chúng ta đi câu mèo á?”
“Cá nheo”, ông nhắc lại. Ông dừng bước và rọi đèn vào chân tôi.
Tôi chạy về phía ông.
“Cá nheo. À. Cháu biết chúng rồi.”
Vùng chân trời bên trên dãy núi phía Đông bắt đầu sáng lên khi chúng tôi đến nguồn nước. “Đây là sông ạ?”
“Không hẳn. Trên lý thuyết thì đây là một con lạch. Nhưng nó cũng rộng bằng một con sông nhỏ đấy. Và ở những chỗ nước sâu có cá nheo.”
“Bọn cá nheo ăn mồi gì ạ?”
“Chúng ăn mọi thứ. Mồi càng dính dấp, càng hôi hám, chúng càng thích. Bọn chúng giống lũ dê ăn tạp ấy, nhưng là loài dê sống dưới nước. Thứ chúng thích nhất là gan gà đấy.”
“Ông mang gan gà ạ?”
“Có chứ. Đây này. Cháu giơ tay ra nhé. Hãy cẩn thận vì ta sắp móc nó vào lưỡi câu. Đây là lưỡi câu ba ngạnh, nên khả năng nó đâm vào người mình cũng gấp ba lần lưỡi câu bình thường. Cháu phải cẩn thận khi dùng nó trong bóng tối nhé.”
“Cháu phải móc nó vào cước câu thế nào ạ?”
“Để ta tự làm cái của ta trước, sau đó ta sẽ rọi đèn sang phía cháu.”
“Cái móc câu này to quá. Và dây cước cũng có vẻ dày dặn nữa. Cháu cảm giác mình sắp đi câu bọn cá khổng lồ ấy.”
“Chúng to thật mà. Thi thoảng có con nặng đến hai mươi pound, hoặc hơn. Dù ta nghĩ là chúng ta không bắt được cá to đến vậy đâu.”
“Cháu còn không biết người ta có làm loại móc câu to đến thế này cơ.”
“Còn có loại to bằng bàn tay ta nữa kìa. Người ta ra biển câu cá kiếm maclin, cá ngừ, rồi cá bơn còn to hơn người cháu nữa. Thậm chí chúng còn to hơn cả ta kìa. Chắc chúng phải nặng vài trăm pound ấy chứ.”
“Kì lạ thật”, tôi nói. “Có gì kì lạ thế?”
“Cháu không biết nữa. Cháu chỉ đang nghĩ về cuộc đời, rằng chúng ta không bao giờ biết được nhiều như chúng ta vẫn nghĩ. Cháu nghĩ mình biết rất nhiều điều về một thứ, nhưng hóa ra chỉ là bề nổi của tảng băng trên mặt nước thôi. Giống như Tây Tạng chẳng hạn.”
Ông rọi đèn vào mặt tôi, nên tôi rúm người và che mắt lại.
“Ta chịu rồi. Tây Tạng làm sao cơ?”
“Vì… cháu biết nhiều về Tây Tạng hơn bất cứ người nào cháu từng quen. Có người ở cửa tiệm sách từng nói với cháu, rằng chỉ có nhân viên làm về du lịch Tây Tạng mới biết những điều cháu nói với chị ấy thôi. Rồi một cô ở thư viện từng mời cháu làm thủ thư tra cứu vì cháu biết quá nhiều thứ nữa chứ. Ưm… Thực ra thì chắc cô ấy đùa cháu thôi. Nhưng cô ấy đùa vì cháu biết nhiều kiến thức thật. Nhưng cháu chưa bao giờ đến Tây Tạng. Ngộ nhỡ khi cháu đến, và ở đó chẳng có gì giống như những điều cháu từng biết thì sao? Hoặc ngộ nhỡ những điều cháu biết chỉ chưa bằng một phần vạn của những điều thực sự đang diễn ra ở đó thì sao?”
“Nếu cháu chưa từng đến nơi đó, thì ta đảm bảo rằng những điều cháu biết còn chưa bằng một phần vạn của sự thật ấy chứ.”
“Vậy ông hiểu ý cháu chứ ạ? Đó là thứ cháu thấy kì lạ đấy.”
Mặt trời đã lên trên đỉnh núi và rọi thẳng vào mắt tôi trước khi chúng tôi tiếp tục trò chuyện. Dây câu của chúng tôi vẫn chìm trong chỗ nước sâu đó, và nặng trịch vì móc câu và gan gà. Chúng tôi đang tựa lưng vào hai thân cây thường xanh. Tiếng nước chảy róc rách tựa như một bản nhạc vậy. Tôi không quan tâm lắm về việc có bắt được cá hay không. Nhưng tôi khá tò mò muốn biết trông mặt mũi con cá nheo ra sao.
Tôi là người mở miệng trước.
“Đi câu mà không có Rigby thật kì quặc.” Ông Paul im lặng hồi lâu.
Sau đó ông nói, “Ta không biết mình sẽ ra sao nếu Rigby không còn nữa”.
“Ông đừng nói thế. Chắc chắn nó còn sống một vài năm nữa mà. Phải không ạ?”
“Ta hy vọng thế.”
Chúng tôi lại im lặng thêm vài phút trước khi tôi nói, “Có lẽ ông nên mời bà Rachel đến chơi nhà đi ạ”.
“Ý tưởng đó từ đâu ra thế?”
“Cháu không biết nữa. Cháu đang nghĩ vậy thôi. Hồi trước ông nói rằng ông Dan chán nơi này lắm rồi. Nên cháu nghĩ bà Rachel vẫn còn thích ngôi nhà này. Có lẽ bà nhớ nơi này nhiều lắm.”
“Có lẽ vẫn còn quá sớm đối với bà ấy.”
“Ông có nói chuyện với bà không ạ?”
“Có chứ. Bà ấy hoặc ta sẽ gọi điện cho nhau. Hầu như ngày nào cũng vậy. Nhưng vẫn chưa đủ lâu đâu, nếu như đó là điều cháu nghĩ. Chỉ mới có mấy ngày thôi mà. Bà ấy cần thời gian để khuây khỏa nỗi đau mất chồng. Ta sẽ không nói gì cho đến thời điểm thích hợp đâu.”
“Ông nghĩ là bao lâu ạ?”
“Ta không biết nữa. Có lẽ là ít nhất một năm.” “Một năm. Woa.”
“Hai người họ đã chung sống lâu lắm rồi. Tận bốn mươi bảy năm kìa. Bà ấy cần thời gian để vượt qua mất mát đó chứ.”
Tôi nghĩ dây câu của mình bị chùng quá, nên tôi thử kéo dây. Nhưng lần này hơi lạ. Tôi không kéo được nữa.
“Chết rồi”, tôi nói. “Cháu nghĩ dây câu của cháu bị móc vào đâu đó rồi.”
“Cháu thử giật chắc tay xem nào. Thử xem cái móc có lỏng ra không.”
Tôi giật mạnh một cái. Dây câu giật lại, và cần câu cong vút thành hình cái cung.
“À, phải rồi”, ông Paul nói. “Đúng là cháu móc vào gì đó thật. Một con cá to đấy.”
“Cháu nên làm gì bây giờ?” “Cháu kéo nó vào đi.”
Tôi quay guồng dây. Chí ít… tôi đã thử. Nhưng tôi cảm giác như đang kéo một thân cây ấy. Và gượng sức thế này khiến gan bàn tay tôi đau quá.
“Cháu buông lỏng dây câu ra một chút đi. Cháu còn nhớ ta đã dạy cho cháu thế nào không?”
“Vâng, nhưng cần câu này không giống thế ạ.” “Đây, cháu giữ chắc nhé. Ta sẽ giúp cháu.”
Ông rướn người qua chỗ tôi và xoắn dây câu lại, và khi con cá giật dây, tôi nghe thấy dây câu “roẹt” một cái khi nó làm bung đoạn dây xoắn.
“Sao ông phải làm thế ạ?” “Để dây câu chắc chắn hơn.”
Việc đó cũng giúp tôi guồng dây dễ hơn. Đỡ nặng nề, chứ không giống đi móc dây vào tường gạch rồi kéo như lúc trước. Tôi kéo con cá lại gần, rồi nó lại làm bung một đoạn xoắn rồi bơi ra xa. Chúng tôi cứ giằng co với nhau như vậy một lúc lâu. Tôi cũng không nhớ là bao lâu nữa. Tôi chỉ biết là khi ấy mọi múi cơ trên cánh tay tôi đều kêu gào đình công, và tôi nghĩ chắc chúng sắp rụng xuống đến nơi rồi. Tôi không biết mình nên làm gì nếu cánh tay tôi không chịu hoạt động nữa. Bàn tay tôi đau lắm, và thật khó để cố gắng không la to lên. Nhưng tôi không hét. Tôi cố nén cơn đau vào lòng.
Sau đó, khi tôi nghĩ mình chẳng thu được kết quả gì, thì con cá nheo trồi lên mặt bùn ven bờ. Khi nó cố giật dây lại thì không bơi xa được nữa, vì nó đã mắc vào vũng bùn. Tôi đứng dậy và lùi về phía sau, rồi tiếp tục kéo cho tới khi nhấc được nó lên khỏi mặt bùn. Tôi vừa chạy, vừa kéo dây khi tới chỗ nó.
“Cháu làm tốt lắm!” Ông Paul nói.
Chúng tôi đứng ngắm nó vài giây. Trong một vài tích tắc ngắn ngủi, nó nằm bất động, như thể biết đời mình coi như xong rồi.
Nó là loại cá thân dày, thân màu nâu ngả xanh lá, với hai con mắt trố kì quặc. Hai bên mép nó có hai chiếc ria, nhưng không phải lông mà lại giống như da cá. Tôi định nói rằng chúng trông giống ria mèo. Nhưng sau đó tôi nhận ra điều đó đúng là quá ngu si mà. Tất nhiên nó phải giống ria mèo rồi. Thế thì người ta mới gọi nó là cá nheo chứ.
“Cháu cầm nó cẩn thận đấy nhé”, ông Paul nói. “Đừng cho tay vào miệng nó. Nó có thể cắn cháu đấy. Cháu muốn ta xỏ dây giúp cháu không?”
“Có ạ.”
Tôi còn chẳng biết xỏ dây là sao. Hồi trước chúng tôi luôn thả cá vào giỏ câu. Nhưng con cá này dài gấp đôi cái giỏ câu cơ. Mà ông Paul thậm chí còn chẳng mang giỏ theo nữa chứ.
Tôi thấy ông Paul lôi ra một cuộn dây màu vàng từ hộp dụng cụ, trông giống như dây thừng ni-lông. Nó có một đầu kim loại nhọn, còn ở đầu kia là vòng kim loại. Tôi thấy ông luồn đầu dây có đầu nhọn qua mang cá, rồi ông cứ xuyên tiếp cho tới khi đầu dây trồi ra khỏi miệng con cá. Nó đang ngoác miệng thở hổn hển. Sau đó ông luồn đầu dây qua vòng kim loại rồi thắt chặt lại, vậy là ông đã hoàn thành việc xuyên dây qua người con cá. Ông lấy móc câu của tôi ra khỏi miệng nó, và tôi lại móc vào dây câu.
Ông Paul mang con cá tới rìa phía hạ lưu sông, và thả nó xuống chỗ nước nông. Ông cột đầu dây vào một nhánh cây nhỏ để con cá không bơi đi mất.
Tôi lại móc thêm một miếng gan gà kinh dị vào lưỡi câu rồi quăng dây.
“Cháu quăng dây câu giỏi hơn nhiều rồi đấy”, ông nói. Tôi không biết ông đang nhìn mình.
Ông ngồi xuống gốc cây bên cạnh và nhặt cần câu lên. “Chà”, ông nói. “Lúc nãy hồi hộp thật đấy.”
“Cháu chưa từng nghĩ mình sẽ bắt được một con cá to đến vậy trong đời. Ông nghĩ nó nặng khoảng bao nhiêu ạ?”
“Có lẽ khoảng bảy, hoặc tám pound.” “Thế cá hồi thì nặng chừng nào ạ?” “Một pound hoặc nhẹ hơn thế.”
“Woa. Thế thì chú cá hôm nay sẽ nấu được thành nhiều món lắm đây.”
Chúng tôi lại im lặng tiếp tục câu một lúc nữa. Mười lăm hay hai mươi phút trôi qua nhưng chúng tôi chẳng nói với nhau câu nào. Thi thoảng tôi lại giật nhẹ cần câu để xem có cá cắn câu không. Nhưng mỗi lần như vậy, tôi đều thấy cần câu buông lỏng.
Sau đó tôi nói, “Ông tính đợi một năm mới nói với bà ấy, nhưng nhỡ bà ấy lại gặp người khác thì sao ạ?”.
“Hầu như ngày nào ta chẳng nói chuyện với bà ấy.”
“Vâng. Nhưng ngộ nhỡ sau một năm nữa, trong khi ông vẫn nói chuyện với bà ấy, và bà ấy thông báo rằng bà ấy đã gặp gỡ người khác thì sao? Như thế chẳng phải ông lại sai thời điểm sao ạ, và ông thì đã chờ quá lâu rồi.”
Nói tới chờ đợi, tôi cũng ngồi một lúc lâu để đợi ông trả lời. Nhưng ông không hề trả lời tôi.
“Cháu xin lỗi. Có lẽ ông không muốn nói về chuyện bà Rachel. Cháu chỉ đang suy nghĩ vậy thôi. Và cháu biết là thật kì quặc khi cháu lại nói điều đó với ông. Cháu cũng biết ông không thích nghe chuyện đó lắm. Nhưng không phải ông nghe cháu nói sẽ tốt hơn là để chuyện đó xảy ra ạ?”
Đầu tiên thì ông chưa phản ứng ngay.
Sau đó ông nói, “Nghe này, ta biết gần đây ta quan tâm đến cháu khá nhiều, nhưng…”.
“Vâng. Cháu xin lỗi. Đó không phải chuyện của cháu. Thôi thì chúng ta nói chuyện khác vậy. Thế hai hôm trước Sophie nằm ở đâu khi ông tỉnh dậy ạ? Chắc con bé không trèo lên giường nằm cạnh ông phải không ạ?”
“Trên giường á? Không. Sao con bé lại trèo lên đó? Con bé muốn được nằm cạnh Rig mà.”
“Không phải Rig nằm trên giường cùng ông ạ?” “Không. Rig ngủ trong ổ của nó trên sàn mà.”
“Thôi chết. Thế thì cháu sai rồi. Cháu cứ nghĩ nó được phép nằm trên giường chứ ạ. Tại nó nằm cùng cháu suốt, và cháu thì nghĩ nó sẽ không làm vậy nếu như không được ông cho phép.”
“Ta không thấy phiền nếu nó trèo lên đó đâu. Ta chỉ không muốn nó trèo lên khi ta đang ngủ thôi. Vì như thế thì làm gì còn đủ chỗ cho ta nằm nữa.”
“Nó đã lịch sự nhường cho cháu nửa phần giường.”
“Sao lại thế được? Nó còn to hơn cái giường đó mà.” “Chân nó buông thõng ra phía ngoài thành giường ạ.” “Nó thông minh thật đấy, nhiều lúc ta cũng thấy sợ.” “Cháu xin lỗi nếu đã làm sai điều gì.”
“Không sao mà. Ta không bận tâm đâu, nếu cháu không thấy phiền.”
“Cháu đang nghĩ có lẽ chúng ta nên lắp khóa xích phía trong căn phòng. Và chúng ta phải lắp thật cao, để Sophie không với tới được.”
“Được rồi. Chúng ta sẽ rẽ qua cửa hàng mua một cái trên đường qua thị trấn. Ta sẽ lắp nó lên cửa khi mẹ cháu đi làm.”
Và tôi nghĩ, Được rồi. Có lẽ thứ đó sẽ giúp chúng tôi giải quyết vấn đề về Sophie. Có lẽ từ giờ mọi chuyện sẽ ổn. Nhưng đáng lẽ phải thoải mái và vui vẻ, thì trong đầu tôi lại nghĩ, “Vâng. Như thể cháu chưa được nghe chuyện đó trước đây vậy”.
“Cháu kể chuyện hai đứa ngày hôm qua đi”, ông nói. “Chúng ta có nhiều thời gian mà.”
Ông nhìn vào chiếc quần bò rách gối của tôi. Tôi đang gập đầu gối lại, nên có lẽ ông thấy vệt máu khô qua cái lỗ rách đó.
“Sophie vùng khỏi tay cháu rồi chạy lên nhà ông, nên cháu phải xử lý. Cháu chỉ định khiến em chú ý đến cháu thôi. Cháu chỉ định tỏ ra rằng mình có quyền kiểm soát. Cháu không cố ý làm con bé đau đâu ạ. Cháu không biết liệu chuyện đó là đúng hay sai nữa. Cháu không biết nữa. Ông có nghĩ cháu đã làm đúng không ạ?”
“Ta chịu thôi”, ông nói. “Nhưng ta nghĩ mình nên khen ngợi cháu vì đã thử dùng cách mới.”
Chúng tôi ngồi ngoài đó thêm khoảng hai tiếng đồng hồ. Mặt trời đã lên khá cao, và nhiệt độ cũng tăng theo. Nhưng chúng tôi chẳng bắt được thêm con cá nheo nào nữa.
Sáng hôm sau là ngày thứ ba ông Paul trở lại. Tôi tỉnh dậy trong phòng. Tôi lại thấy gió lùa lạnh run.
“Không thể thế được”, tôi nói to với chính mình.
Tôi nhỏm dậy và nhìn qua tấm vách ngăn. Cánh cửa mở toang. Chiếc khóa xích của ông Paul đã bật tung và đang đung đưa khe khẽ.
Tôi lay mẹ dậy. Cánh tay tôi vẫn đau nhức nhối, nhưng tôi vẫn cố lay vai mẹ cho đến khi mẹ tỉnh hẳn. Trông mẹ có vẻ bực tức. Nhưng tôi chẳng quan tâm. Vì tôi cũng đang bực chết đi được ấy.
“Con lắp khóa để làm gì khi mẹ không khóa nó vào chứ.” “Mẹ khóa rồi mà.”
“Rõ ràng là không. Nếu mẹ khóa thì làm sao Sophie ra ngoài được.”
Mẹ nghển cổ ra ngoài nhìn.
“Chết tôi rồi”, mẹ nói. “Không hiểu con bé mở khóa kiểu gì nhỉ.”
“Chắc chắn là mẹ quên khóa mà.” “Mẹ khóa rồi.”
“Con không nghĩ thế đâu. Làm sao con bé với tới chỗ đó được.”
“Hừm. Mẹ chịu thôi, nhóc ạ. Nhưng đúng là mẹ khóa rồi mà.”
“Được rồi. Sao cũng được. Con sẽ đi xin lỗi ông Paul một lần nữa. Nhưng tối nay mẹ hãy để con tự khóa nhé.”
Đêm đó, trước khi tôi đi ngủ, và sau khi Sophie đã ngủ say, tôi rướn người khóa cửa lại. Chỗ đó khá cao đối với tôi. Và hai cánh tay tôi vẫn đau như muốn rụng rời.
“Mẹ thề, mẹ khóa cửa rồi mà”, mẹ tôi nói.
Tôi nghĩ mẹ nói dối, nhưng không muốn cãi nhau với mẹ.
Sáng hôm sau là ngày thứ tư ông Paul về nhà, tôi lại tỉnh dậy vì gió lùa lạnh cóng.
“Khỉ thật”, tôi nói. Trước cả khi tôi dậy nhìn cửa.
Tôi lại lay mẹ dậy, và chúng tôi nhìn chằm chằm vào cánh cửa mở toang. Và lắc đầu.
“Có lẽ con bé lôi ghế trong bếp ra dùng”, mẹ nói.
“Con tạm tin lời mẹ đấy. Nhưng con nghĩ sau khi mở khóa, con bé sẽ chạy đi luôn. Chứ con không nghĩ con bé lại thừa hơi kéo ghế về chỗ cũ đâu. Con biết Sophie sẽ tìm cách có được thứ mình muốn, nhưng nó không biết cách xóa dấu vết đâu.”
"Hừm. Thế con có nghĩ cái tràng kỷ này gần cửa quá không? Con có nghĩ là con bé trèo lên ghế rồi rướn người qua đó mở cửa không?”
“Con chịu thôi. Nhưng mình chuyển cái ghế này ra xa đi. Để đề phòng. Và con sẽ đi xin lỗi ông Paul thêm một lần nữa.”
Sáng ngày thứ năm ông Paul về nhà, tôi lại thấy cánh cửa mở toang và một chiếc ghế bị kéo đến bên cửa ra vào.
Tôi lại đánh thức mẹ dậy.
“Chà, ít ra con cũng nói đúng một điều. Con bé chẳng thèm xóa đi dấu vết nhỉ.”
“Mẹ sẽ chuyển bàn ghế xuống ga-ra trước khi mẹ đi làm. Con lại sang xin lỗi ông Paul một lần nữa đi vậy.”
“Phải rồi. Làm như chúng ta không nói vậy với nhau mỗi sáng ấy. Làm như chúng ta nên thấy may mắn vì chỉ còn lần này nữa thôi vậy.”
Sáng ngày thứ sáu ông Paul về nhà, cửa phòng lại mở toang. Trước cửa là chiếc rương của tôi, và một chồng sách ọp ẹp.
Tôi đánh thức mẹ.
“Con nghĩ chúng ta đi tong rồi”, tôi nói. “Con xin lỗi vì đã dùng từ đó.”
“Từ đó còn lịch sự hơn điều mẹ đang nghĩ đấy.”
"Chẳng có cách nào thành công cả."
“Mẹ đã tìm thử rồi.”
“Mẹ tìm thấy chỗ nào khả dĩ không?”
“Không gần đây đâu. Đó không phải là nơi chúng ta muốn đến khi nào cũng được.”
“Con sang đó nói chuyện với ông Paul vậy.”
Tôi dừng rất lâu trước cửa sau nhà ông, với bàn tay và tai áp lên cửa. Tôi muốn nghe ngóng xem liệu ông đã thức giấc chưa. Tôi nghĩ mình nghe thấy tiếng vòi nước, nên tôi gõ cửa.
Ông Paul mở cửa, ông đã ăn vận chỉnh tề và cạo râu. “Chào cháu”, ông nói. “Con bé vẫn nằm ở chỗ mọi hôm thôi.”
“Mấy ngày nay ông kiên nhẫn đến khó tin. Nhưng cháu nghĩ mình cần nói chuyện với ông, vì chuyện này sẽ chẳng đi đến đâu cả.”
“Cháu vào đi.”
Tôi đi theo ông vào bếp rồi ngồi vào bàn ăn. Ông rót cho tôi một tách cà phê, sau đó lại đặt đường và sữa trước mặt tôi.
“Cháu cảm ơn ạ”, tôi nói.
Tôi không chắc mình phải nói gì hoặc khi nào mình nên bắt đầu nói. Tôi cảm giác tất cả những chuyện này đã tự thể hiện điều tôi muốn nói rồi. Nên tôi cứ ngồi ì ra đó, và nhìn ông chuẩn bị đồ ăn cho Rigby. Ông đặt bát ăn xuống đất rồi gọi nó. Rigby vào bếp, trông nó bước đi có vẻ hơi khó khăn và khập khiễng. Sophie theo sát ngay phía sau.
Rồi ông ngồi vào bàn với tôi cùng một tách cà phê. Một lúc lâu sau đó, chúng tôi cứ nhìn chằm chằm vào tách cà phê, và chẳng ai nói gì với nhau hết.
Đúng lúc tôi chuẩn bị nói thì ông mở lời.
“Có vẻ chuyện này cũng không tệ lắm”, ông nói. “Ta đã nghĩ là sẽ rất tệ đấy. Nhưng hóa ra không phải. Ta không chắc chắn đâu, nên đừng kể cho ai rằng ta đã nói vậy nhé. Ta không nói điều này với ai ngoài cháu, và ta tin tưởng cháu sẽ không hiểu nhầm ta. Nhưng ta thấy Sophie ở đây giống như trong nhà ta có thêm một chú cún vậy. Một chú cún rất ngoan. Ta biết con bé không phải là cún. Ta hoàn toàn công nhận con bé là người. Nhưng con bé đang bắt chước hành động của loài chó, nên ta có cảm giác như vậy. Ta không nghĩ là nhà có thêm một con người. Nếu là con người, thì họ sẽ nhìn vào mắt ta. Và cố gắng bắt chuyện với ta. Và ta sẽ phải cẩn trọng với lời nói và hành động của mình trước mặt người đó, cho dù đây là nhà của ta. Nhưng Sophie thì không bao giờ nhìn ta. Con bé thậm chí còn chẳng biết có ta ở đây. Hoặc có thể con bé không quan tâm. Dù sao thì, thực sự con bé cũng không chiếm nhiều diện tích nhà ta mà.”
“Vậy là… cháu không chắc về điều ông nói lắm. Có thể cháu đã hiểu, nhưng cháu không thể tin ông đã nói vậy. Ông nói là chuyện này không sao ạ?”
“Ta đang nói là… Mỗi sáng ta thức giấc, thì con bé vẫn đang ngủ rất ngoan trong ổ của Rigby, sau đó cháu tới đón con bé để đưa nó ra xe đi học. Ta không nghĩ vì chuyện này mà con bé phải vào trại trẻ đặc biệt. Ta không nghĩ chuyện này tồi tệ đến thế đâu.”
Mẹ tôi đã thức giấc và mặc quần áo chỉnh tề khi tôi quay lại. Trông mẹ cực kì hoảng loạn. Thật đấy, trông mẹ như thể sắp nôn đến nơi ấy.
“Thế ông ấy nói gì?”
“Mẹ chắc chắn không bao giờ tin nổi chuyện này đâu.” Tôi tự nhắc bản thân rằng từ giờ đến mùa đông, tôi phải dạy Sophie cách đóng cửa trước khi sang nhà ông Paul mới được.