• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mình về nhà thôi
  3. Trang 17

1Mỉm cười

K

hi tôi vừa tỉnh giấc và bước ra ngoài tấm vách ngăn thì mẹ đang ngồi bên bàn bếp trong góc phòng. Mẹ đang uống trà và ăn bánh mì nướng quết bơ.

Khi đó đã là một năm rưỡi kể từ khi chúng tôi chuyển đến thị trấn, mà chúng tôi vẫn chưa mua chiếc ghế thứ ba. Nhưng chúng tôi cũng chẳng cần tới nó, vì Sophie chẳng bao giờ ở nhà cả. Con bé ở trường, hoặc ở nhà ông Paul cùng Rigby.

“Đêm qua tuyết rơi dày lắm đấy”, mẹ nói. “Con đi ủng vào nhé.”

“Vâng.”

“Có thể con sẽ cần giày đi tuyết hoặc một cặp gậy trượt tuyết để di chuyển ngoài kia đấy.”

“Mẹ đang đùa đấy ạ?”

“Mẹ nói nửa đùa, nửa thật đấy. Vì tuyết ngoài kia dày thật mà. Con cố đưa Sophie về sớm để mẹ còn kịp mặc quần áo cho con bé nhé. Và nếu hôm qua người ta chưa đến xúc tuyết, thì chúng ta còn phải trèo qua đồi tuyết to đùng ngoài kia nữa kìa. Con nghĩ người ta đã cho xe đến xúc tuyết chưa? Con có nghe thấy tiếng động gì không? Có khi trường học đóng cửa hết rồi nhỉ.”

“Con đảm bảo với mẹ là các trường học đều đóng cửa hết rồi. Đang nghỉ lễ Giáng sinh mà.”

“Không, bắt đầu từ mai chứ.” “Không, từ hôm nay đấy ạ.” “Không phải trường Sophie.”

“Có, trường Sophie cũng vậy mà. Con hỏi lại hai lần rồi. Tất cả các trường đều bắt đầu nghỉ lễ cùng một ngày mà.”

“Ôi, sao mẹ lại nghe nhầm được nhỉ.” “Con chịu thôi.”

Tôi nôn nóng muốn sang nhà ông Paul. Ông cần tôi giúp đỡ mỗi sáng. Và tôi sang đó càng sớm càng tốt. Không biết mẹ có thấy tôi đang nôn nóng không nhỉ.

“Con chó thế nào rồi hả con? Nó đỡ hơn chưa?”

“Mẹ này. Đây không phải loại bệnh có thể đỡ được đâu.”

Mẹ nhăn trán. Tôi đứng đợi mẹ trả lời, nhưng mẹ chẳng nói gì thêm.

“Ông Paul cần con giúp. Con phải đi đây.”

Tôi bám chắc tay vịn cầu thang khi đi xuống dưới, và cố gắng dùng chân gạt đống tuyết trên bậc thang ra thật xa trước khi bước xuống. Khi tôi chắc chắn mình đã đến bậc cầu thang cuối cùng, tôi sải một bước thật dài, nhưng lớp tuyết vẫn ngập lên tận đầu gối. Tôi vẫn cố gắng đi tiếp, dù đôi ủng đã ngập đầy tuyết.

Ông Paul đã dọn hết tuyết trên mấy bậc cầu thang sau nhà. Chắc ông phải dậy từ rất sớm thì mới kịp xúc tuyết đi như thế.

Tôi gõ nhẹ cửa sau nhà ông.

“Cửa đang mở đấy”, ông nói vọng ra. “Cháu vào đi.” Tôi vào nhà. Rồi đi thẳng đến chỗ Rigby.

Nó đang nằm nghiêng trên tấm nệm sưởi ông Paul mua, trên người phủ một tấm chăn chần bông thủ công khá nặng, và cả Sophie nữa. Khi Rigby thấy tôi, nó liền ngẩng đầu dậy và vẫy đuôi, khiến một đầu chăn phấp phới liên hồi.

“Cháu nghĩ chúng ta có thể làm được chuyện này nữa không?” Ông Paul hỏi tôi.

Nói đoạn, ông liền đưa cho tôi một tách cà phê sữa có đường.

“Chúng ta phải làm được, ông ạ”, tôi đáp.

Tôi nhìn xuống Sophie. Thật kì lạ, hôm đó trông con bé không hề điềm tĩnh như trước. Lâu lắm rồi tôi mới thấy biểu cảm này trên mặt Sophie, kể từ sau những ngày đầu chúng tôi chuyển đến thị trấn. Khuôn mặt con bé nhăn nhó dữ lắm, như thể có thứ gì vô hình đang thụi liên hồi vào mạng sườn nó ấy. Và con bé còn khẽ rên lên từng hồi nữa.

“Để cháu đặt tách cà phê này xuống ạ”, tôi nói. “Cháu uống đi đã. Rigby đợi được mà.”

“Cháu thấy như vậy không đúng lắm. Cháu nghĩ ta nên ưu tiên cho nhu cầu của Rigby trước ạ.”

“Được rồi”, ông đáp.

Tôi đặt tách cà phê lên chiếc bàn cạnh giường ông. “Nào, Sophie”, tôi nói. “Nào, Rigby. Chúng ta cùng đứng dậy nào. Chúng ta cùng nhau ra ngoài nhé.”

Sophie không đứng dậy. Bình thường em sẽ đứng dậy ngay. Nhưng hôm nay con bé chỉ nằm lì ở đó, rên rỉ và nhăn nhó.

“Con bé bắt đầu rên rỉ thế này từ khi nào ạ?” Tôi hỏi ông Paul.

“Chỉ mới sáng nay, sau khi Rigby tỉnh giấc thôi. Rigby ngủ thì con bé cũng ngủ mà.”

Tôi có một giả thuyết. Nhưng tôi không hề thích giả thuyết ấy, nên không nói với ông. Tôi cố không suy nghĩ nữa và hy vọng nó sẽ biến mất. Tôi nhấc Sophie ngồi dậy. Con bé kêu đau, nhưng lại không hề chống cự.

“Cháu sẵn sàng chưa?” Ông Paul hỏi tôi. “Cháu lúc nào cũng sẵn sàng mà.”

Cả hai chúng tôi cùng hợp sức nâng người Rigby dậy. Chúng tôi đã làm việc đó gần một tuần nay rồi. Nhưng tôi có cảm giác buổi sáng hôm đó khó khăn hơn những lần trước rất nhiều. Tôi cứ phải dừng lại và chỉnh chân Rigby suốt. Còn ông Paul thì phải cố giữ cho nó khỏi ngã khi tôi điều chỉnh chân nó. Mấy ngày nay lưng tôi bắt đầu đau khủng khiếp, tôi thậm chí còn chẳng muốn nghĩ xem liệu ông Paul đang cảm thấy thế nào.

Khi Rigby đã đứng thẳng và có vẻ cân bằng, thì hai chúng tôi sẽ đỡ nó từ hai bên. Chúng tôi phải đứng thật gần vì nó có thể loạng choạng ngả nghiêng bất cứ lúc nào. Nếu chúng tôi đứng xa ra thì nó sẽ ngã mất.

Chúng tôi cẩn thận dắt nó ra đằng cửa trước. Rigby không đi qua lối cửa sau nữa rồi. Ở phía sau nhà chỉ có mỗi cầu thang và chiếu nghỉ, nhưng Rigby không leo được cầu thang nữa. Nó không leo cầu thang được hàng tháng nay rồi. Ngoài cửa trước có một khoảng đất nhỏ khá bằng phẳng, nên Rigby chỉ cần bước một bước ra ngoài, rồi lại bước một bước nữa trở vào trong thôi.

Cứ mỗi lần Rigby bước đi, Sophie lại rên rỉ. Như thể mỗi lần Rigby bước đi, thì có người lại dập một chiếc ghim vào người con bé vậy. Điều này chẳng giúp tôi hết nghi ngờ chút nào.

Khi chúng tôi ra đến nơi thì tôi cũng thấy dấu xẻng xúc tuyết của ông Paul. Ông xúc tuyết đi để Rigby có thể di chuyển xung quanh mà không bị ngập trong biển tuyết.

“Mới sáng sớm mà ông đã làm được nhiều việc thế ạ?” Tôi hỏi.

“Ta không ngủ được ngon giấc cho lắm.” “Ôi. Cháu rất tiếc vì chuyện đó ạ.”

Chúng tôi đỡ người Rigby khi nó bước qua bậc cửa bê tông. Rồi nó ngồi xổm ngay xuống để tè. Nó còn không ngửi quanh trước khi giải quyết nữa. Sau đó nó suýt ngã nhào. Ông Paul đỡ được nó, nhưng bị trượt chân và ngã khụy đầu gối xuống. Ông la lớn. Tôi biết ông bị thương, nhưng tôi không rõ ông đau tới mức nào. Ông vẫn ngồi nguyên tư thế đó để đỡ Rigby, cho tới khi tôi giúp nó đứng thăng bằng trở lại.

Một khi đã bắt đầu thì Rigby không thể ngừng tè. Thế nên nó tè hết lên hai chân sau và sau đó chúng tôi lại đỡ nó dậy.

“Chúng ta đưa Rig vào thôi”, ông nói. “Nó không cần ở lại ngoài này nữa đâu.”

“Rig vẫn không ăn gì ạ?”

“Gần ba ngày nay nó không ăn gì rồi.”

Chúng tôi lại đỡ Rigby vào nhà, còn Sophie theo sau rên rỉ. Chúng tôi giúp Rig đứng thăng bằng phía trên tấm nệm và định giúp nó nằm xuống, nhưng nó gần như đổ cả người lên nệm. May có tấm nệm nên nó không bị thương. Nhưng tôi biết, chắc hẳn mấy khớp xương bị viêm của nó đang đau lắm. Nó rúm người lại, nhưng không hề phát ra tiếng động nào.

Sophie rít lên khi Rigby ngã xuống, sau đó lại cuộn người nằm cạnh Rigby.

Tôi ngồi khoanh chân cạnh đầu Rigby trên sàn nhà rồi khẽ vuốt ve tai nó. Rigby tựa chiếc mõm xám to lớn của mình lên trên đầu gối tôi và khẽ thở dài.

Ông Paul quay lại với một chiếc giẻ và chậu nước ấm. Ông lau hai chân sau của nó, rồi dùng một chiếc khăn tắm thấm khô. Sau đó chúng tôi lại đắp chăn lên người Rig.

“Lúc nãy ông ngã có đau lắm không ạ?” Tôi hỏi ông. “Chắc đến sáng mai ta mới biết cú ngã đó tệ đến mức nào. Nhưng cũng đau ra trò đấy.”

“Lưng của ông ạ?” “Ừ, thật không may.”

Tôi định hỏi nếu như ông bị thương như thế thì sáng mai tôi sẽ đưa Rigby ra ngoài thế nào, mà không phải đưa mẹ tôi vào đây. Nếu ông muốn mẹ tôi sang giúp, thì có lẽ ông đã đề nghị tôi từ lâu lắm rồi.

Tôi không hỏi. Vì chẳng có câu trả lời nào hợp lí cả. Nếu hai chúng tôi không làm được thì tôi sẽ tự làm điều đó một mình.

“Cháu có một giả thuyết về Sophie”, tôi nói. “Về những hành động của con bé.”

“Liệu ta có muốn nghe điều đó không?” “Không ạ.”

Đầu tiên tôi nghĩ ông không muốn nghe giả thuyết của tôi thật. Và ông không bao giờ muốn tôi nhắc đến nó. Nhưng sau đó ông lại kéo tay áo tôi và ra hiệu cho tôi vào trong bếp.

Trước khi tôi rời đi, tôi lại nhắc Rigby điều tôi vẫn thường nói ba tháng nay. Nhưng tôi không nói to hẳn. Tôi không bao giờ nói điều đó thành lời. Nhưng tôi vẫn tin rằng Rigby hiểu. Nên tôi lại thì thầm, Nếu chị không được gặp em nữa, thì Rigby à, chị muốn nói rằng chị rất thương em. Và tạm biệt em nhé. Cảm ơn em vì tất cả.

Tôi cầm tách cà phê của mình lên, rồi vào bếp cùng ông Paul. Đầu tiên, chúng tôi chỉ ngồi im lặng bên bàn bếp.

“Cháu nghĩ thuốc giảm đau của Rig không còn tác dụng nữa”, tôi nói.

“Chỗ thuốc đó gần đủ để giết chết nó rồi đó. Ta không tin là chúng không còn tác dụng đâu.”

“Cháu nghĩ cơn đau của Rigby trở nặng hơn rồi.” “Ta tưởng giả thuyết của cháu là về Sophie chứ?” “Thì cháu đang nói mà.”

Tôi biết ông chưa hiểu điều đó, nhưng ông không hỏi. Có lẽ vì ông không muốn biết.

“Sophie bắt chước nội tâm và cảm xúc của Rigby. Bình thường Rigby điềm tĩnh, nên con bé cũng vậy. Và khi Rigby tỏ ra vui mừng phấn khích khi được gặp ông thì Sophie cũng bắt chước nó.”

“Vậy ý cháu là con bé rên rỉ vì Rigby bị đau à.” “Có lẽ vậy ạ.”

“Cháu cũng biết nếu thuốc giảm đau không còn tác dụng thì ta phải đưa nó tới chỗ bác sĩ thú y tiêm thuốc an tử đúng không?”

“Cháu biết ạ. Cháu xin lỗi ông. Cháu chỉ nghĩ mình nên nói với ông thôi.”

“Ừ. Cháu nói đúng. Ta nghĩ vậy. Thế cháu chắc chắn được bao nhiêu phần? Ngộ nhỡ con bé rên rỉ vì biết Rigby sắp ra đi thì sao? Có thể con bé cảm nhận được điều đó đấy.”

“Có thể ạ.”

“Nhưng cháu nghĩ đó là do cơn đau của Rigby.”

“Chắc ông đã nghe con bé rên rỉ khi chúng ta dẫn Rigby ra cửa rồi phải không ạ. Mỗi bước đi, mỗi lần Rigby đặt chân xuống. Và khi Rigby ngã xuống nệm, con bé thậm chí còn rít lên. Rigby không kêu lên tiếng nào, nhưng Sophie thì có.”

Ông nhắm mắt. Lúc đầu, trông ông như đang nín thở. Sau đó ông thở hắt ra, một hơi rất dài và chậm rãi khác thường. Sự im lặng của ông bắt đầu khiến tôi thấy sợ.

Ông đứng dậy, rồi quay về phòng ngủ. Tôi không đi theo ông. Người tôi cứ như vừa mọc rễ rồi bám chặt vào chiếc ghế trong căn phòng bếp này vậy.

Khoảng một giờ sau, ông quay lại. Hoặc có lẽ chỉ hai, hay ba phút sau thôi. Tôi chẳng thể biết chính xác bao nhiêu phút đã trôi qua.

“Ta không biết ta phải đưa Rigby đến chỗ bác sĩ thế nào đây. Có lẽ chúng ta phải gọi thêm một, hoặc hai người nữa tới giúp.”

“Hoặc bác sĩ có thể tới đây ạ.” “Có lẽ vậy.”

Chúng tôi uống nốt tách cà phê của mình trong im lặng. Và sự im lặng đó thật nặng nề. Nó nặng nề đến nỗi ruột gan tôi như chùng xuống. Dường như sự im lặng đó có thể xé nát ruột gan tôi.

“Quyết định đó thực sự rất khó khăn”, ông nói. “Nếu Rigby vẫn muốn ở lại, thì ta không muốn phải kết thúc cuộc sống của nó sớm đến thế. Nhưng nếu nó đau đớn quá, thì ta thật chẳng muốn bắt nó phải chịu đựng thêm. Ta không biết mình nên làm gì nữa. Ta nên làm gì, hả Angie?”

Tôi không đáp. Vì chính tôi cũng chẳng biết phải trả lời ra sao.

Tôi đã cố trả lời ông. Ít nhất tôi cũng nên nói là cháu không biết. Nhưng những từ đó sao nặng nề quá, nên tôi chợt nghẹn lời.

Vài phút sau, tôi nói, “Cháu nghĩ ông nên gọi cho bà Rachel”.

“Và nói gì với bà ấy chứ?” “Ông nên gọi bà ấy tới đây.” “Để làm gì?”

“Để giúp đỡ ạ. Ông đã tới đó khi bà ấy phải chứng kiến ông Dan qua đời mà.”

“Nhưng bà ấy có yêu cầu ta làm vậy đâu. Bà ấy nói ta nên ở lại và tận hưởng thời gian nghỉ hưu của mình.” “Nhưng đó là khi ông Dan chuẩn bị làm phẫu thuật, chứ không phải lúc ông ấy sắp qua đời. Chắc bà ấy không muốn đối mặt với điều đó một mình đâu, phải không ạ?”

“Có thể lắm chứ. Ngay sau khi Dan mất, bà ấy đã muốn được ở một mình rồi.”

“Ông có muốn ở một mình không ạ? Hay ông muốn bà ấy tới đây ạ?”

Ông hít thở mấy lần, và tôi cũng nghe rõ từng tiếng thở của ông. Sau đó ông đáp, “Nếu bà ấy tới đây thì thật tốt. Nhưng… chuyện đó… ta không biết nên lấy lí do gì đây. Nếu ta nói rằng, trong số tất cả những người ta từng quen, bà ấy là người duy nhất ta muốn cùng trải qua chuyện này thì có lộ liễu quá không? Nếu ta nói câu đó, chắc bà ấy sẽ nhận ra ta nghĩ gì về bà ấy mất”.

“Ông Paul à. Đã một năm rưỡi rồi. Ông không nghĩ bây giờ là lúc thích hợp để nói ra điều đó ạ?”

Ông lắc đầu thật mạnh.

“Quá nhiều so với sức chịu đựng của ta. Ta không thể làm chuyện đó ngay bây giờ. Ta không thể chịu nổi khi có nhiều chuyện cùng ập xuống đến vậy.”

“Vậy thì thôi. Ông có thể gọi bà ấy đến vì ông cần người giúp đưa Rigby đi bác sĩ thú y mà.”

Ông chẳng đáp lời tôi. Trong một lúc rất, rất lâu. Có lẽ ông không nghe thấy điều tôi nói, hoặc ông không muốn tranh luận về điều đó.

Nhưng sau đó, bất thình lình, ông đứng bật dậy. “Nghe được đó”, ông nói.

Tôi thấy tự hào vì đã nghĩ ra cách đó.

Ông gọi cho bà Rachel, và bà đã đồng ý tới đây ngay hôm sau.

Khi tỉnh giấc sáng hôm sau, điều đầu tiên tôi nghĩ đến là có thể tôi sẽ không được ở bên Rigby vào những ngày cuối đời của nó. Bởi khi bà Rachel tới đây, có thể ông Paul sẽ muốn tôi tránh mặt đi. Và cả Sophie nữa. Tôi còn chưa hỏi ông liệu Sophie có thể ở đây không. Nhưng sau tất cả mọi chuyện, tôi không chắc ai đó có thể bắt Sophie đi đâu khác được.

Tôi thấy buồn lắm. Tôi cảm thấy rõ nỗi buồn ấy trong lồng ngực mình, và khi ấy tôi đã hiểu tại sao người ta lại nói là trái tim tan vỡ. Vì đúng là tôi cảm thấy như vậy thật.

Nhưng rồi tôi nghĩ, nếu tôi có khả năng quay ngược thời gian, thì tôi có nói ra những điều đó nữa không?

Tôi biết mình vẫn sẽ nói ra điều đó. Vì Rigby là chó của ông Paul, nên ông Paul quan trọng hơn việc tôi được ở bên Rigby.

Tôi thức dậy, đối mặt với thực tại. Và chuẩn bị sẵn sàng tâm thế đón nhận sự thật.

Tôi còn làm được gì nữa chứ?

Cửa sau không khóa, bình thường như vậy nghĩa là ông Paul đã thức. Nhưng khi tôi vào nhà thì lại không nghe thấy tiếng, hay nhìn thấy ông đâu. Tôi ngó vào phòng ngủ của ông để kiểm tra tình hình Sophie và Rig. Ông Paul nháy mắt với tôi. Ông đã tỉnh, nhưng vẫn nằm trên giường.

“Ta dậy từ ba giờ sáng”, ông nói. “Nhưng không sao. Cháu có thể vào đây kiểm tra hai đứa.”

Rigby đang nằm nghiêng và ngủ mê mệt. Nó không tỉnh dậy, cũng không vẫy đuôi chào tôi. Còn Sophie nằm ngửa và không chạm đến người Rigby. Con bé chăm chú nhìn vào giữa không trung, và mỉm cười.

“Sophie đang mỉm cười ạ”, tôi nói.

“Kì lạ thật”, ông nói. “Ta không nghĩ mình đã từng thấy Sophie cười trước đây đâu. Cháu nghĩ như vậy nghĩa là sao?”

“Cháu không biết ạ.”

“Cháu có nghĩ là vì sáng nay Rigby không thấy đau nữa không?”

Khi đó tôi chợt hiểu ra. Và tôi nghĩ ông cũng vậy, vì ông đã lao thật nhanh tới chỗ chúng tôi.

Tôi thấy ông đặt tay lên ngực Rigby. Sau đó ông lại đặt tay lên chỗ động mạch cổ của nó.

“Nó không còn đau đớn nữa rồi”, ông nói.

Ông phủ tấm chăn bông lên trùm kín toàn thân Rigby. Kể cả chiếc đầu đen và chiếc mõm xám của nó.

Ông Paul và tôi ngồi trong bếp đợi bà Rachel tới. Chúng tôi hầu như chẳng nói gì với nhau trong lúc chờ đợi.

Tôi chỉ nhớ mình có nói với ông rằng, “Rigby đã giúp ông khỏi phải quyết định. Bởi nó biết quyết định đó sẽ khó khăn đối với ông. Cháu nghĩ nó thật tốt bụng”.

“Nó là vậy mà.”

“Ông có muốn cháu xúc tuyết trên đường giúp ông để lát nữa bà Rachel đánh xe vào ga-ra không ạ?”

“Ừ, ý kiến hay đấy”, ông đáp. “Cảm ơn cháu.” Như vậy thì ít ra tôi còn có việc để làm.

“Chúng ta quên bữa sáng rồi”, ông nói. “Cháu muốn ăn trưa không?”

“Không ạ. Ông thì sao ạ?” “Không.”

Chúng tôi lại ngồi thêm một lúc nữa.

Rồi tôi nói, “Khi bà Rachel tới đây thì cháu và Sophie có cần phải lánh mặt đi không ạ? Nếu có, thì chúng cháu nên đi đâu ạ? Chúng cháu sẽ ra khỏi nhà ông, rồi về phòng trên ga-ra? Hay mẹ con cháu nên chuyển ra ngoài luôn ạ?”.

Trong khoảng một năm rưỡi vừa qua, tôi đã giục ông mời bà Rachel tới thăm nhà khoảng mười lần rồi. Cuối cùng thì ông Paul cũng mời bà ấy tới một lần. Và lần đó bà đã ở lại nhà ông bốn ngày. Khi đó mẹ, Sophie và tôi lại đi cắm trại ở khu trại lần trước. Nhưng lần này chúng tôi được dùng lều của ông Paul, và thời tiết khi đó rất đẹp. Chúng tôi đã sắp xếp trước mọi thứ để ông Paul có thể nói chuyện với bà Rachel.

Nhưng khi đó ông lại chẳng nói với bà ấy. Ông không nói với bà Rachel chuyện thực sự quan trọng.

Ông chẳng bao giờ giải thích cho tôi lí do ông không thổ lộ với bà, và tôi luôn cảm thấy mình thật không phải phép nếu hỏi ông về chuyện đó.

“Ta chưa trả lời ngay, có được không?” Cuối cùng ông cũng trả lời tôi. “Vâng ạ.”

“Nếu hai mẹ con sẵn sàng chuyển đi khi Sophie làm ồn thì tốt. Nhưng… ta không biết nữa. Nếu con bé cứ tiếp tục im lặng thế này… thì ta không nghĩ là có vấn đề gì cả.”

“Ông không cần phải quyết định ngay đâu ạ.” “Vậy thì tốt. Vì bây giờ ta chẳng nghĩ được gì hết.”

“Đó là tiếng xe của bà ấy, phải không ạ?” Tôi hỏi ông, vì tôi nghe thấy tiếng xe ai đó trên đường vào nhà chúng tôi.

“Ừ”, ông đáp. “Là bà ấy đấy.” Nhưng ông chẳng hề nhúc nhích.

“Ông có định đứng lên và ra đón bà ấy không ạ?”

“Ta không biết nữa”, ông đáp. Và ông vẫn ngồi yên đó. “Ta không nghĩ mình sẽ ra đó đâu.”

“Vâng. Vậy để cháu ra mở cửa.”

Tôi cẩn thận chạy xuống cầu thang, rồi mở cửa ga-ra để bà đỗ trong đó, bên cạnh xe ông Paul. Và khi bà nhấc hai chiếc va-li khỏi cốp xe, thì tôi xách giúp bà một cái.

“Cảm ơn cháu nhé, Angie”, bà nói. “Ông Paul đâu rồi?” Trông bà ấy trẻ thật. Nhưng không phải trẻ trung hơn bình thường hay gì đâu. Đột nhiên tôi nhận ra những lần trước gặp bà, tôi cũng cảm thấy hệt vậy. Trừ lần đầu tiên tôi gặp bà ở nhà ông Paul thì tôi chưa biết bà lớn hơn ông vài tuổi thôi. Thật khó mà tin nổi là bà ấy đã hơn sáu mươi tuổi.

Tôi không thể đoán được tuổi tác của bà khi nhìn gương mặt ấy. Trông bà giống một nữ diễn viên chỉ độ năm mươi thôi, nhưng trông bà vẫn ra dáng và rất đẹp, như một minh tinh.

“Ông đang ở trong bếp ạ”, tôi đáp.

Tôi đặt chiếc va-li của bà xuống và đóng cửa ga-ra lại. Chúng tôi lại bước đến chỗ cầu thang phía sau nhà. Tôi và bà cùng sánh bước, và phải cẩn thận để khỏi bị trượt chân.

“Rigby đã qua đời trong giấc ngủ đêm qua ạ”, tôi nói. “Ôi, trời. Thế Paul không sao chứ?”

“Cháu không biết ạ. Cháu không thấy ông ấy khóc.” “Ta không nghĩ đó là dấu hiệu tốt đâu.”

“Cháu không định nói đó là dấu hiệu tốt. Cháu thấy ông Paul giống như bị tê liệt cảm xúc ấy ạ.”

Sau đó tôi nhường đường cho bà lên trước, vì chỗ đó không đủ rộng cho hai người xách va-li đi cùng lúc. Khi chúng tôi đến chỗ chiếu nghỉ, tôi hỏi, “Cháu nhờ bà chuyện này được không ạ?”.

“Ta không thấy có lí do gì để từ chối cả.”

“Không phải cho cháu đâu ạ. Là cho ông Paul cơ ạ.” “Vậy thì chắc chắn ta phải giúp rồi.”

“Nếu ông Paul tỏ ra mình ổn và nói bà nên về nhà sớm, vì ông không cần bà giúp đưa Rigby đi bác sĩ nữa, thì bà đừng tin ông ấy, được không ạ?”

Tôi cảm giác bà cứ đứng nhìn tôi chăm chú một lúc lâu, và tôi bắt đầu lúng túng. Nhưng tôi cố đứng vững. Tôi thấy bà và tôi đang đứng thở ra khói, và hai làn hơi ấy hợp thành một đám mây lớn hơn. Sau đó bà đặt tay lên má tôi, à, phải nói là khum tay ôm má tôi mới đúng. Và tôi nghĩ, Đây chính là cách các bà mẹ nên chạm vào con mình. Và cử chỉ đó giống như dành riêng cho bạn, chứ không phải cho mẹ bạn. Nhưng tôi nghĩ đã quá muộn để mẹ tôi học điều đó rồi.

“Ta sẽ ở lại vài ngày”, bà đáp. “Cho tới khi chúng ta chắc chắn rằng ông ấy thực sự ổn.”

“Cháu cảm ơn ạ.”

Sau đó tôi mở cửa sau để bà vào nhà, rồi đóng cửa lại. Chúng tôi đi về phía phòng ngủ sau nhà. Trong đó vẫn còn giữ chiếc giường đôi mà ông Paul đặt mua khi bà đến chơi lần đầu.

“Bà có con không ạ?” Tôi hỏi bà.

Bà nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên, và tôi thì tự hỏi, liệu câu đó có khiếm nhã quá không. Liệu tôi hỏi điều đó có phải là thất lễ với bà không.

“Ta không có con. Sao cháu lại hỏi thế?”

“Cháu không biết. Cháu chỉ nghĩ bà là một người mẹ tuyệt vời thôi.”

Trước khi bà kịp trả lời thì chúng tôi đã đi tới phòng bếp, nên tôi và bà Rachel không nói gì với nhau nữa, vì ở đó tôi phải nhường cho hai ông bà nói chuyện.

Mẹ tôi vẫn về nhà vào khung giờ mọi khi. Khoảng hai rưỡi chiều. Tôi phải xuống tầng dưới chờ sẵn để gặp mẹ nói chuyện.

“Sao thế?” Mẹ hỏi. “Chú chó đó chết rồi à? Phải vậy không?”

“Cô chó. Là cô chó, mẹ ơi. Mẹ biết nó mấy năm nay rồi mà. Sao mẹ vẫn không chịu nhớ giới tính của nó vậy?” “Mẹ xin lỗi. Sophie đâu?”

“Con bé vẫn ở vị trí mọi hôm thôi ạ. Nó đang nằm trên giường của Rigby. Bây giờ thì Rigby vẫn nằm đó. Nhưng khoảng một giờ nữa thì bên dịch vụ hỏa táng sẽ cử người đến đưa nó đi.”

“Và sau đó Sophie sẽ la lên.”

“Con cũng nghĩ vậy đấy. Và bà Rachel vừa đến đây, nên nếu Sophie lại la hét ầm ĩ thì mẹ con mình phải tránh mặt đi chỗ khác thôi.”

“Thế mẹ con mình phải đi đâu?” “Bất cứ nơi nào trừ ngôi nhà này ạ.”

“Thời tiết hôm nay không thích hợp để cắm trại cho lắm.” “Chúng ta có thể tới nhà nghỉ. Mẹ nói mình tiết kiệm được nhiều tiền lắm cơ mà.”

“Tiền nong không phải vấn đề, nhóc ạ. Nếu Sophie la hét ầm ĩ thì sao chúng ta thuê nhà trọ được?”

“Con không biết, mẹ ạ. Con không biết mẹ con mình có thể làm được gì. Nhưng chúng ta nên chuẩn bị tinh thần vì người ta sắp đến rồi.”

Mẹ tôi cứ ngó ra ngoài cửa sổ mãi. Mẹ hé rèm cửa ra nhìn, hệt như hôm ông Paul chuyển đi khỏi nhà cũ vậy.

Lần này hành động đó của mẹ cũng khiến tôi lo lắng.

“Họ đến rồi kìa”, mẹ nói.

Tôi đến bên cửa sổ, rồi nhìn ra ngoài màn tuyết trắng xóa. Lại có thêm một trận mưa tuyết nữa. Phía dưới chân cầu thang sau nhà ông Paul có một chiếc xe van màu xám. Tôi không thể thấy rõ hàng chữ trên hông xe vì chúng cũng bị tuyết bao phủ, và trên đó còn có một lớp bẩn do bánh xe bắn lên khi đi qua đoạn đường chưa được cào tuyết nữa.

Tôi không muốn chứng kiến những chuyện sắp xảy ra, nên đành ngồi xuống ghế tràng kỷ.

Tôi thấy hơi bực khi mẹ vẫn nán lại bên cửa sổ. Nên một phút sau, tôi nói, “Mẹ đừng đứng đó nữa!”. Nhưng nghe giọng tôi có vẻ hơi gay gắt, nên tôi bèn nói thêm, “Con xin mẹ đấy”.

Mẹ tới ngồi bên tôi trên tràng kỷ. Trông mẹ tội lỗi hệt như một chú cún con vừa bị tét vào mông ấy.

“Con xin lỗi”, tôi nói. “Chỉ là con hơi lo lắng quá thôi.” “Con không làm dấu hy vọng nữa à?”

“Con nghĩ chúng ta cần nhiều hơn dấu hy vọng đấy.” Tôi nghe thấy tiếng cửa xe van sập lại, sau đó là tiếng khởi động xe. Tôi chạy tới bên cửa sổ nhìn chiếc xe nhích từng phân ra ngoài đường. Mấy bánh xe đằng sau dần mất đà và xoay vòng vòng.

Sau đó tôi cứ đi qua đi lại trong khoảng một hay hai phút. Cho tới khi mẹ tôi nói, “Giờ thì ai đang khiến ai chóng mặt đây hả?”.

“Con xin lỗi.”

Tôi lại ngồi xuống ghế.

“Con bé không la hét nhỉ?” Mẹ tôi hỏi.

“Vâng ạ.”

“Con nghĩ là tại sao thế?” “Con chịu thôi.”

“Mẹ thì nghĩ con bé đã rất hoảng sợ khi con chó đó tắt thở”, mẹ tôi nói.

“Con bé đã rất hạnh phúc khi Rigby qua đời.” “Sao lại thế được?”

“Mẹ hỏi điều con nghĩ à? Đây chỉ là giả thuyết của con thôi nhé. Có thể con nói hoàn toàn sai. Nhưng con tin điều đó nghĩa là bây giờ dù Rigby đang ở đâu, thì con bé cũng thấy hạnh phúc. Dù giả thuyết của con là sai, và điều con vừa nói là sai, thì con vẫn sẽ tiếp tục tin tưởng vào giả thuyết của mình. Vì đó là niềm tin con đã chọn.”

Tôi đã đợi gần hai tiếng đồng hồ. Vì tôi thực sự không muốn đến gõ cửa nhà ông Paul. Biết đâu lúc đó ông đang tâm sự với bà Rachel về cảm xúc của mình. Hoặc có thể ông đang khóc, còn bà thì đang vỗ về ông. Tôi không biết có chuyện gì đang diễn ra trong căn nhà đó. Tôi chỉ biết mình không nên làm phiền họ thôi.

Nhưng rõ ràng tôi đang ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc, vì Sophie vẫn đang ở trong đó. Và tôi không biết liệu hai ông bà có thấy phiền khi con bé ở trong nhà không.

“Con phải qua đó xem tình hình thế nào đây”, tôi nói với mẹ.

Tôi mặc thật ấm rồi đi bộ qua quãng đường đầy tuyết trơn trượt ra cửa chính nhà ông Paul. Tôi không muốn đi qua lối cửa sau vì chỗ đó là phòng của bà Rachel. Tôi vồ ếch hai lần, và còn ngã dập mông trên chỗ đường dốc, nhưng vẫn cố gắng bước tiếp.

Tôi leo lên cầu thang. Đoạn này dễ đi hơn, vì tuyết đọng lại hết trên các tán lá nên mấy bậc cầu thang hầu như không hề dính chút tuyết nào.

Tôi dừng lại. Trời đất ơi, giá như con không phải gõ cửa lúc này.

Tôi gõ cửa.

Bà Rachel ra mở cửa cho tôi.

“Cháu xin lỗi vì tới làm phiền ông bà thế này”, tôi nói. “Không sao mà.”

“Cháu muốn biết tình hình của Sophie hiện giờ ra sao. Cháu không biết liệu mình có nên… Sophie sao rồi ạ? Con bé đang làm gì thế ạ? Cháu có nên đưa con bé về nhà không ạ?”

“Ta không chắc lắm. Để ta vào hỏi Paul nhé. Cháu vào nhà đi.”

Tôi rũ tuyết lên tấm thảm chùi chân ngoài cửa, rồi vào phòng khách ngồi đợi. Ông bà vừa nhóm lò sưởi, nên trong phòng rất ấm. Tôi thấy hơi bức bí trong chiếc áo khoác to sụ, nhưng không nghĩ mình sẽ nán lại đó lâu, nên cũng chẳng buồn cởi áo.

Sau đó bà quay lại và nói, “Con bé chỉ nằm yên trên giường của Rigby thôi. Nó không làm ồn đâu. Paul nói con bé có thể ở lại đây cho tới khi xe của trường đến đón”.

“Bây giờ chúng cháu đang được nghỉ Giáng Sinh ạ. Từ giờ tới tháng Một con bé không phải đi học đâu ạ.”

“Ồ. Cháu chờ chút nhé.”

Tôi bắt đầu vã mồ hôi như tắm khi ngồi trước lò sưởi thêm một hay hai phút nữa. Tôi không biết tại sao ông Paul không tự mình ra đây nói chuyện. Nhưng nếu phải đoán, thì tôi nghĩ ông thấy dễ chịu khi khóc trước mặt bà hơn là khi có tôi ở đó. Nhưng tôi nghĩ điều đó cũng phải thôi, vì họ đã làm bạn với nhau hơn năm chục năm rồi, và ông Paul còn yêu bà ấy nữa.

Bà quay lại phòng khách và nói, “Paul nói là không sao”. “Vâng ạ.”

“Con bé rất ngoan.”

“Cháu không biết tại sao con bé im lặng thế, nhưng như vậy thì tốt ạ.”

“Con bé hành xử như thể Rigby vẫn còn ở đây.” “Có lẽ nó đang giả vờ ạ.”

“Hoặc có thể Rigby vẫn hiện hữu trong ngôi nhà này, và con bé cảm nhận được điều đó.”

Tôi không trả lời bà, vì tôi không thể nghĩ ra điều gì để đáp lại câu nói đó.

“Chà, vậy nếu Sophie có vấn đề gì thì bà hãy gọi cháu nhé.”

Tôi quay người định bước đi.

“Cháu không muốn đi qua lối cửa sau à? Ngoài kia tuyết dày lắm đấy?”

“Dạ, không sao ạ.”

“Sao cháu không đi qua cửa sau?”

“Vì đó là phòng của bà mà. Cháu không muốn xâm phạm phòng bà ạ.”

Bà chỉ mỉm cười. Thi thoảng ông Paul cũng cười như vậy. “Thảo nào ông ấy thích cháu thế”, bà nói.

Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy và nhảy phắt xuống giường theo thói quen. Tôi định đi sang nhà ông Paul để giúp ông đưa Rigby ra ngoài đi tè. Tôi đã ngồi dậy và lật chăn ra, nhưng sau đó tôi sực nhớ.

Tôi lại nằm xuống và đắp chăn lên, cố gắng chấp nhận sự thật rằng Rigby không còn trên đời này nữa. Rằng nó đang từ một vật thể hữu hình, giờ đây đã trở nên vô hình. Lý trí tôi hoàn toàn hiểu được điều đó, nhưng trong lòng thì vẫn không thể chấp nhận.

Khi ba qua đời, tôi cũng phải mất hàng tháng trời như vậy mới đối mặt được với sự thật.

Nhưng đây mới là điều kì lạ này. Ba tôi bị người ta sát hại đã mười năm rồi, nhưng tôi vẫn chưa thể vượt qua chuyện đó. À không, tôi đã từng quên đi chuyện đó. Tôi không thấy ngạc nhiên hay gì hết, và tôi chấp nhận rằng cái chết là điều tất yếu. Nhưng trong lòng tôi, một ai đó đang sống rồi đột nhiên biến mất là chuyện cực kì vô lý.

Tôi chẳng thể nào hiểu nổi cái chết. Không biết mọi người có thấy vậy không, hay chỉ mỗi mình tôi thấy thế nhỉ.

Đêm thứ hai sau ngày Rigby mất, chúng tôi nghe thấy thứ gì đó khẽ sột soạt ngoài hiên. Tôi đang nằm trên giường, và mẹ cũng vậy. Nhưng lúc đó tôi chưa ngủ. Còn mẹ thì tôi không biết.

Cho tới khi mẹ hỏi, “Con nghe thấy không? Cái gì thế nhỉ?”.

“Con không biết. Có khi nào là thú hoang không ạ?” Tôi nằm đợi, nhưng mẹ chẳng đáp.

Nên tôi nói, “Để con ra đó xem sao”.

“Thôi, đừng. Nhỡ có gì nguy hiểm thì sao.”

“Thì con để nguyên dây xích rồi nhòm qua khe cửa vậy.” Tôi đứng dậy, thấy hơi lạnh khi trên người chỉ có độc bộ quần áo ngủ, mà tôi lại còn đi chân đất nữa chứ. Tôi móc dây xích và mở hé cửa. Sophie đang đứng ngoài, bò trên mặt đất bằng cả tứ chi, còn hai hàm răng thì run lập cập. Trên người con bé vẫn là bộ quần áo tôi mặc cho từ sáng, nhưng tôi không thấy áo khoác của em đâu. Chắc em ra ngoài bằng cửa ra vào cho chó, nên có lẽ ông Paul và bà Rachel không biết con bé đã sang đây.

Tôi đóng cửa lại để tháo xích, sau đó tôi mở toang cửa. Gió lạnh bên ngoài lùa vào khắp căn phòng. Sophie từ tốn bước vào phòng rồi nằm vào đúng chỗ con bé từng nằm cạnh Rigby trên thảm hồi trước.

“Hở?” Mẹ thốt lên.

Tôi cứ hy vọng mẹ sẽ nói nhiều hơn thế. Nhưng thực sự cũng chẳng còn gì để nói nữa.

Tôi xoa hai bàn tay Sophie cho ấm, sau đó tháo giày và cởi đôi tất hồng để xoa hai bàn chân con bé. Rồi tôi lấy cho em chiếc chăn còn dư để ngủ lại trên thảm.

Vài ngày sau, khoảng mười giờ sáng, bà Rachel đến trước cửa nhà tôi để tạm biệt và báo cho tôi rằng bà sắp đi. Thật may là mẹ tôi đã đi làm. Trong phòng chỉ còn tôi và Sophie đang cùng nhau nằm trên tấm thảm thôi.

“Đáng lẽ ta có thể ở lại lâu hơn”, bà nói. “Nhưng ta đã ở đây sáu ngày, và ta nghĩ ông ấy ổn rồi. Ta nghĩ ông ấy cần thời gian để vượt qua chuyện này. Cháu biết đấy. Có lẽ ông ấy muốn ở một mình. Mà ta nghĩ có khi ông ấy cũng chán ta rồi.”

“Ồ, cháu thì không nghĩ vậy đâu” tôi đáp.

“Cháu cũng hiểu ông ấy là người thế nào mà. Paul thích sống cô độc.”

“Cháu không chắc lắm.”

Bà nhìn tôi dò xét. “Cháu không nghĩ vậy sao?” “Cháu nghĩ có lẽ ông ấy đang thay đổi… trên vài phương diện nào đó. Vậy là… sáu ngày. Một chuyến thăm khá dài đấy ạ. Có lẽ hai ông bà có nhiều thời gian để nói chuyện với nhau chứ ạ?”

Tôi quan sát nét mặt bà một lúc. Nhưng bà lại không hiểu tôi đang định nói gì. Tôi cảm thấy thực sự thất vọng, tôi nghĩ mình có thể nuốt được nỗi thất vọng đó xuống thực quản giống như người ta nuốt kiếm vậy. Tôi thầm nghĩ, Sao ông ấy lại không nói với bà chứ?

Không phải vì tôi nghĩ chuyện đó dễ dàng đâu. Nhưng nếu tôi là ông Paul thì tôi đã nói ngay rồi. Và nếu nói đến mấy chuyện đó, thì tôi chính là đứa điên nhất quả đất đây. À ờm. Có lẽ tôi điên trong tất cả mọi chuyện.

“Ừ, đúng là chúng ta có nói”, bà nói. “Chủ yếu là về Rigby thôi. Chúng ta cũng có nói về một vài chuyện khác nữa, nhưng không có gì đặc biệt cả. Sao cháu lại hỏi thế? Có chuyện gì à?”

“Không. Không có gì đâu ạ. Chỉ là cháu… Cháu biết hai người là bạn tốt. Và việc bà đến đây có ý nghĩa với ông ấy đến mức nào. Bà có muốn vào phòng không ạ? Trời lạnh lắm, và cháu không muốn thất lễ với bà.”

“Không, ta thực sự phải đi đây”, bà nói. “Mắt ta không nhìn được tốt trong bóng tối, nên ta muốn về tới nhà trước khi trời tối. Nhưng trước khi đi, thì ta muốn nói với cháu rằng ta rất cảm kích khi có cháu ở đây. Ta cảm thấy yên tâm hơn khi để Paul ở lại một mình vì ở đây đã có cháu giúp đỡ.”

“Lưng của ông Paul thế nào rồi ạ?” “Cũng đỡ hơn chút xíu rồi.”

Bà đổi chân, nên tôi biết bà chuẩn bị đi.

Tôi tranh thủ nói nốt trước khi bà về, “Bà hãy đến đây chơi nhiều hơn nhé”.

“Ta cũng muốn thế lắm. Nhưng ta chỉ có thể đến khi được Paul mời thôi.”

“Cháu nghĩ ông Paul cũng muốn mời bà tới chơi thường xuyên hơn đấy ạ. Nhưng có thể ông thấy làm vậy sẽ gây áp lực cho bà. Nên nếu được thì bà hãy gợi ý cho ông ấy…”

Bà nhìn thẳng vào mắt tôi hồi lâu, như thể bà đánh mất thứ gì trong đó vậy. Tôi quay sang nhìn đầu cầu thang phủ đầy tuyết. Tôi sợ mình đã tiết lộ với bà quá nhiều điều.

“Có thể ta sẽ làm vậy”, bà đáp. “Có thể ta sẽ làm theo điều cháu nói. Chúc mừng năm mới nhé.”

Sau đó bà hôn nhẹ lên trán tôi, rồi đi xuống cầu thang. Bà luôn để ý bước chân để khỏi trượt ngã.

Tôi nhìn theo bóng bà và hiểu ra lí do ông Paul yêu bà nhiều đến thế. Nếu tôi bằng tuổi ông bà, tôi nghĩ có lẽ mình cũng sẽ yêu bà như ông vậy. Bà là kiểu phụ nữ có thể dễ dàng khiến trái tim mọi người liêu xiêu.

“Chúc mừng năm mới.” Tôi nói với theo.

Đầu tiên, tôi không cố bắt chuyện với ông Paul. Tôi không chắc liệu ông có thực sự muốn nói chuyện với tôi không. Nhưng khi đó nhà tôi đã lắp điện thoại. Và ông cũng ở ngay gần. Nên tôi nghĩ ông sẽ liên lạc với tôi khi ông muốn có người bầu bạn.

Khoảng ba, hay bốn ngày sau khi bà Rachel về nhà, ông gọi điện cho tôi vào lúc xế chiều. Ông hỏi tôi có muốn chơi vài ván Phăng-teo không.

“Lúc nào cũng được ạ”, tôi đáp. “Cháu lúc nào cũng sẵn lòng. Cháu chỉ không muốn làm phiền ông thôi.”

“Cảm ơn cháu”, ông nói. “Nhưng ta muốn chơi ngay bây giờ cơ.”

“Cháu sẽ phải đưa Sophie đi cùng đấy ạ. Mẹ cháu ra ngoài cùng cô Jenna, đồng nghiệp của mẹ rồi ạ.”

“Không vấn đề gì đâu. Ta đang để cửa sau mở đấy. Hai đứa cứ vào đi.”

Thế là tôi lại đi xuống con đường phủ đầy băng tuyết và leo lên cầu thang sau nhà ông. Tôi nắm chặt tay Sophie để giữ em khỏi ngã. Tôi dẫn con bé vào nhà theo lối cửa sau. Nhưng con bé giằng ra để chạy tới chiếc nệm cũ của Rigby, rồi cuộn tròn người trên đó.

Ông Paul cũng tới đứng bên tôi ở cửa phòng ngủ. Chúng tôi đứng ngắm con bé một lúc.

“Cháu mừng là ông không vứt tấm nệm đó đi”, tôi nói. “Ta định lấy cớ là vì Sophie. Nhưng thực ra ta nghĩ mình sẽ đau lòng nếu thực sự phải vứt tấm nệm của Rigby đi đấy.”

“Có thể sau này ông lại nhận nuôi một chú cún khác thì sao.”

“Có lẽ vậy.” Chúng tôi lặng người ngắm Sophie thêm một phút nữa. Sau đó ông nói, “Cháu nghĩ Sophie sẽ phản ứng ra sao nếu ta nhận nuôi một chú cún mới?”.

“Cháu nghĩ con bé sẽ ghét nó. Và chúng ta sẽ phải bảo vệ chú cún đó khỏi con bé.”

“Ôi. Chà. Thôi để đến lúc đó rồi tính vậy.”

Chúng tôi đi vào trong bếp rồi ngồi vào bàn. Ông đặt một cốc trà đá cạnh đĩa ăn của tôi. Đó là thức uống tôi thích nhất, vì ông pha trà đá rất ngon.

Ông xào bài.

“Hừm”, tôi nói. “Ông thấy cô đơn phải không ạ?”

Ông ngừng tay xào bài rồi ngước lên nhìn tôi. Như thể việc đó cần tập trung cao độ, nhưng tôi lại vừa khiến ông xao nhãng ấy.

“Thế á? Ta cứ nghĩ là ta thấy chán thôi chứ.”

“Ông chẳng bao giờ thấy chán khi có Rigby ở đây.” “Ừ. Ta nghĩ cháu nói đúng đấy.”

Ông chia bài, sau đó tôi chặn tay ông trước khi ông ngửa bài lên.

“Từ từ ạ, ông đừng ngửa bài vội nhé.” “Sao vậy?”

“Chúng ta cược tiền được không ạ?”

Ông nhìn tôi, đôi mắt ông vừa ánh lên niềm thích thú, lại vừa có vẻ trách móc. “Tiền á? Cháu có tiền để tiêu xài hoang phí từ khi nào thế?”

“Cháu làm gì có. Mẹ cháu chỉ cho có mỗi mười đô tiêu vặt mỗi tuần thôi.”

“Thế sao cháu lại muốn cược tiền?”

“Cháu không biết nữa. Có lẽ vì trong đời cháu chưa bao giờ cược tiền cả. Cháu chỉ muốn thử xem cảm giác thế nào thôi. Cháu cũng không định cược nhiều đâu ạ. Ta có thể thử… cược mười lăm xu mỗi ván, được không ạ?”

Ông vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt đó. Nên tôi cúi gằm mặt xuống bàn. Như thể tôi có điều gì cần giấu, dù tôi không nghĩ mình có thực sự cần giấu giếm gì không. Tôi không muốn lật bài trước khi cược, vì tôi nghĩ sẽ công bằng hơn nếu chúng tôi quyết định trước khi lật bài. Nếu chúng tôi biết trước thì chẳng còn gì thú vị nữa.

“Với một điều kiện. Chúng ta chỉ tiêu tối đa mười đô thôi nhé. Ta không muốn cháu thua hết tiền tiêu vặt cả tuần đâu.”

“Sao ông nghĩ cháu sẽ thua ạ?”

Ông khẽ mỉm cười, và sau đó chúng tôi lật bài. Tôi có hai con Q, tám và chín nhép, khởi đầu khá thuận lợi.

“Ta nghĩ cháu cũng có máu cờ bạc đấy”, ông nói. “Có lẽ vậy ạ. Ba cháu là một con bạc mà.”

Ông ngước lên nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi nghĩ hành động đó có phần hơi đột ngột.

“Cháu chưa nói với ta chuyện đó.”

“Vâng, cháu nghĩ là chưa đến thời điểm thích hợp thôi. Nhưng mà, cháu lẽ ra nên nói với ông điều đó từ khi nào vậy?”

“Ta nghĩ cháu sẽ nhắc tới điều đó khi chúng ta tìm lí do ba cháu bị sát hại.”

“Sao lại thế ạ? Tại sao hai chuyện đó lại liên quan đến nhau ạ?”

“Ờm. Thôi bỏ đi. Cháu quên chuyện đó đi.” “Không, chuyện gì thế ạ? Ông nói với cháu đi.”

Đầu tiên, ông chẳng đáp. Nhưng một lúc sau, ông bắt đầu giải thích.

“Nếu một người quá nghiện cờ bạc, thì họ có thể gặp nguy. Thông thường họ sẽ nợ những kẻ cho vay nặng lãi rất nhiều tiền.”

“À. Vâng. Cháu cũng nghĩ vậy. Nhưng người cho vay sẽ không giết con bạc đó đâu, phải không ạ? Nếu họ làm thế thì làm sao lấy lại được tiền ạ?”

“Trừ khi kẻ cho vay đó muốn cảnh cáo những con nợ khác. Hoặc có thể… Mà thôi. Cháu đừng bận tâm đến chuyện này nữa. Ta xin lỗi vì đã lôi chuyện này ra nói. Thôi nhé. Ta đang nói về ba cháu, và chúng ta không biết rõ chuyện gì đã xảy ra khi ấy, nên ta không nên đoán mò đâu nhỉ?”

“Không sao ạ. Có lẽ ông biết rõ điều đó hơn cháu mà.” Ông cười phá lên rõ to, nhưng tôi chẳng hiểu sao ông làm vậy.

“Này Angie”, ông nói. “Trông ta giống chuyên gia về cờ bạc lắm hả? Ta làm công việc mình ghét tận bốn-mươi-lăm-năm chỉ để được hưởng lương hưu thôi đấy. Và ta cũng yêu một người phụ nữ hơn năm mươi năm trời, nhưng lại chẳng dám thổ lộ với người ấy. Vậy ta có giống người ưa mạo hiểm không? Ở đây cháu mới là kẻ thích đánh cược đấy, chứ không phải ta đâu nhé.”

Sau đó chúng tôi lẳng lặng chơi tiếp, rồi tôi kêu “Phăng- teo” và thắng mười lăm xu. Ông cũng trả tôi tiền cược thật. Ông lôi một đồng mười lăm xu trong túi quần rồi đẩy sang phía tôi. Cảm giác thắng cược thật phấn khích, nhưng khi đó tôi đã biết rằng cờ bạc là sai trái, nên tôi cảm thấy khá có lỗi khi đã vui sướng đến vậy.

Khi chúng tôi chia bài cho ván tiếp theo, thì tôi nói, “Bà Rachel nói với cháu rằng có thể bà sẽ tới đây chơi nhiều hơn. Như vậy là tốt, phải không ạ?”.

Tôi biết ông ngẩng đầu nhìn tôi, nhưng tôi vẫn cắm mặt vào mấy quân bài.

“Ta có nói gì với bà ấy về chuyện đó đâu” ông nói.

“Cháu cũng nghĩ là ông không nói.”

Tôi đặt quân bài xấu nhất của mình xuống và rút thêm một quân mới, cố gắng không nói ra. Nhưng tôi nghĩ mình phải nói, vì tôi đã cố kiềm chế từ lâu lắm rồi.

“Ông không định… Sau này ông sẽ nói với bà ấy chứ ạ? Ông không định giữ bí mật chuyện đó mãi mãi, phải không ạ?”

“Có thể ta sẽ chẳng bao giờ thổ lộ với bà ấy đâu.”

Tôi úp mấy quân bài của mình xuống. Giờ thì tới lượt ông lảng tránh ánh mắt tôi.

“Sao ông có thể làm vậy nhỉ? Cháu thật tình không thể hiểu nổi đấy.”

“Ta đã nói với cháu rồi mà. Ta có phải con bạc đâu. Ta sợ phải đối mặt với rủi ro lắm.”

“Rủi ro gì cơ ạ? Đằng nào bây giờ ông cũng đâu có sống chung với bà Rachel. Cháu nghĩ nếu ông không thành công, thì cùng lắm là hai người tiếp tục làm bạn thế này thôi.”

“Nói thế thì không đúng lắm. Giờ ta và bà ấy là bạn tốt mà. Chúng ta gần như ngày nào cũng nói chuyện với nhau. Nếu ta tỏ tình, nhưng bà ấy lại không cảm thấy thế, thì bà ấy sẽ thấy rất tội lỗi khi vô tình khiến ta tổn thương. Và có thể ta sẽ khó lòng nói chuyện bình thường với bà ấy sau khi thổ lộ cảm xúc của mình. Có thể ta sẽ tự tay phá hỏng mối quan hệ tốt đẹp bấy lâu nay của chúng ta. Còn như hiện giờ thì ta đã đạt được một nửa nguyện vọng của mình rồi. Ta không muốn đặt cược tất cả, để rồi trở về tay trắng đâu.”

“Hoặc ông sẽ có tất cả ạ.”

“Ta không nghĩ bà ấy thích ta. Nếu có, thì bà ấy đã nói với ta rồi.”

“Nhưng ông có hỏi đâu.”

“Ta có thể nhận ra điều đó mà.” “Nhưng bà ấy thì không.”

“Nghe này, Angie. Ta biết nếu cháu là ta, thì cháu sẽ tỏ tình với người ấy.”

“Chắc chắn cháu sẽ làm vậy.”

“Nhưng ta không phải cháu? Được không? Ta là Paul mà. Giờ chúng ta tập trung chơi bài tiếp, được không?”

Chúng tôi chơi khoảng hai mươi ván bài nữa, và tôi thắng tận hai đô hai mươi lăm xu. Tôi biết khoản tiền đó chẳng nhiều nhặn gì. Nhưng đối với tôi, đó vẫn là chiến thắng.

Sophie đã ngủ say, nên tôi vác con bé lên vai giống cách các chú lính cứu hỏa chuyển người bị thương.

Ông Paul bật đèn sau nhà để tôi tìm đường về phòng trong màn tuyết trắng xóa.

Tôi gõ cửa, nhưng mẹ vẫn chưa về nhà, nên tôi tự lấy chìa khóa của mình ra mở cửa.

Sau khi đặt Sophie lên giường, tôi định nhét chùm chìa khóa lại vào túi. Nhưng tôi lại nhìn chùm chìa khóa. Tôi nghĩ mình biết tại sao. Có lẽ tôi đã cố tình làm vậy.

Tôi nhìn chằm chằm vào chiếc chìa khóa rương một phút, và nuốt nước bọt đầy khó nhọc.

Sau đó tôi lôi chiếc rương ra khỏi gầm giường, rồi mở nắp.

Tôi lấy cuốn Cổ thư Tây Tạng về những Người Quá cố và đặt nó lên chiếc bàn con cạnh giường. Lâu nay Sophie không còn phá phách và xé nát mọi thứ nữa. Và đã lâu rồi tôi cũng không đọc sách.

Sau đó tôi lấy bức thư của chị Nellie ra đọc. Bức thư chị viết cho tôi từ hai năm rưỡi trước, mà tôi thì vẫn chưa đủ dũng cảm để đọc cho bằng hết.

Tôi ngồi đọc thư trên mép giường. Tim tôi đập mạnh, hai bàn tay run rẩy, còn miệng thì khô khốc. Tôi gần như không thể nuốt nước bọt được như bình thường nữa.

Tôi đọc bức thư những ba, bốn lần. Và kể từ ngày hôm đó, tôi đã đọc lại bức thư nhiều lần đến nỗi, tôi có thể đọc thuộc làu làu toàn bộ nội dung trong đó. Nhưng tôi sẽ không đọc nội dung thư cho bạn đâu. Vì những điều Nellie viết trong đó chỉ quan trọng với một mình tôi thôi. Và bởi đó là quyền riêng tư của tôi. Chẳng vì lí do gì đặc biệt cả, nhưng… nói chung là… đại loại thế đấy.

Nhưng tôi sẽ kể vắn tắt cho bạn thế này.

Chị ấy cảm thấy cực kì có lỗi, và chị ấy thấy mình thật ngu ngốc và xấu xa khi vô ý khiến tôi tổn thương và xấu hổ đến vậy.

Chị ấy muốn tôi biết rằng, dù tôi bị đả kích và xấu hổ, nhưng tôi không nên nghĩ vậy, vì tôi chẳng làm cái quái gì sai hết. Chị hiểu rõ điều đó, vì chị cũng từng là một đứa tuổi teen như tôi, và chị cũng từng thấy hổ thẹn vì tất cả mọi chuyện.

Và, có lẽ điều quan trọng nhất là, chị nói rằng việc tôi thích chị giống như một lời khen, hay một món quà đối với chị, chứ chị không hề thấy tôi phiền phức chút nào.

Tôi ước mình đã đọc được điều đó từ hai năm rưỡi trước.

Tôi gọi điện thoại cho ông Paul, vì tôi thấy nhà ông vẫn sáng đèn.

“Cháu đúng là một đứa đạo đức giả đáng khinh”, tôi nói.

“Ta không nghĩ thế đâu”, ông đáp. “Nhưng cháu cứ nói với ta lí do cháu nghĩ vậy đi.”

“Vì cháu chẳng có gì tốt đẹp hơn ông cả. Cháu cũng từng thích một người, nhưng cháu không nói với chị ấy. Tới khi chị ấy tự nhận ra, thì cháu xấu hổ đến nỗi bỏ chạy mất dép và lặn mất tăm luôn. Chị ấy viết cho cháu một bức thư, nhưng cháu lại giấu bức thư đó đi thật kĩ và chẳng bao giờ lôi ra đọc cả. Vâng… đây chính là con người mạo hiểm mà ông vừa nói đấy ạ.”

“Chà”, ông đáp. “Giờ cháu đã hiểu, vậy cháu có định đọc bức thư đó không?”

“Cháu vừa đọc rồi ạ.”

“Thế thì cháu không phải là đứa đạo đức giả đáng khinh đâu. Và cháu thực sự tốt đẹp hơn ta nhiều.”

Bây giờ nghĩ lại, thì khi đó tôi đã hy vọng ông sẽ học theo mình. Tôi đã nghĩ, nếu tôi trở nên dũng cảm hơn, thì ông cũng sẽ làm theo tôi. Nhưng sau sáu tháng và hai lần bà Rachel đến thăm, ông Paul vẫn chưa dám mạo hiểm.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 21
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 21
  • Sau