T
háng Sáu lại đến, và khi đó là bốn giờ sáng. Tôi để lại lời nhắn cho mẹ trên mặt bàn.
Trong đó tôi viết, “Mẹ phải tin tưởng con. Con biết con còn nhỏ, và con biết mẹ sẽ bực mình, nhưng giờ con đã gần mười bảy tuổi rồi, và con nghĩ mình đã đủ lớn để tự mình làm nhiều việc rồi. Con phải nói chuyện với một người (mà thực ra là vài người), và con không thể nói hết qua điện thoại được. Nhiều khi mình phải gặp mặt trực tiếp thì mới nói hết suy nghĩ của mình với họ được, mẹ ạ. Chắc ngày mai con sẽ về thôi (nhưng có thể là ngày kia, nên mẹ đừng hoảng quá nhé). Sau đó mẹ muốn mắng con thế nào cũng được”.
Tôi định kí tên, nhưng sau cùng tôi nghĩ việc đó chẳng cần thiết. Vì trong nhà này ngoài tôi ra thì làm gì có ai viết thư cho mẹ nữa.
Tôi lẻn ra khỏi nhà và dùng đèn pin mò mẫm tìm đường tới bến xe buýt trong thị trấn.
Sau đó tôi lấy tờ một trăm đô của Nellie trong túi quần bò. Số tiền chị trả công tôi cho mấy buổi kiểm kê từ hai năm rưỡi trước. Tôi mua một vé xe khứ hồi về nhà. Nhưng nếu nói đó là “nhà” thì không đúng lắm, vì đã từ lâu tôi chẳng còn cảm thấy nơi đó là nhà mình nữa. Tôi thấy nơi này giống nhà hơn.
Tôi ngồi cạnh cửa sổ. Và lần này quang cảnh mấy dãy núi thật khác, so với những thứ tôi đã thấy trên đường đến đây ba năm trước. Khi ấy chúng tôi lái xe tới thị trấn này trong trời mưa xối xả, và tôi thì gà gật hoặc ôm đầu hết phần lớn thời gian.
Xe buýt chật ních người nên tôi không chiếm được hai ghế như dự định. Người phụ nữ ngồi cạnh khiến tôi nhớ tới chị Nellie. Tôi không chắc vì sao nữa. Trông chị ấy không giống Nellie lắm. Nhưng chị ấy cũng tầm tuổi Nellie, và cũng có vẻ là dân trí thức. Tôi biết vậy vì chúng tôi đã tán gẫu với nhau một lúc, và sau đó chị ấy còn lấy sách ra đọc nữa.
Tôi lôi cuốn Cổ thư Tây Tạng về những Người Quá cố ra, dù tôi biết mình sẽ chẳng đọc được nhiều do bị say xe. Tôi định sẽ đọc một trang, sau đó lại quay ra ngắm cảnh.
Thế cũng tốt, vì cuốn này không thể đọc kiểu thư giãn được.
“Có lần chị cũng định đọc cuốn đó rồi” chị gái ngồi cạnh tôi nói. “Nhưng cuốn đó dày quá, chị không đọc nổi.”
Câu nói của chị khiến tôi giật mình. Tôi không nghĩ chị sẽ nói với mình.
“Em cũng đang nghĩ vậy, có lẽ cuốn này quá khó đối với em” tôi nói.
“Em có biết Cổ thư Tây Tạng về những Người Quá cố chỉ là cái tên được dịch giả lược giản hóa không? Thực ra nếu dịch đúng nghĩa đen từ tiếng Tạng thì tên cuốn đó phải là Sự Giải thoát Vĩ đại của lắng nghe trong Trạng thái Trung gian34 cơ.”
34 Nguyên văn: The Great Liberation Upon Hearing in the Intermediate State.
“Em không biết điều đó ạ. Tựa đề đó có nghĩa là sao ạ?” “Chị chịu thôi. Chị nói rồi mà, chị thấy cuốn đó quá khó hiểu. Mà chị còn là thủ thư đấy nhóc ạ. Và nhóc mới… bao nhiêu nhỉ? Mười sáu, hay mười bảy? Chị đã hơi hoảng khi thấy em đọc cuốn đó đấy.”
“Em đọc nhưng chưa chắc đã hiểu được hết nội dung sách mà chị. Mà đúng là em không hiểu thật. Em chẳng biết gì về cái chết cả. Đó là lí do em đọc cuốn này. Em nghĩ có thể em sẽ học thêm được điều gì đó. Nhưng em vẫn chưa đọc được điều gì có ích cả.”
“Người thân của em đã mất à?” “Vâng ạ”, tôi đáp.
Nhưng sau đó tôi chẳng nói thêm gì nữa. Một lúc sau, chị thủ thư lại tiếp tục quay lại với cuốn sách của mình.
“Là ba em ạ”, tôi nói. Dù biết mình không cần thiết phải chia sẻ điều đó. Chị ấy đang tiếp tục đọc sách, tức là chị ấy không cần phải nghe tôi nói thêm nữa. “Nhưng ba em qua đời hơn mười năm trước rồi. Và một người bạn thân của em vừa qua đời cuối năm ngoái nữa.”
“Ôi, trời. Chị rất tiếc. Người bạn đó cũng tầm tuổi em à?” “Không ạ. Người bạn đó đã già rồi ạ.”
Thực ra, tôi có thể nói Rigby già hơn tôi rất nhiều, hoặc nói rằng nó kém tôi nhiều tuổi cũng được. Đó là một câu đố, giống như trong Thiền Công Án vậy. Đáp án là một chú chó. Nhưng tôi không nói với chị những điều đó.
“Thế em có tin vào những điều cuốn sách đó viết không?” Chị hỏi tôi. Như thể ý kiến của tôi quan trọng lắm ấy. “Rằng linh hồn của chúng ta vẫn tồn tại sau cái chết, và chúng ta được quyền chọn lựa sau khi hồn lìa khỏi xác ấy?”
“Em cũng muốn nghĩ thế lắm”, tôi đáp. “Em đang cố gắng suy nghĩ đây.”
Tôi phải đi thêm hai chuyến xe buýt nữa mới tới nơi. Bến cuối cùng của tôi nằm ngay đối diện công viên có chiếc đài phun nước. Ngày trước tôi từng đưa Rigby và Sophie đi dạo tới đó, rồi chúng tôi cùng quay về nhà. Đó là trước khi mẹ con tôi chuyển lên núi sống. Hồi đó ông Paul từng trả tiền để tôi dắt Rigby đi dạo. Bởi khi ấy chúng tôi vẫn chưa trở thành bạn bè.
Tôi xốc ba-lô lên một bên vai rồi bắt đầu đi bộ về khu phố ngày xưa, khu phố nhà Dì Vi ấy. Tôi chợt nhận ra ngay rằng lát nữa mình sẽ đi qua tiệm sách của Nellie. Mà tôi thì chưa dự tính kĩ càng trước chuyện đó. Tôi tự hỏi liệu mình có cố tình quên nó đi hay không. À, tôi vẫn biết rằng một lúc nào đó, tôi sẽ ló đầu vào cửa tiệm và nói gì đấy với Nellie. Trong kế hoạch của tôi có chị ấy mà. Có lẽ việc gặp chị ấy phải chiếm khoảng ba mươi lăm, hay bốn mươi phần trăm trong kế hoạch của tôi. Chỉ là, tôi không định gặp chị ấy đầu tiên. Đó chỉ là kế hoạch cuối ngày thôi.
Đầu tiên tôi định cứ thế thực hiện kế hoạch cũ. Dù sao thì khi quay lại trạm xe buýt, tôi vẫn phải đi qua tiệm sách của chị ấy mà. Nhưng sau đó tôi nghĩ, Nhỡ Nellie nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy tôi đi qua thì sao? Nếu Nellie không thấy tôi ló đầu vào chào chị thì sao?
Chắc chị sẽ nghĩ tôi ghét chị lắm.
Nhưng một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu tôi, đột ngột và nặng nề đến mức tôi phải dừng lại. Thật đấy. Tôi dừng bước và đứng sững lại trên vỉa hè. Và suy nghĩ.
Có lẽ chị nghĩ tôi ghét chị từ lâu rồi. Tôi đã nghĩ như vậy đó. Thời gian qua, chị chẳng có tin tức gì về tôi, nên chị chỉ có thể tưởng tượng ra mọi thứ thôi. Tôi đã ép chị vào thế bí, khiến chị phải tự dự đoán, rồi tự tưởng tượng những điều đã diễn ra sau đó . Bạn biết đấy. Khi mọi thứ vượt ngoài tầm kiểm soát, thì ta hoàn toàn có thể trầm trọng hóa chúng lên.
Trong suy nghĩ của mình, tôi cũng đã trầm trọng hóa tất thảy mọi thứ.
Đó chính là khoảnh khắc tôi nhận ra mình có lỗi với chị ấy nhiều đến nhường nào. Tôi nợ chị một lời xin lỗi.
Tôi dợm bước tiếp, rồi một suy nghĩ khác lại ùa tới khiến tôi dừng bước.
Đã ba năm trôi qua rồi, có khi tiệm sách của Nellie chẳng còn ở đó nữa. Tôi từng thấy nhiều tiệm sách nhỏ phải đóng cửa rồi. Có lẽ Nellie không còn buôn bán nữa. Nếu thế thì tôi sẽ chẳng bao giờ xin lỗi Nellie được, vì không thể tìm thấy chị ấy. Tôi thậm chí còn chẳng biết họ của chị Nellie là gì nữa.
Tôi tiếp tục đi, và rảo bước nhanh hơn vì muốn kiểm chứng điều mình nghĩ.
Tiệm sách vẫn còn đó.
Tôi bước chậm lại, nhưng vẫn tiếp tục đi. Tôi tiến gần hơn tới cửa tiệm. Tôi nghĩ tim mình sẽ đập mạnh, còn tay thì run rẩy, nhưng tim và tay tôi vẫn bình thường. Tôi chỉ có cảm giác toàn thân tê liệt. Cảm tưởng thân thể và trí óc tôi được đẽo bằng gỗ trầm ấy. Tôi thấy người mình nặng nề và tê cứng lại.
Khi tôi đến trước cửa tiệm, tôi sững người một lúc. Tay đặt trên tay nắm cửa; nhưng tôi lại cứ đứng sững ở đó và nhìn chăm chăm xuống bàn tay mình. Tôi chỉ đứng nhìn và cảm nhận điều mình đang làm. Tôi biết mình đang sống, nhưng sao tôi vẫn thấy toàn thân tê dại đến vậy.
Tôi mở cửa và ló đầu vào trong tiệm. “Xin chào”, tôi thì thào như hết hơi.
“Xin chào”, chị đáp. Giọng chị bình thường và lạnh nhạt. Chị không hề lên giọng, hay tỏ vẻ ngạc nhiên gì cả.
Tôi cảm thấy rõ tim mình chùng xuống. Sự tê liệt khi nãy biến đi đâu khi tôi cần đến nó? Tôi chưa bao giờ nghĩ chị ghét tôi. Trong thư chị nói thích tôi, và tôi thì cứ hy vọng chị vẫn luôn thích tôi như vậy.
Tôi quay người, chuẩn bị đi khỏi cửa tiệm. Sau đó tôi nghe thấy tiếng chị, “Angie à?”.
Lúc đó tôi mới biết khi nãy chị không hề nhận ra tôi. “Vâng. Là em đây.”
“Ôi, lạy Chúa tôi. Angie! Chị thậm chí còn chẳng nhận ra em nữa! Em lớn tướng rồi này!”
“Đã lâu lắm rồi ạ”, tôi đáp.
“Thế em lại có lí do gì mà chỉ ló mỗi cái đầu vào đây thôi vậy?”
“Dạ.”
“Thế hôm nay em cũng đưa Sophie và chú chó to lớn đó đi cùng à?”
“Không ạ.”
“Thế lí do là gì?”
“Vì em là đứa hèn nhát.”
Chị ấy cười phá lên. Hóa ra tôi vẫn thích chọc cười chị như xưa.
Tôi mở cửa, rồi bước hẳn vào phía trong tiệm. Tôi đứng trước quầy thu ngân của chị và liên tục đổi trọng tâm hai chân trái-phải. Tôi muốn kiểm tra xem mình còn cảm giác tê liệt như lúc nãy không. Nhưng bây giờ tôi thấy ruột gan mình như có điện giật ấy, nên có lẽ là không rồi.
“Chị phải nói thật này”, Nellie nói. “Chị đã nghĩ em sẽ đi mãi mãi luôn ấy. Chị chưa bao giờ nghĩ mình có thể gặp lại em, hoặc nghe được tin tức của em lần nữa.”
Tôi gật đầu hơi quá lố một chút. “Đúng là dạo trước em đã định bặt vô âm tín thật.”
“Thế điều gì đã thay đổi?”
“Em nghĩ là bản thân em đấy.” “Hẳn rồi”, chị đáp.
Tôi chợt nhận ra mình nhớ chị nhiều đến mức nào, mà trước đây tôi chưa từng để ý.
“Ý chị muốn hỏi là, em đã thay đổi điều gì thế?” Chị hỏi tiếp.
“Hừm… Chẹp. Em đã tận mắt chứng kiến một người bạn cũng nhát gan hệt như em. Và em nghĩ ông ấy không nên tiếp tục vậy nữa. Nhưng sau đó em nhận ra bản thân mình còn nhát gan hơn em tưởng. Và em không muốn tiếp tục hèn nhát nữa. Với cả, em cảm thấy mình còn nợ chị một lời xin lỗi lớn lắm.”
“Em muốn biết em nên làm gì để tạ lỗi với chị không?” “Có ạ.”
“Thế thì em ngồi xuống ngay đi. Hành động của em khiến chị thấy lo lắng đấy. Trông em giống một chú ngựa đua bồn chồn sau cánh cổng xuất phát ấy. Dựa theo những điều chị từng biết về em, thì chị nghĩ là em lại sắp chạy trốn đến nơi.”
“Em xin lỗi.” Tôi ngồi xuống chiếc ghế nhồi to, rồi đặt ba-lô trên thảm. Sau đó tôi cởi giày, và ngồi bắt tréo chân. “Chị thấy đỡ hơn chưa?”
“Ừ, đỡ hơn nhiều rồi. À. Chị đã thắc mắc là trong ba năm vừa rồi em còn sống trong thành phố này không.”
“Không ạ. Ba mẹ con em bị đuổi khỏi nhà Dì ngay hôm đó. Hôm cuối cùng em gặp chị ấy. Nhà em cũng rời khỏi thành phố ngay hôm đó luôn.”
“À. Ừ. Thế thì chị hiểu rồi.”
“Không hẳn đâu ạ. Lẽ ra em có thể gọi cho chị mà.”
Chị bật cười, nhưng tôi không rõ vì sao chị lại cười như thế.
“Đúng là Angie. Chị định tha cho em, nhưng em lại tự mình thú tội đấy nhé. Chị không nghĩ em phải xin lỗi chị đâu.
Chị nghĩ mình mới là người nên xin lỗi. Đáng ra khi đó chị có thể xử lý mọi chuyện tốt hơn. Đáng lẽ ngay từ đầu chị nên nói rõ với em Cathy là ai. Đáng lẽ chị nên nói thẳng với em rằng chị ấy là người yêu chị. Để không ai bị bất ngờ cả, em biết đấy? À này. Em có đói không? Chị đang muốn ăn pizza này.”
Tôi nửa muốn ở lại, nửa muốn đi. Nhưng cả ngày chưa ăn gì, nên lúc ấy tôi thấy đói mờ cả mắt.
“Em ăn pizza cũng được ạ.”
Chị nhấc điện thoại gọi pizza. Và chị không để ý, nên tôi lại có cơ hội ngắm chị. Tôi thấy kinh ngạc vì hồi trước có thể phủ nhận sạch trơn tình cảm của mình. Mỗi khi nhìn chị, tôi không thể kiểm soát được bản thân, cũng chẳng biết mình muốn được ở bên chị nhiều đến mức nào, và tại sao mình lại muốn thế. Đó đúng là bí mật cực kì to tát mà chính tôi còn chẳng dám tự nói ra với bản thân mình.
Sau khi gác máy, chị nói, “Vậy là…”.
Và tôi nói tiếp, “Vậy… chị và chị Cathy có còn hẹn hò không ạ?”.
Ngay khi thốt ra câu đó, tôi biết mình đã lỡ hỏi ngu rồi. Vì hỏi thế thì có gì thay đổi không? Nếu không phải Cathy, thì chị cũng đã, hoặc sẽ yêu người khác thôi. Vì Nellie đã hơn ba mươi, còn tôi thì mới mười bảy tuổi. Giữa chúng tôi có một bức tường gạch ngăn trở, mà tôi biết thừa chúng tôi sẽ chẳng bao giờ vượt qua nổi. Nên tôi chẳng biết tại sao mình lại hỏi câu đó nữa.
“Có, và không”, chị đáp. “Giờ chị phải gọi chị ấy là vợ mới đúng.”
“À. Vậy thì tốt. Chỉ cần chị thấy hạnh phúc là được.”
Đó là chuyện tốt thật mà. Nhưng tất nhiên tôi vẫn thấy đau lòng khi nghe chị nói thế. Tôi vừa mừng, lại vừa có chút đau buồn. Dù tôi chỉ nói với chị một nửa, nhưng chẳng hiểu sao tôi lại nghĩ Nellie hiểu hết cảm xúc trong lòng mình.
“Woa”, tôi thốt lên. “Pizza tiệm này ngon hơn của tiệm hồi trước mình hay ăn đấy ạ.”
“Ừa, chỗ kia sập tiệm rồi. Chị cũng nghĩ pizza tiệm này ngon hơn. Đắt hơn một xíu, nhưng ngon hơn hẳn.”
“Thế chị còn nhớ câu đầu tiên chị hỏi em là gì không ạ?” “Ưm… Để chị nghĩ xem nào. Chị đã hỏi là có phải em bị bạo hành gia đình, phải không nhỉ?”
“Không, đó là câu hỏi thứ hai. Hay thứ ba gì đó.” “Chị chịu thôi. Thế chị đã hỏi gì vậy?”
“Chị đã hỏi sau này lớn lên em có muốn đến Tây Tạng không.”
“Và em nói không. Chị đã ngạc nhiên đấy.” “Bây giờ em trả lời lại được không ạ?” “Được chứ.”
“Em nghĩ em sẽ đi Tây Tạng.”
“Chà. Em có tiến bộ đấy. Thế còn mẹ em và Sophie thì sao?”
Tôi duỗi thẳng chân, rồi nhìn vào đôi tất của mình một lúc. Và tôi nghĩ về mẹ đang ở nhà. Chắc mẹ đang giận lắm.
Tôi hy vọng hôm nay Sophie không quấy, vì gần đây con bé lại bắt đầu cư xử giống Sophie-ngày-xưa rồi.
“Em nghĩ có lẽ Sophie sẽ không ở nhà với mẹ và em mãi đâu. Ý em là, em sẽ không ở nhà cả đời, vậy tại sao con bé phải ở lại chứ? Em nghĩ sau này em sẽ sống tự lập, kiếm việc và dành dụm tiền đi Tây Tạng. Còn Sophie cũng sẽ lớn lên và chuyển đến nơi khác sống. Có thể là một trung tâm dành riêng cho những người có vấn đề như con bé. Ở đó người ta sẽ dạy con bé tự chăm sóc bản thân và làm những việc trong khả năng.”
“Quyết định đúng đắn đấy. Thế mẹ em nghĩ sao?”
“Mẹ em muốn gửi Sophie vào trung tâm từ lâu lắm rồi. Từ khi ba mẹ con em bị đuổi khỏi nhà Dì Vi cơ. Mẹ em cũng quá mệt mỏi rồi, nên mẹ lúc nào cũng chực từ bỏ. Em nghĩ nếu mẹ định đưa Sophie đến trung tâm, thì có lẽ mẹ phải đợi đến lúc thích hợp. Và mẹ phải đợi đến thời điểm tất cả mọi người cùng cảm thấy hài lòng với quyết định đó, chứ không phải vì đường cùng mà lựa chọn như thế, chị biết đấy? Nhưng bây giờ mọi chuyện với Sophie lại bắt đầu không thuận lợi như khi Rigby còn sống, nên...”
“Rigby á?” “Cô chó ấy.”
“À phải rồi. Cô chó.”
“Nói chung là giả sử em và mẹ có thể chờ lâu đến thế. Chắc chúng em phải đợi mới biết được.”
Chị lắc đầu mấy lần. Tôi chẳng rõ vì sao chị lại lắc đầu như vậy.
“Sao ạ?” Tôi hỏi.
“À, chị quên mất. Chị quên mất là em già hơn khoảng hai chục tuổi so với tuổi thật.”
“Em xin lỗi vì đã chạy trốn và bặt vô âm tín lâu đến vậy. Điều kì quặc là, em còn chẳng giải thích nổi lí do nữa. Ý em là, em cảm thấy tồi tệ thật, nhưng em không biết tại sao mình lại thấy tệ đến thế. Nhiều khi cách em xử lý mọi việc không đúng với những chuyện đã xảy ra cho lắm.”
Chúng tôi lẳng lặng ăn tiếp trong một, hoặc hai phút. Tôi thấy may mắn khi chúng tôi im lặng đến thế, vì tôi bắt đầu cảm thấy mình thừa thãi. Tôi nhớ khi ông Paul nói về việc mở lòng với tôi, ông đã nói rằng não mình như bị đánh giấy ráp ấy. Và ông cần phải thu mình lại ra sao.
Tôi cũng bắt đầu cảm thấy y hệt như thế.
“Em thử nghĩ mà xem”, chị nói. “Khi ấy em nghe thấy hai người nói chuyện với nhau rõ to về bí mật của em, mà thậm chí em còn chưa dám thừa nhận cái bí mật đó nữa chứ.”
“Woa. Em nghĩ là chị hiểu vấn đề đấy.”
“Hiểu mà, chị từng trải qua cả rồi. Thế bây giờ mấy mẹ con em sống ở đâu vậy?”
Dường như chị hiểu tôi cần nói về thứ gì đó nhẹ nhàng hơn điều “bí mật” vừa rồi.
Tôi hít thật sâu, rồi nuốt thêm một miếng pizza nữa. Sau đó tôi nói với chị rằng chúng tôi đang sống trên núi. Chúng tôi cũng phải mất một lúc nữa để nói về chuyện đó, vì, bạn biết đấy, một khi bạn được sống ở nơi mình mong ước, thì sẽ có rất nhiều chuyện để kể cho mọi người.
Khi tôi chuẩn bị đi, chị nói, “Không phải em đến đây chỉ vì muốn xin lỗi chị, phải không?”.
“Không, em còn phải nói chuyện với người khác nữa cơ.”
Tôi thấy hơi mệt, dù mới chỉ bắt đầu thôi. Chị đưa tôi một tấm danh thiếp.
“Em không cần phải gọi hay viết thư cho chị thường xuyên đâu” chị nói. “Nhưng thi thoảng, chị sẽ rất vui nếu được nghe tin về em, ví dụ như em đang ở đâu, hay có khỏe không này.”
“Em bảo này. Em cá với chị thế này nhé. Em sẽ gửi thư từ Tây Tạng cho chị. À, tất nhiên trước đó em cũng sẽ gửi thư cho chị, nhưng dù có chuyện gì đi nữa, thì em hứa sẽ giữ lời và gửi thư cho chị từ Tây Tạng.”
Chúng tôi bắt tay nhau.
Tôi bước ra vỉa hè rồi thở phào một cái. Như thể từ lâu lắm rồi tôi mới được hít thở một cách sảng khoái đến vậy ấy. Và tôi nghĩ, ôi Chúa ơi. Con làm được chuyện đó rồi. Xong xuôi cả rồi. Mình đã bỏ lại chuyện đó sau lưng được rồi.
Sau đó tôi lại nhớ ra rằng gặp Nellie không phải nhiệm vụ chính của tôi. Đó thậm chí chẳng phải chuyện khó khăn nhất ấy chứ. Vì nếu tôi không nói chuyện được với Nellie, thì chẳng có ai phải chịu khổ trừ tôi. Nếu bạn đem chính mình ra đặt cược thì rủi ro của bạn chẳng ảnh hưởng gì đến hòa bình thế giới cả. Nhưng nếu bạn đặt cược một thứ gì đó của người khác, đó mới thực sự là điều khó khăn.
Tôi nhìn ngôi nhà của Dì Vi, rồi lại nhìn sang nhà bà Rachel. Rồi quay lại nhìn nhà Dì Vi. Tôi cố gắng quyết định.
Ngồi bên nhà Dì Vi dễ dàng hơn nhiều. Tôi cần cho bộ não vừa bị đánh giấy ráp của mình nghỉ ngơi. Nhưng chuyện đó đè nặng lên trái tim tôi, chuyện tôi định làm ấy. Và tôi biết mình sẽ chẳng thể yên lòng được, cho tới khi hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi đi tới tận cửa nhà bà Rachel, đưa tay lên gõ cửa, và đứng chết lặng. Dạ dày tôi nhói đau vì hoảng sợ. Tôi nghĩ mình sắp nôn đến nơi. Tôi nghĩ, Hay thôi không làm nữa. Nhỡ đây là chuyện hoàn toàn sai trái thì sao. Mày đang phá vỡ lời hứa đấy. Mày đang lấy cả tình bạn của ông Paul và mày ra đặt cược, và cả căn phòng mẹ con mày đang rất cần nữa chứ. Mày đang đặt cược niềm vui của hai người khác đấy. À, mà thực ra là năm người chứ. Nếu tính cả Sophie, mẹ và tôi.
Tôi nghĩ, Làm sao mày lại nghĩ mày có quyền làm thế cơ chứ?
Tôi quay người và đến ngồi trên bậc thềm, hai tay ôm đầu. Trong đầu tôi lại suy nghĩ. Mấy tháng vừa qua, tôi đã phải trăn trở mãi về quyết định này.
Rõ ràng suy nghĩ của tôi có lý. Tôi tới đây là có lí do cả. Không phải tôi không biết chuyện này mạo hiểm, nhưng tôi luôn thuyết phục bản thân rằng, đằng nào mình cũng phải làm vậy. Hết lần này tới lần khác, tôi vẫn luôn giữ nguyên chính kiến.
Được rồi, tôi nghĩ. Đằng nào mình cũng phải làm việc này thôi. Nhưng lúc đó tôi không đứng dậy.
Vì trước khi tôi kịp đứng lên, thì tôi nghe thấy tiếng bà Rachel hỏi, “Là Angie phải không?”.
Tôi giật nảy mình, vội quay ngoắt người đứng dậy, và chúng tôi nhìn nhau.
“Angie, cháu đang làm gì ở đây thế? Có chuyện gì với…?” “Không ạ! Không phải chuyện gì khẩn cấp đâu ạ. Không phải chuyện đó đâu ạ.”
“Ta không bao giờ nghĩ mình sẽ gặp cháu ở đây.” “Cháu biết ạ. Hôm nay cháu khiến mọi người kinh ngạc suốt mà. Kể cả cháu cũng ngạc nhiên lắm ạ.” Đến câu cuối tôi bắt đầu thì thào, nhưng có lẽ bà nghe thấy. “Thế cháu đến đây để gặp Dì cháu à?” “Không ạ, cháu tới nói chuyện với bà ạ.” “Ồ.”
Tôi thấy rõ vẻ ngạc nhiên của bà. Tôi nghĩ bà quá lịch sự nên đã không hỏi tôi, “Tại sao?”. Một lúc sau đó, bà chỉ im lặng.
Rồi bà nói, “Chà, vậy cũng tốt, vì Dì cháu không có nhà. Bà ấy không có ở nhà đâu”.
“Dì cháu không có ở nhà ạ?” Tôi nghĩ nét mặt mình đang sửng sốt thấy rõ.
Tôi lại bước thêm hai bước lên bậc cửa nhà bà, vì giờ đã có chủ đề khác để nói. Một chủ đề an toàn hơn.
“Ừ, bà ấy đi nghỉ tuần trăng mật.”
Tôi nghĩ khi ấy lông mày tôi nhướng lên vì kinh ngạc. Tôi chẳng nói gì, vì có nói thêm thì cũng chỉ khiến tình hình rắc rối thêm thôi.
“Cháu không biết bà ấy tái hôn à?”
“Không, cháu có biết đâu ạ. Cháu khá ngạc nhiên, nhưng cháu nghĩ là chuyện đó cũng bình thường thôi. Bác Charlie cũng qua đời lâu lắm rồi. Cháu nghĩ mọi người đều có quyền đi tìm hạnh phúc.”
“Cháu vào nhà đi.”
Nhưng tôi cứ đứng sững ở đó một lúc nữa. Tự nhiên tôi thấy sợ khi nghĩ rằng, ngộ nhỡ mình bước chân vào căn phòng khách kia, và thấy một người đàn ông ngồi đó. Có thể lắm chứ. Đến Dì Vi còn tái hôn cơ mà. Có khi bà Rachel cũng cảm thấy khó khăn khi phải sống lủi thủi một mình như vậy.
“Bà ơi”, tôi nói. “Không phải cháu không biết chuyện này kì quặc đâu. Và có thể cháu hơi khiếm nhã nữa. Bà không biết trước rằng cháu sẽ đến, và bản thân cháu cũng rất ghét khi nhà có khách không mời mà đến như vậy. Nên nếu bây giờ bà không tiện tiếp cháu, thì cháu sẽ đi chỗ khác ngay. Lát nữa cháu sẽ quay lại, hoặc để sáng mai cháu quay lại đây cũng được. Khi nào bà tiện tiếp cháu, thì cháu sẽ quay lại ạ.”
Có điều, tôi nhận ra rằng, kế hoạch xin tá túc nhà Dì Vi của tôi đã bị phá sản.
“Không sao đâu cháu. Ta chỉ đang ngồi đọc sách, rồi tự nhiên nhìn thấy cháu ngồi đó qua cửa sổ thôi.”
Tôi đi theo bà vào phòng khách và đưa mắt nhìn quanh.
Diện mạo của nó đã hoàn toàn thay đổi. Trông nữ tính hơn nhiều khi có những chiếc rèm cửa hoa. Và cũng có nhiều màu sắc hơn. Tôi không hề cảm thấy chật chội, nhưng đúng là trong căn phòng đó có nhiều đồ đạc hơn so với ông Paul hồi trước nhiều. Nhưng, nói thế cũng không đúng lắm, vì nhà nào chẳng có nhiều đồ hơn nhà ông Paul.
“Cháu ngồi đi”, bà nói. “Ta lấy cho cháu đồ uống gì nhé? Cháu uống sữa, nước, hay trà đá?”
“Cháu thích trà đá ạ. Cháu cảm ơn bà. Nếu bà không thấy phiền ạ.”
“Ta không phiền mà. Cháu có đói không?”
“Dạ không. Cháu cảm ơn ạ. Cháu vừa ăn pizza với một người bạn ở tiệm sách. Nhưng cháu rất cảm ơn vì bà đã hỏi ạ.”
Bà vào bếp, còn tôi ngồi lại trên tràng kỷ đầy lo lắng. Tôi cố gắng chấp nhận sự thật rằng dù thích hay không, thì tôi thực sự đã dấn thân vào chuyện này. Tôi chẳng thể quay đầu được nữa rồi.
Một lát sau, bà tới tràng kỷ rồi đưa cho tôi một ly trà đá cùng một chiếc lót cốc.
“Là Nellie à?” Bà cất tiếng hỏi.
Câu hỏi của bà khiến tôi thực sự bối rối. Tôi không biết sao bà lại hỏi về cái tên đó, và sao bà biết tôi đã gặp một người tên là Nellie nữa. Tôi thề, khi đó tôi cứ nghĩ bà nhìn thấu tâm trí tôi và đọc được cả suy nghĩ của tôi nữa.
“Sao bà lại hỏi cháu về cái tên đó ạ?”
“Ta chỉ thắc mắc liệu đó có phải người bạn ở tiệm sách khi nãy cháu nhắc tới không. Người ăn pizza cùng cháu ấy.”
“À. Vâng ạ. Bà biết chị ấy ạ?”
“Ta tới tiệm sách đó suốt mà. Gần như tuần nào ta cũng tới đó.”
“À, ra thế ạ.”
Tôi suy nghĩ một hồi, và cũng vỡ ra đôi điều. Tiệm sách chỉ cách nhà bà chưa đầy một dặm thôi mà. Nhưng tôi thấy kì ghê. Như thể vũ trụ lại thẳng hàng, và những người tôi quen hóa ra đều quen biết nhau hết. Nhưng tôi chẳng tìm được lí do nào hợp lý để giải thích điều đó.
Bà ngồi đối diện tôi trên chiếc ghế bành kiểu cổ, còn tôi thì cố gắng kéo tâm trí mình ra khỏi cơn cuồng quay. Tôi muốn dùng hai tay giữ đầu mình lại, có cảm giác như nó sắp rơi bịch xuống đất, hoặc bay vèo lên không trung vậy.
“Ta biết cháu định nói gì đó liên quan đến Paul”, bà nói. “Vì ông ấy là bạn chung duy nhất của chúng ta.”
“Vâng. Đúng là thế ạ.” “Ông ấy ổn chứ?”
“So với lần cuối cùng bà đến chơi thì ông vẫn vậy thôi ạ.” “Nhưng cháu không nghĩ như vậy là ổn à?”
“Ông Paul yêu bà đó ạ”, tôi nói. Và tôi cứ tiếp tục liến thoắng, để giảm nhẹ sức nặng của câu nói vừa rồi. “Và ông không đủ dũng cảm để nói với bà. Nên là, không ạ. Cháu không nghĩ ông ấy ổn. Bà ơi. Ông Paul không biết cháu tới đây. Và nếu ông biết, thì chắc ông sẽ hoảng lắm. Giờ cháu đang đặt cược cả cuộc đời của mình cho chuyện này đấy ạ.
Nhưng cháu không nghĩ ông ấy sẽ làm chuyện đó. Ý cháu là việc tỏ tình với bà ấy ạ. Và cháu không thể chấp nhận được rằng một chuyện như vậy nên được giữ bí mật vĩnh viễn. Vì hiện giờ ông Paul hoàn toàn cô độc. Ông thậm chí còn chẳng còn Rigby ở bên nữa. Và cháu không có ý thúc ép hai ông bà phải đến với nhau đâu, vì cháu có biết tình cảm của hai người dành cho nhau ra sao đâu? Chỉ hai người biết được điều đó thôi. Nhưng đó lại chính là vấn đề ạ. Chỉ có hai người biết thôi. Nên đó là việc hai người phải quyết định. Nhưng làm sao quyết định đúng đắn được, khi một trong hai người không hề hay biết gì ạ?”
Tôi ngừng nói. Và hít thở. Rồi lén ngước lên nhìn bà Rachel. Bà đang cầm một tách trà được đặt trên đĩa, và ngón tay bà liên tục mân mê chiếc quai trên tách trà. Bà cũng đang nhìn vào đó rất chăm chú, nên tôi chẳng suy luận được gì từ vẻ mặt của bà. Trông bà có vẻ như đang lạc lối trong suy nghĩ của chính mình.
Sau khoảng một, hai chục giây, mà tôi thì có cảm giác như hẳn ba trăm sáu mươi lăm ngày đã trôi qua, bà nói, “Cháu chắc chắn về điều mình vừa nói tới mức nào?”.
“Cháu hoàn toàn chắc chắn ạ. Ông Paul và cháu đã nói chuyện với nhau về điều đó mà.”
“Nghe không giống Paul mà ta quen cho lắm.”
“Cháu biết ạ. Cháu cũng từng nghĩ vậy đó ạ. Nhưng thực sự ông ấy và cháu đã nói chuyện. Cháu nghĩ là suy cho cùng thì ông cũng phải tâm sự với ai đó. Ông ấy thực sự đã giấu bà cảm xúc của mình ngần ấy năm trời thật ạ? Cháu không thể tưởng tượng nổi đấy. Cháu cứ nghĩ ông ấy vẫn thể hiện tình cảm của mình, dù chỉ qua vài cử chỉ nhỏ xíu chứ ạ?” Bà thở dài. Bà vẫn chăm chú nhìn tách trà.
“Không hẳn là bí mật đâu. Ta đã nhận ra tình cảm của Paul từ khi chúng ta mới quen nhau cơ. Nhưng sau bao nhiêu năm trời… Thật ư? Ta không biết nữa. Ta đã nghĩ, hoặc là ông ấy vẫn còn yêu ta, hoặc ông ấy không còn thích ta như trước nữa. Vì Paul luôn tìm cách giữ khoảng cách với ta. Sau khi Dan qua đời, ta cứ hy vọng Paul sẽ nói gì đó. Nhưng chuyện đó từ tận hai năm trước rồi. Nên từ lâu ta đã luôn tự nhủ rằng mình đã lầm.”
“Bà không lầm đâu ạ.”
“Nếu thế thì tại sao Paul không nói chứ? Cháu vừa nói là hai người tâm sự với nhau, phải không? Paul có nói cho cháu lí do không?”
“Ông có nói với cháu một lí do. Cháu không rõ liệu đó có thật sự là lí do không. Ông nói chuyện thổ lộ giống như đem tình bạn của hai người ra đánh cược vậy. Ông nói hiện giờ ông đã có được một nửa điều mình mong muốn rồi. Nhưng nếu ông thổ lộ lòng mình, và bà lại không cảm thấy thế, thì ông sẽ thấy vô cùng tồi tệ và xấu hổ, còn bà có thể sẽ thấy có lỗi vì đã làm tổn thương ông. Và ông cũng lo lắng rằng tình bạn của hai người sẽ rạn nứt nữa ạ.”
Tôi dừng một chút để lấy hơi. Tôi biết mình vẫn chưa nói hết. Hình như bà Rachel cũng nhận ra điều đó, nên tôi tiếp tục.
“Cháu cần giải thích với bà lí do cháu nói ra điều này”, tôi nói. “Bình thường cháu không phải loại người đi can thiệp vào cuộc sống người khác như thế này đâu ạ. Nhưng cháu đã suy nghĩ những sáu tháng nay rồi. Và cháu nghĩ là… đây có lẽ là việc ông ấy không thể làm, nhưng cháu thì có thể. Bởi nếu cháu tới nói với bà về tình cảm của ông ấy, mà nhỡ bà không cảm thấy như vậy, thì hai người chẳng cần thay đổi gì cả. Bà có thể giả vờ như những chuyện này chưa từng xảy ra. Ông Paul sẽ không tổn thương, vì ông không hề biết cháu đã nói với bà. Đúng là rất mạo hiểm, nhưng cháu thấy chuyện này có lý. Và cháu không yêu cầu bà phải công nhận rằng việc cháu làm là đúng đắn. Nhưng… bà có thấy suy nghĩ của cháu có lý không ạ? Bà có hiểu được lí do cháu quyết định tới đây không ạ?”
Bà ngước lên nhưng không nhìn tôi, mà lại hướng mắt ra cửa sổ. Đường sống mũi thẳng khiến khuôn mặt bà khác biệt với tất cả mọi người, nhưng là khác kiểu đặc biệt. Cá nhân tôi thấy khuôn mặt bà rất đẹp.
“Ta nghĩ cháu rất quan tâm tới Paul và muốn làm điều tốt cho ông ấy”, bà đáp.
“Bà có nghĩ đó thực sự là lí do không ạ? Điều ông Paul nói với cháu ấy? Nhiều khi cháu nghĩ ông chỉ sợ hãi quá mức thôi, nhưng ông thì không muốn thừa nhận điều đó.”
“Ta nghĩ có thể có nhiều lí do khác nữa chứ.” “Vâng. Đúng ạ.”
Sau đó tôi thắc mắc sao mình không nghĩ được như vậy. “Nhưng ta vẫn không…”, bà nói. Đột nhiên bà bắt đầu ngập ngừng giống như tôi. Dường như bà không thể diễn tả được suy nghĩ của mình. “Chỉ là ta… ta không muốn tỏ ra nghi ngờ cháu đâu, Angie ạ. Và điều cháu vừa nói nữa.
Nhưng ta không thể tưởng tượng nổi là Paul lại kể cho cháu chuyện to tát thế này.”
“Nói đúng ra thì ông Paul không kể cho cháu ạ. Là cháu tự nhìn thấy thôi.”
“Nhưng sao cháu thấy được, còn ta thì không?”
“Vì cháu biết những chuyện xảy ra khi bà không có mặt ở đó, nhưng bà thì không. Ví dụ như chuyện ông Paul đặt tấm ảnh bà trên giá sách. Đó là tấm ảnh duy nhất có mặt người trong nhà ông ấy. Mà thực ra đó là tấm ảnh duy nhất có mặt người cháu từng thấy trong nhà ông Paul ấy chứ. Nhưng khi bà tới giúp ông chuyển nhà thì ông lại cất nó đi.”
Tôi thấy bà trầm ngâm suy nghĩ một lúc.
“Đó là lí do cháu nghĩ cháu đã từng gặp ta”, bà nói. “Vâng ạ. Và khi đó ông Paul nhìn cháu, như kiểu muốn hét lên ‘ĐỪNG!’. Nên cháu đã không nói gì thêm nữa. Nhưng sau khi chuyển đến nhà mới, thì đó lại là thứ đầu tiên ông lấy ra từ mấy thùng đồ. Bức ảnh của bà ấy ạ. Và ông ấy biết cháu đã nhìn thấy nó. Nên ông đã nói vài câu, đại loại là dính dáng đến người khác trong đời thật rắc rối. Nên cháu đã kể cho ông một chuyện về cháu để giúp ông nguôi giận. Kể từ đó ông Paul và cháu bắt đầu tâm sự những chuyện như vậy với nhau ạ.”
Tôi thấy bà đặt tách trà của mình lên phía cuối bàn nước. Sau đó bà gục đầu vào lòng bàn tay.
Tôi chờ đợi. Tôi cảm giác mình đã ngồi đợi bà rất lâu. Sau đó tôi hỏi, “Bà có sao không ạ?”.
“Có và không. Chỉ là… điều đó đúng là giống Paul thật. Điều cháu vừa nói ấy. Và giờ thì ta tin điều cháu nói là thật.”
Tôi nuốt nước bọt mấy lần, thầm nghĩ có lẽ chuyện này không ổn rồi. Tôi thấy lòng mình nặng trĩu như có đá tảng đè.
“Chuyện này thực sự tệ lắm ạ?”
Một lúc lâu sau đó, bà chẳng nói gì cả. Lâu đến nỗi, khi ngắm ánh mặt trời xiên qua ô cửa sổ và rọi sáng những hạt bụi nhỏ trong không trung, tôi cứ nghĩ ánh nắng dịch chuyển mấy lần. Nhưng hình như không phải vậy. Có lẽ thời gian bị giãn ra trong tâm trí tôi mà thôi.
“Cháu xin lỗi vì đã làm bà buồn”, tôi nói. Tôi nghĩ câu đó khiến cả bà và tôi đều giật mình. “Cháu đã nghĩ, có thể đây là một quyết định sai lầm. Nhưng mặt khác, cháu lại nghĩ đây là điều đúng đắn. Và tốt đẹp nữa. Nhưng cháu không thể biết chuyện đó là tốt hay xấu nếu vẫn ngồi nhà. Giống như khi ông Paul dạy cháu câu cá. Ông nói, thi thoảng cá sẽ cắn câu, và thi thoảng chúng lại chẳng cắn câu nữa. Và khi cháu hỏi, ‘Sao ông biết được ạ?’, thì ông đáp, ‘cháu phải quăng dây câu xuống nước thì mới biết cá có cắn câu hay không chứ’. Ông cũng nói, nếu ông biết điều đó trước khi ra khỏi nhà, thì ông sẽ viết bí kíp lại thành sách rồi đem bán cho dân chài lưới khắp thế giới.”
Bà khẽ mỉm cười. Tôi nghĩ, có lẽ đó là dấu hiệu tốt. Nhưng nếu thế thật, thì dấu hiệu tốt này hơi nhỏ quá.
Tôi lại đợi bà nói tiếp. Tôi suýt thì tưởng bà quên mất cách phát âm rồi.
Một lúc lâu sau, bà nói, “Sau từng ấy năm, mà ông ấy chẳng hề lập gia đình. Ta rất muốn tin rằng đó không phải lỗi của ta”.
“Đó không phải lỗi của bà đâu ạ. Cháu nghĩ là không ai có lỗi cả.”
“Có thể lắm. Nhưng ta lại không cảm thấy thế.” “Cháu xin lỗi. Cháu nghĩ có lẽ điều này là sai lầm.”
“Ta không biết nữa. Không hẳn vậy. Sự thật vẫn là sự thật. Ta nghĩ mình cũng phần nào cảm nhận được điều đó, từ trước khi cháu nói nữa kìa.”
“Cháu mong bà sẽ không kể cho ông Paul rằng cháu đã tới đây. Thực sự thì cháu nghĩ mình không thể ngăn cấm được bà. Nhưng nếu ông Paul không biết chuyện đó thì tốt hơn ạ.”
“Ta sẽ không kể cho Paul đâu”, bà đáp. “Để ông ấy không thấy ngại. Và như vậy thì tình bạn giữa cháu và Paul sẽ không bị sứt mẻ. Ta nghĩ Paul rất cần tình bạn này đấy.”
“Cháu phải đi đây ạ. Cháu cần phải bắt chuyến xe buýt cuối ngày. Cháu cứ tưởng mình có thể xin tá túc nhà Dì Vi, nhưng nếu Dì không có nhà thì… Chuyến xe cuối ngày rời bến lúc sáu giờ ạ.”
Bà liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay.
“Ta sẽ dọn cho cháu một phòng”, bà nói. “Bây giờ là mấy giờ ạ?”
“Năm giờ hai mươi lăm rồi. Kể cả ta có đưa cháu tới đó bằng ô tô thì cũng chẳng đến kịp đâu. Bây giờ đang là giờ tan tầm mà.”
“Cháu xin lỗi vì đã đến làm phiền bà thế này.”
“Ta không phiền mà. Nhưng… mẹ và em gái cháu đang ở đâu thế?”
“Họ ở nhà ạ.”
“Cháu tự đến đây một mình á?” “Vâng, thưa bà.”
“Cháu không cần phải ‘thưa bà’ với ta đâu. Gọi ta là Rachel được rồi.”
“Cháu xin lỗi. Đó là thói quen xấu của cháu ạ. Cháu gọi tất cả mọi người là ‘thưa bà’, ‘thưa cô’, dù họ có muốn vậy hay không. Cháu nghĩ cháu hơi lịch sự thái quá ạ.”
“Cháu tự mua vé xe đến đây à?” “Vâng, thưa… à không, bà Rachel.”
“Thế cháu đi từ trung tâm thành phố về đây thế nào?” “Cháu chuyển tuyến xe buýt. Và đi bộ nữa ạ.”
“Sao cháu không gọi điện thoại cho ta?”
“Dạ. Thì cháu không muốn lấy trộm số điện thoại của bà từ nhà ông Paul. Và cháu càng không muốn ông ấy biết rằng cháu sắp đến gặp bà. Mà cháu thì không biết họ của bà nữa…”
Bà nhìn tôi đầy hiếu kì. Trông bà có vẻ thích thú. “Cháu không biết họ của ta á?”
“Vâng. Làm sao cháu biết được ạ?”
“Thế cháu biết họ của ông Paul không?” “Có chứ ạ. Là Inverness.”
“Thì của ta cũng vậy thôi.”
Tôi hiểu ra. Và sau đó tự đánh mình một phát ngay giữa trán.
“Cháu không thể tin được. Đây là điều ngu ngốc nhất cháu từng làm. Nhưng, thực sự… nếu cháu có số điện thoại của bà… thì cháu cũng không định nói một chuyện hệ trọng thế này qua điện thoại đâu. Sao cháu có thể làm thế chứ? Cháu phải lên xe về đây để nói chuyện trực tiếp với bà chứ.”
“Được rồi”, bà nói. “Vậy thì dọn dẹp cho cháu một phòng chẳng hề vất vả gì, so với những điều cháu đã làm cho ta đâu.”
Chúng tôi ăn tối muộn, lúc đó gần tám giờ tối. Tôi không đói lắm, vì cũng vừa ăn pizza lúc chiều muộn rồi mà.
Bà Rachel làm món mì Ý sốt thịt băm ngon tuyệt. Bà nấu ăn rất ngon.
Chúng tôi chỉ chủ yếu nói chuyện về Rigby.
“Cháu nhớ Rigby quá”, tôi nói. “Bà đừng kể với ai nhé. Vì cháu biết điều này nghe khá kì quặc. Nhưng thi thoảng cháu nghĩ mình nhớ Rigby còn nhiều hơn ông Paul nữa.”
“Không đâu. Chẳng ai nhớ nó nhiều hơn Paul cả.” “Cháu cũng nghĩ vậy. Nhưng cháu lại không cảm thấy thế.”
“Là do trong lòng cháu nhớ Rigby nhiều hơn những gì Paul tỏ ra bên ngoài thôi.”
“Vâng. Nghe có lý đấy ạ. Dù sao Rigby cũng là bạn tốt của cháu. Và cháu chẳng có nhiều bạn bè lắm. Ông Paul và cháu cùng có điểm chung là ít bạn bè đấy ạ.”
“Paul và cháu có rất nhiều điểm chung mà.” “Thật ạ? Còn điều gì nữa ạ?”
“Cả hai người đều rất thông minh. Và rất cẩn trọng với suy nghĩ và tình cảm của mình. Hai người còn thích giấu kín nỗi đau trong lòng để không ai khác thấy được. Và hai người đều đặt ra tiêu chuẩn cao cho bản thân và những người khác. Cháu thử tưởng tượng xem ông ấy sẽ thấy khó khăn nhường nào khi không có cháu ở đó.”
“Nhưng ông Paul có bà mà.”
Câu đó như gáo nước lạnh ấy. Bà im lặng ngay lập tức. Rõ ràng bà không định nói gì nữa, nên tôi đành nói tiếp.
“Cháu nghĩ chắc bà không có chung cảm nhận với ông Paul. Bởi nếu có, thì bà đã nói với cháu rồi. Hoặc bà đã tỏ ra vui hơn một chút. Hoặc đại loại thế.”
Bà im lặng. Tôi không biết liệu sự im lặng đó có phải vì bà công nhận tôi đúng hay không.
“Chuyện không đơn giản như cháu nói đâu, Angie à. Ta không biết mình đang cảm thấy thế nào nữa. Ta với ông ấy chỉ là bạn suốt năm mươi mốt năm qua. Ta không biết điều gì sẽ xảy ra nếu ta nhìn ông ấy theo một góc độ khác. Có lẽ ta cần chút thời gian để suy nghĩ rồi mới quyết định được.”
“Cháu xin lỗi. Cháu nghiêm túc đấy ạ. Cháu xin lỗi bà. Thực sự đó không phải chuyện của cháu. Dù cháu biết nói ra như vậy thì hơi kì, bởi cháu vừa mới can thiệp vào chuyện của hai người xong. Nhưng thực sự đây không phải chuyện của cháu đâu ạ. Cháu chỉ đến đây để nói với bà, chứ không phải để điều tra xem bà quyết định ra sao. Cháu sẽ về nhà và không can thiệp sâu thêm nữa. Cháu sẽ không nhắc lại, hay hỏi bà về chuyện này nữa. Cháu hứa đấy ạ.”
Tôi cứ nghĩ bà sẽ nói gì đó đáp lại, nhưng bà vẫn lặng im. Chúng tôi cứ lẳng lặng ăn bữa tối như vậy thêm một lúc lâu.
“Sáng mai ta sẽ lái xe đưa cháu đến bến xe nhé”, bà Rachel nói.
“Cháu cảm ơn ạ. Bà thật tốt bụng khi đề nghị giúp cháu như vậy. Nhưng lúc đó còn sớm quá, cháu không muốn bà phải dậy sớm thế vì cháu đâu ạ.”
“Sáng nào ta cũng dậy lúc bốn giờ mà.”
“Thật ạ? Tại sao ạ? À, cháu xin lỗi. Cháu lại hỏi sai rồi. Bà có thể dậy bất cứ khi nào bà muốn mà. Đó không phải chuyện của cháu.”
“Vì lúc đó rất yên tĩnh. Và đó là thời điểm thích hợp nhất để ta tập thiền. Nhưng đến bốn rưỡi ta sẽ tập xong. Nên cháu cứ để ta đưa đi nhé?”
“Cháu cảm ơn bà. Bà thật tốt ạ.”
Trong phòng ngủ cho khách có một chiếc đồng hồ đặt ngay cạnh giường, và nó cứ tích tắc hoài. Đầu tiên tôi nghĩ mình sẽ không ngủ nổi trong tiếng tích tắc đó. Nhưng đến khi tôi giật mình tỉnh giấc, thì đồng hồ đã chỉ mười một giờ kém.
Và tôi nghĩ mình nghe thấy tiếng bà Rachel.
Tôi trèo xuống giường và mò mẫm trong bóng tối để tiến tới bức tường ngăn giữa phòng tôi và phòng bà. Tôi áp sát tai vào lớp thạch cao, nhưng vẫn chẳng nghe thấy, chỉ thấy mỗi tiếng ù ù thôi.
Đầu tiên, tôi nghĩ, Chắc bà ấy gọi điện mách mẹ mình rồi. Nhưng bà sẽ không gọi cho mẹ tôi muộn thế này đâu. Tất nhiên tôi đang hy vọng là bà không làm thế.
Sau đó, tôi lại nghĩ, Chắc bà ấy gọi cho ông Paul. Hoặc bà ấy nói mớ.
Hoặc bà ấy đang độc thoại.
Tôi hơi tò mò muốn biết bà đang nói chuyện gì. Tôi có thể ra hành lang rồi kiếm chỗ đứng gần phòng bà. Hoặc tôi có thể nghe qua cửa phòng.
Nhưng tôi không làm thế.
Tôi quay lại giường. Tôi cứ nhắc đi nhắc lại với bản thân rằng, “Không phải chuyện của mình. Không phải chuyện của mình. Không phải chuyện của mình”.
Tôi biết có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ biết được bà nói chuyện với ai. Nhưng tôi rất mong bà đã nói chuyện với ông Paul.
Cuối cùng tôi cũng ngủ lại được, dù giấc ngủ không sâu, cứ một chốc tôi lại lơ mơ tỉnh dậy.
“Bà không cần đỗ xe và tiễn cháu đâu ạ” tôi nói. “Cháu xuống ở đây là được rồi ạ. Bà đã làm nhiều điều cho cháu rồi. Thật đấy ạ.”
Bà lùi xe vào Nơi Bốc Dỡ35 rồi chuyển số về đỗ xe. Bà để động cơ nghỉ.
35 Nguyên văn: Loading zone.
“Cháu có vé về chưa?” “Cháu có rồi ạ.”
“Thế cháu có đủ tiền mua đồ ăn chứ?” “Cháu có rồi ạ. Cháu còn chút tiền lẻ khi mua vé xe buýt.” “Ta nghĩ cháu đến đây là đúng đắn đấy.”
Tôi nhìn vào mắt bà, nhưng bà không nhìn lại tôi. Bà đang tập trung nhìn vào hai bàn tay đặt trên vô-lăng. Đôi tay bà rất đẹp, hầu như chẳng có dấu hiệu lão hóa nhăn nheo như những người già khác.
“Thật ạ?”
“Ta nghĩ vậy. Ta cảm thấy bấy lâu nay trong lòng mình có điều khúc mắc, và cháu đã giúp ta gỡ rối. Ta không biết mọi chuyện về sau sẽ ra sao, nhưng dù đó là gì thì vẫn tốt hơn là giữ khúc mắc trong lòng mình những năm mươi năm trời.”
Tôi hít một hơi thật sâu, như thể tôi đã nín thở từ lâu lắm. Tôi chẳng biết mình nên đáp lời bà ra sao. Và tôi nghĩ bà cũng cảm thấy như vậy.
“Ta sẽ lại tới chơi sớm thôi”, bà nói. “Vậy thì tốt quá ạ. Cháu cảm ơn bà.”
Tôi nhảy khỏi xe.
Sau đó tôi bắt đầu chuyến hành trình dài và đáng sợ về nhà.